Bình giảng mười câu đầu trong bài “ Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm “ Em ơi, buồn làm chi. (…) Sao xót xa như rụng bàn tay”

Mười câu đầu là cái nhìn toàn cảnh “Bên kia sông Đuống”

- Sáu câu đầu có vần “i” chi phối. Những câu thơ nghe như một tiếng an ủi, thầm thì của nhân vật trữ tình với “em”. Ngỡ như có một người con gái nhỏ đầy đau khổ, đứng chết lặng bên này sông mà không được qua sông. Tác giả lên tiếng vỗ về “em” nhưng cũng là vỗ về chính mình.

- “Em” là một đại từ không xác định. Em là một cô gái đã gắn bó với “Bên kia sông Đuống” em là người đồng quê. Em là một cô gái Kinh Bắc của ngày xưa, đã từng quen nhau, đã từng gắn bó, nhưng chưa có điều kiện để cau trầu. Cho nên tương lai hết bóng giặc: “ Anh lại tìm em”. Nhà thơ cần có một đối tượng để được giãi bày tâm tình dào dạt của mình. “Em” có thể là nhân vật của kí ức, cũng có thể là nhân vật trữ tình tự phân thân đấy thôi.

- Toàn cảnh không chỉ có không gian mà cả thời gian nữa. Ta thấy dòng thời gian tha thiết trôi theo dòng sông Đuống.

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Thật khó giải thích cho ra lẽ cái “nằm nghiêng nghiêng” của con sông Đuống. Chỉ biết rằng cái dáng ấy mới tạo cho sông Đuống thành một sinh thể có hồn và đầy tâm trạng.

Cái nép mình e lệ bên “bãi mía bồ dâu” tạo nên duyên sắc cho một dòng sông? Hay là sự lo âu, vắng lặng khi giặc về? Không biết sông Đuống là con sông thứ bao nhiêu rồi đi vào sáng tác văn chương, đặc biệt là nó đã chảy vào thơ những mạch nguồn rào rạt . Song, dường như phần lớn, chúng đều được bắt nguồn từ nỗi nhớ của các nhân vật trữ tình. Từ “Nhớ con sông quê hương”, “Giữ bao kỷ niệm giữa dòng trôi” đến “Dòng sông quê hương trong vắt” trong “đôi mắt” “em”của Tế hanh, từ lời thì thầm: “ Quý con sông Hồng phù sa cuộn đỏ”đến thiết tha: “Yêu con sông Thương nước chảy đôi dòng” của Nguyễn Viết Lãm Cho nên, chúng thường mang cái dáng xưa là rất yếu. Con sông Đuống của Hoàng Cầm thì lại khác. Ở đây có sự chập lại giữa hai thì: hiện tại và quá khứ. Hiện tại – nếu ta chỉ nhìn cục diện khổ thơ đang xét. Còn quá khứ? Chính là bờ “Cát trắng phẳng lì” gắn với “ngày xưa” (“Ngày xưa cát trắng phẳng lì”). Khổ thơ trên đã cổ tích hóa con sông, trùm phủ lên nó một lớp khói sương lãng đãng. Dĩ nhiên chưa tới độ “mịt mờ” như mặt Hồ Tây trong bài ca dao kia nhưng cái lớp sương khói cũng đủ nói với ta rất nhiều về một khoảng không gian tâm tưởng. Vâng! Chỉ có không gian tâm tưởng và chỉ có cảm xúc nằm trong không gian tâm tưởng mới thực sự làm cơ sở ban đầu để tác giả viết hai câu xếp vào loại những câu thơ hay nhất của nền thơ hiện đại.

 

doc4 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1871 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bình giảng mười câu đầu trong bài “ Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm “ Em ơi, buồn làm chi. (…) Sao xót xa như rụng bàn tay”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG I. TƯ LIỆU VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM “Mẹ tôi là người vùng quan họ. Bà thuộc rất nhiều làn điệu và hát hay nổi tiếng trong vùng. Hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư ảo của những câu ca quan họ đã thấm đẫm trong hồn tôi từ những ngày nhỏ dại. Suốt thời thơ ấu tôi sống ở làng quê. Năm lên 8 tuổi tôi đã làm bài thơ lục bát đầu tiên, viết bằng bút chì xanh đỏ, gửi cho một cô gái rất đẹp ở gần nhà, tên là Vinh. Lúc bắt đầu đi học, tôi học ở Bắc Giang. Lớn hơn một chút, lúc học Cao đẳng tiểu học tôi lại về Bắc Ninh… Cô đã nhắc đến bài thơ Bên kia sông Đuống thì tôi cũng xin kể luôn về trường hợp tôi sáng tác bài thơ này. Đó là dịp đầu năm 1948. Sau tết ta, trời đã chuyển sang tiết xuân nhưng vẫn còn hơi lạnh. Tôi cùng với Nguyên Hồng, Nguyễn Địch Dũng, Xuân Thu, Hoàng Tích Linh, Kim Lân… đóng ở làng Thượng, huyện Phú Bình, Thái Nguyên. Bên kia sông Đuống, dọc theo hữu ngạn là vùng quê tôi gồm: Gia Lâm, Lương Tài, Gia Bình, Thuận Thành. Kéo dài một vệt đến tận Phả Lại. Đó là một miền quê thơ mộng, trù phú. Nhưng từ năm 1947, quân Pháp đã tràn lên chiếm đóng, càn quét. Lúc bấy giờ, ông Vương Văn Trà, người cùng làng tôi thành lập một tiểu đoàn du kích lấy tên là tiểu đoàn Thiên Đức đánh lại quân Pháp. Do thế địch đang mạnh nên đầu năm 1948 tiểu đoàn phải rút lui lên khu an toàn. Nơi đây, ông Chu Tấn Văn và ông Lê Quảng Ba lúc đó ở Bộ tư lệnh khu XII yêu cầu ông Vương Văn Trà báo cáo tình hình. Hôm đó, tôi được mời nghe. Đêm về tôi không sao ngủ được.Lòng buồn nôn nao nỗi nhớ tiếc quê hương bị chiếm đóng, tàn phá. Bao tình cảm riêng – chung lẫn lộn cứ trào lên mãnh liệt. Và thế là, trong khi các đồng chí đang ngủ ngon giấc, tôi thắp đèn ngồi viết Bên kia sông đuống . Tôi còn nhớ rất rõ trạng thái xúc cảm của tôi khi viết bài thơ này. Dường như tôi viết không kịp. Phải cố gắng lắm tôi mới theo đuổi được những câu thơ, ý thơ dồn dập, trào lên ngọn bút. Chưa bao giờ tôi thấy quê hương lại cụ thể, máu thịt xót xa dường ấy. Toàn thân tôi run lên. Những hình ảnh, âm thanh màu sắc dệt nên quê hương thân yêu giờ như chìm trong lửa cháy, nước mắt và trong “ …máu loang chiều mùa đông”. Sau mỗi câu viết ra, tôi cảm thấy ớn lạnh cả xương sống. Dường như chúng từ đó mà ra. Cứ như thế, cho đến khi tôi viết câu thơ cuối cùng “ Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh” thì cũng là lúc trời rạng sáng. Lúc này tôi mới thấm mệt nhưng trong lòng lại thấy thanh thản, nhẹ nhõm như vừa được giải tỏa. Thấy Nguyên Hồng có vẻ đã thức giấc, tôi gọi anh dậy và đọc bài thơ cho anh nghe. Mới được dăm câu anh đã khóc. Nguyên Hồng vẫn vậy, và cứ thế nức nở cho đến khi tôi đọc hết bài thơ. Anh đòi đánh thức cả Nguyễn Địch Dũng, Xuân Thu, Kim Lân dậy để tôi đọc lại. Sau đó anh bắt tôi chép thành ba bản. Một bản gửi cho báo Cứu quốc, chỗ anh Như Phong và anh Tô Hoài. Một bản gửi cho báo nhân dân. Một bản gửi đến Hội Văn Nghệ, chỗ anh Nguyễn Huy Tưởng. Bài thơ được báo Cứu Quốc in lần đầu tiên khoảng tháng 6/1948. Cho đến giờ, tôi vẫn thích phần đầu của bài thơ. Đó là những gam màu hồn nhiên nhất, tươi tắn nhất trong bức tranh quê hương. Đó là những xúc cảm mãnh liệt nhất, trong sáng nhất mà tôi dành cho miền đất thân yêu của tôi” (Trích bài “ Chuyện về lá diêu bông và bài thơ Bên kia sông Đuống” do Hoàng Cầm kể. Lưu Khánh Thơ ghi, tạp chí văn học số 3, 1991) Đề 1: Bình giảng mười câu đầu trong bài “ Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm “ Em ơi, buồn làm chi. (…) Sao xót xa như rụng bàn tay” *Bài làm Mười câu đầu là cái nhìn toàn cảnh “Bên kia sông Đuống” - Sáu câu đầu có vần “i” chi phối. Những câu thơ nghe như một tiếng an ủi, thầm thì của nhân vật trữ tình với “em”. Ngỡ như có một người con gái nhỏ đầy đau khổ, đứng chết lặng bên này sông mà không được qua sông. Tác giả lên tiếng vỗ về “em” nhưng cũng là vỗ về chính mình. - “Em” là một đại từ không xác định. Em là một cô gái đã gắn bó với “Bên kia sông Đuống” em là người đồng quê. Em là một cô gái Kinh Bắc của ngày xưa, đã từng quen nhau, đã từng gắn bó, nhưng chưa có điều kiện để cau trầu. Cho nên tương lai hết bóng giặc: “ Anh lại tìm em”. Nhà thơ cần có một đối tượng để được giãi bày tâm tình dào dạt của mình. “Em” có thể là nhân vật của kí ức, cũng có thể là nhân vật trữ tình tự phân thân đấy thôi. - Toàn cảnh không chỉ có không gian mà cả thời gian nữa. Ta thấy dòng thời gian tha thiết trôi theo dòng sông Đuống. Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì… Thật khó giải thích cho ra lẽ cái “nằm nghiêng nghiêng” của con sông Đuống. Chỉ biết rằng cái dáng ấy mới tạo cho sông Đuống thành một sinh thể có hồn và đầy tâm trạng. Cái nép mình e lệ bên “bãi mía bồ dâu” tạo nên duyên sắc cho một dòng sông? Hay là sự lo âu, vắng lặng khi giặc về? Không biết sông Đuống là con sông thứ bao nhiêu rồi đi vào sáng tác văn chương, đặc biệt là nó đã chảy vào thơ những mạch nguồn rào rạt …. Song, dường như phần lớn, chúng đều được bắt nguồn từ nỗi nhớ của các nhân vật trữ tình. Từ “Nhớ con sông quê hương”, “Giữ bao kỷ niệm giữa dòng trôi” đến “Dòng sông quê hương trong vắt” trong “đôi mắt” “em”của Tế hanh, từ lời thì thầm: “ Quý con sông Hồng phù sa cuộn đỏ”đến thiết tha: “Yêu con sông Thương nước chảy đôi dòng” của Nguyễn Viết Lãm… Cho nên, chúng thường mang cái dáng xưa là rất yếu. Con sông Đuống của Hoàng Cầm thì lại khác. Ở đây có sự chập lại giữa hai thì: hiện tại và quá khứ. Hiện tại – nếu ta chỉ nhìn cục diện khổ thơ đang xét. Còn quá khứ? Chính là bờ “Cát trắng phẳng lì” gắn với “ngày xưa” (“Ngày xưa cát trắng phẳng lì”). Khổ thơ trên đã cổ tích hóa con sông, trùm phủ lên nó một lớp khói sương lãng đãng. Dĩ nhiên chưa tới độ “mịt mờ” như mặt Hồ Tây trong bài ca dao kia nhưng cái lớp sương khói cũng đủ nói với ta rất nhiều về một khoảng không gian tâm tưởng. Vâng! Chỉ có không gian tâm tưởng và chỉ có cảm xúc nằm trong không gian tâm tưởng mới thực sự làm cơ sở ban đầu để tác giả viết hai câu xếp vào loại những câu thơ hay nhất của nền thơ hiện đại. “Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì” Biết cắt nghĩa làm sao cái “lấp lánh” của “một dòng” trôi và trời ơi, còn cái dáng “nằm nghiêng nghiêng” này nữa. Anh bây giờ đứng đây, lặng lẽ, trơ trọi mà hướng cặp mắt đau đáu,mênh mang tuyệt vọng về bên ấy. Đúng là vị trí đứng của anh phải xa bên ấy lắm nhưng nỗi nhớ hẳn phải cồn cào hơn và niềm đau trong anh càng quặn thắt hơn thế nữa nên anh mới ngắm được cái tư thế “nằm nghiêng nghiêng” cùng cái “dòng lấp lánh” kia được. Và, suy cho cùng thì hai hình ảnh này đã bổ sung cho nhau. Mặt nước phải “nghiêng nghiêng”, ánh nắng phản chiếu xuống nước mới “lấp lánh”. Chứ còn dòng sông cứ bình phẳng đôi dòng như “con sông quê hương” của Tế Hanh mà lại có “lòng sông lấp lánh” thực khó lắm. Song cái hay, cái độc đáo mang lại giá trị đột xuất cho khổ thơ và cả bài thơ phải chăng vẫn là cái dáng “nằm nghiêng nghiêng” của con sông Đuống? Để từ đó con sông như có hồn, có thần thái và đầy nữ tính. Nó không ầm ào, thở phì phò như con sông Hồng “cuộn đỏ phù sa” của Viết Lãm cũng chẳng chết cứng như dòng Hương “buồn thiu” của Hàn Mặc Tử. Mà, nó duyên dáng, e thẹn như “em” – nhân vật xuất hiện ngay ở câu đầu bài thơ (mặc dầu “em” chính là sự phân thân của tác giả) và hiền hòa như “những cô hàng xóm răng đen”, “cười như mùa thu tỏa nắng”, “trên vùng đất Kinh Bắc trù phú. Dòng Đuống bình thản, hiền hòa là thế nhưng sao nó lại phải gắn với cuộc “kháng chiến trường kì” (thời gian) gắn với cảnh “lưỡi dài lê sắc máu” của “chó ngộ một đàn”, với ruộng khô, nhà cháy, với “chia lìa trăm ngả” với “tan tác về đâu” và tư thế “nghiêng nghiêng” ấy nép mình nấp trốn những cái hoàn toàn trái với thuộc tính của nó thậm chí khi cần trong âu lo, hoảng loạn nó có thể chạy trốn nữa? Hèn chi mà liền khổ thơ sau, nhà thơ có cảm giác “nhớ tiếc” mà “xót xa” đến nỗi “như rụng bàn tay”. Tôi chắc rằng khi viết khổ thơ này dù nó là những dòng đầu của bài thơ, Hoàng Cầm không đắn đo, cân nhắc về nghệ thuật lắm đâu song chính từ lặp “nghiêng nghiêng”, vần “iêng” (“nghiêng nghiêng”, “kháng chiến”) cùng sự chuyển đổi đột ngột từ câu ngắn (ngắn hơi) bốn tiếng: “Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh” tới câu dài (dài hơn) tám chữ: “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì” Đã tạo cho khổ thơ một tâm trạng, một cái hơi tiếc nuối rất cần thiết (không phải đợi tới câu “Đứng bên này sông sao nhớ tiếc” của khổ thơ kế mà ta mới nhận ra điều ấy). Như vậy, chỉ qua một câu thơ thôi, tác giả đã cho ta phát hiện cùng một lúc cả độ viền và độ nhòe, cái sáng tỏ và cái mơ hồ của thơ ca. Thông qua tâm trạng “nhớ tiếc” của ông là hình ảnh cô gái e dè, ấp úng rất “có duyên” hay cái dáng vẻ sợ sệt đến tội nghiệp của dòng Đuống và của cả những cô gái hiền lành vùng Kinh Bắc mà tác giả muốn nói? Khổ thơ hay và nhiều tầng nghĩa là ở chỗ này. Bao quát lại, ấn tượng khắc chạm trọn vẹn nhất vào tâm hồn người đọc qua khổ thơ vẫn là tính cá thể của con sông Đuống. Nó cũng mang những nét tâm trạng như con người, cũng cử động cựa quậy chừng như muốn bứt khỏi cái khuôn khổ một dòng sông mà đi. Chính điểm sáng tạo này đã mang lại giá trị đặc biệt cho khổ thơ nói riêng và cho toàn bài thơ nói chung. Để từ đây, ta nhìn con sông Đuống của Hoàng Cầm khác “Con sông quê hương” của Tế Hanh, khác con sông miệt Vàm Cỏ Đông của Hoài Vũ. Bởi, cùng lắm Tế Hanh chỉ hé mở cho ta thấymột “con sông xanh biếc” có “ nước gương soi tóc những hàng tre”- rõ ràng con sông của Việt Nam là đặc sản của Việt Nam nhưng thử hỏi: làm sao đếm hết ở nước này có bao nhiêu con sông? Ngược lại, tìm ra cái dáng “ nằm nghiêng nghiêng””bãi mía bờ dâu”cùng bờ “cát trắng phẳng lì”kia thì chỉ có ở mỗi con sông Đuống của Hoàng Cầm, chỉ có ở mỗi con sông Thiên Đức – Một nhánh của Sông Hồng trên vùng đất bắc Ninh mà thôi. Tôi sinh ra và lớn lên trên mảnh đất nam Bộ. Cái vị ngọt của ngọn mía lau, của dòng Cửu Long Giang chín nhánh uốn khúc tôi đã nếm; sóng nước Hàm Luông tôi đã trải qua. Còn xứ Huế đẫm tình với cô gái Đồng Khánh “ chi mô rứa” với sông Hương, núi Ngự tuy xa song tôi đã tỏ vì nghe nhắc nhiều quá. Phải đợi tới hôm nay. Khi chỉ thâm nhập vào mỗi nhịp đập trái tim xốn sang của Hoàng Cầm, cọ xát chung với nỗi đau “ rụng rời” cho quê hương mình của Bùi Tằng Việt, tôi mới hay mình còn biết đến con sông Đuống e lệ, lặng lờ và bước đầu thấy được trên mình Tổ Quốc một “vùng đất Kinh Bắc huê tình, diễm lệ, đầy ắp huyền thoại và bảng lảng một làn sương khói dân ca”. - Câu thơ kết thúc đoạn một là một hình ảnh rất cụ thể như cảm giác được nỗi lòng đau xót của nhân vật trữ tình: “Sao xót xa như rụng bàn tay” Đề 2: Bình giảng đoạn thơ “Bên kia sông Đuống Quê hương ta lúa nếp thơm nồng (…) Bây giờ tan tác về đâu” * Bài làm Quê hương nếu ai không nhớ Sẽ không lớn nỗi thành người (Quê hương – Đỗ Trung Quân) Có lẽ đúng như thế! Nếu Hoàng Cầm không yêu quê hương, nhớ quê hương, tha thiết với quê hương và đau nỗi đau của quê hương thì có lẽ anh sẽ không làm được bài thơ “Bên kia sông Đuống” hay như vậy. Tác phẩm đã diển tả sinh động hình ảnh quê hương ở thời bình và thời chiến mà tiêu biểu là đoạn: “… Bên kia sông Đuống … Bây giờ tan tác về đâu?” Đã hơn một lần ta bắt gặp mùi hương lúa nếp đầu mùa trong các tác phẩm văn học Việt Nam. Nguyễn Đình Thi đã ngửi mùi thơm hương cốm mới vào một sáng mùa thu. Ở đây ta lại nghe thoang thoảng mùi thơm lúa nếp trên quê hương Kinh Bắc. Quê hương hiện về với bao cảnh đẹp. Những bờ dâu bãi cát, nương mía nương ngô trù phú xanh tươi và đọng lại với thanh khiết của hương lúa nếp. Phải! Đó là cái mùi dường như là “đặc sản” chỉ có ở dân tộc Việt Nam. Người dân đi đâu cũng nhớ về hương lúa, hương thơm của những cánh đồng trĩu hạt nặng bông là kỉ niệm của riêng mình: Cái mộc mạc lên hương của lúa Đâu dễ chia cho tất cả mọi người ( Hơi ấm ổ rơm – Nguyễn Duy) Bên cạnh hương lúa nếp ấy, quê hương Kinh Bắc được nhắc đến với những tranh làng Hồ đậm màu dân tộc. Những chú lợn với các xoáy âm dương xoay tròn tượng trưng cho sự hòa hợp của đất trời và đó cũng là nguyện vọng làm ăn phát đạt của người dân. Rồi các chú bé đầu để chỏm với những bức tranh hứng dừa thật đặc sắc và đám cưới chuột hiện lên thật vui nhộn đã phản ánh những nét sinh hoạt và phong tục cổ truyền của làng quê Việt Nam. Đời sống văn hóa tinh thần người dân thật chân chất bình dị nhưng chan hòa không khí vui tươi, đoàn kết. Thật độc đáo khi Hoàng Cầm phát hiện gam màu trong bức tranh ấy là “màu dân tộc” phải, đó là màu của dân tộc Việt chứ không phải màu du nhập từ phương trời nào khác. Màu ấy đã được những nghệ nhân tìm tòi khai thác từ loài cỏ cây, từ hoa đồng cỏ nội để pha chế sắc màu. Màu dân tộc phải được thổi lên loại giấy cũng rất dân tộc; “giấy điệp”. Đó là loại giấy được tráng lên bằng chất liệu vỏ sò, vỏ ốc để có sắc màu trắng tinh khiết… Nỗi nhớ quê hương với những bức tranh làng Hồ nổi tiếng đã gợi lại bao kỉ niệm ngọt ngào trong kí ức nhà thơ. Nỗi nhớ êm đềm như khúc hát ru trên nhịp nôi đưa nhẹ nhàng và hình như Hoàng Cầm cũng muốn ôm trọn lấy nó. Điều đặc biệt là trong đêm khi nhớ về quá khứ thì những mùi hương có sức khơi gợi đánh thức con người mãnh liệt. Chút yên hương của quê nhà ấy chính là điểm gợi đầu tiên để Hoàng Cầm sang bên kia sông Đuống bằng suy tưởng – Nhớ về mùi hương nó rất độc đáo nhưng cũng rất tự nhiên bởi vì những hương thơm, giọng hò… là “bóng” chứ không phải là… “hình” của hiện thực. Nó rất khó nắm bắt nhưng cũng dễ khơi gợi một vùng trời kỉ niệm thân yêu: “Sao có thể ôm tròn nỗi nhớ Trong đêm giày vò gầy tiếng dế giữa bao la Sao có thể ướp hương thơm nội cỏ Với mùi lúa lên đòng làm kem mát cho da?” (Chút yên hương quá khứ – Thái Quang Vinh) Thế nhưng cái ước muốn ấy không bao giờ nhà thơ thực hiện được. Vì sao thế? Chiến tranh, đơn giản hai chữ ấy nhưng đã chứa trong đó bao sự tàn phá chết chóc thật khủng khiếp, Quang Dũng từng xót xa “Những xác già nua ngập cánh đồng” và căm giận “Bao lần rồi xác trẻ trôi sông?” Hoàng Cầm cũng đồng tâm trạng đó, quê hương tiêu điều xơ xác thê lương: “Quê hương ta từ ngày khủng khiếp Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn Ruộng ta khô Nhà ta cháy Chó ngộ một đàn Lưỡi dài lê sắc máu Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang” Nhịp thơ đang kéo dài bỗng tắc nghẽn lại, dồn ứ lại với ba tiếng trong một dòng: Ruộng ta khô Nhà ta cháy Nhịp gắt cắt ra đối với nhịp bình thường. Dường như bao căm giận, dồn nén được gói trọn vào hai dòng thơ này. Hoàng Cầm đã hiểu tinh tế tâm lí người nông dân. Ruộng và nhà là tài sản quý nhất của họ, là gia sản mà họ kế thừa từ đời này sang đời khác nhưng giờ đây không còn gì cả, đã khô đã cháy hết rồi. Câu thơ mang tính chất liệt kê nhưng vẫn có sức khái quát cao vì đã biểu hiện một cách sinh động nỗi lòng người dân. Dòng thơ “Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang” buông chùng như tiếng thở dài bế tắc. Câu thơ như kêu cứu, van nài bên bờ vực thẳm nhưng dường như không ai cứu được nên nó rơi vào tuyệt vọng. Cái độc đáo của nhà thơ Hoàng Cầm là ở chỗ anh không nói đến con người mà chỉ hướng đến bức tranh. Lúc đầu thì “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong, màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”. Hai câu thơ đã cô đọng và thể hiện khá đầy đủ những nét đặc sắc của tranh làng Hồ: Cái hồn dân gian và dân tộc của nó từ đề tài (gà, lợn) đến đường nét và màu sắc tươi sáng (sáng bừng, nét tươi trong) chất liệu độc đáo (giấy điệp). Còn về sau thì ông dùng hai bức tranh tương phản để nói cảnh chia lìa. Trên là hòa bình, là quá khứ, dưới là chiến tranh, là hiện tại; trên là sum họp dưới là chia lìa, xưa là cuộc sống, nay là cái chết, xưa là thiên đường hạnh phúc nay là địa ngục trần gian. Hình tượng bức tranh như sống động trước mắt ta: “Mẹ con đàn lợn âm dương Chia lìa đôi ngã Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã Bây giờ tan tác về đâu?” Tranh dân gian dường như trở thành tranh của tâm hồn chính mà thơ nó là cuộc sống, là nhịp thở của vùng Kinh Bắc. Nó chen vào nỗi nhớ của anh và thành một yếu tố quan trọng trong nỗi nhớ quê hương. Câu thơ như trộn lẫn thực và ảo vì đàn “chó ngộ”, “mẹ con đàn lợn âm dương”, “đám cưới chuột” đang quay cuồng trong cơn lốc chiến tranh ảo vì nhớ lại hình ảnh êm đềm quá khứ, thực vì nó sống động trong tâm trí nhà thơ như những cảnh thật ngoài đời, như con người thật quê hương. Thật đúng như thế vì những bức tranh làng Hồ chính là cái nhìn và niềm ao ước của con người về cuộc sống ấm no yên vui hạnh phúc thanh bình mà nay chỉ là niềm hoài vọng và anh cũng không biết rõ “bây giờ tan tác về đâu?”. Đó cũng là sự xót xa đau đớn, căm hận. Nó trở thành điệp khúc lặp đi lặp lại ở những đoạn sau để cuối cùng “chúng ta không biết nguôi hờn”. “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm hay chính là nỗi lòng nhà thơ khi hay tin giặc chiếm quê mình. Có lẽ vì vậy, nên khi tiếp xúc lần đầu với bài thơ Nguyên Hồng đã tuôn trào nước mắt… Đoạn thơ khép lại nhưng mở ra trước mắt ta những hình ảnh tươi đẹp về ngày đất nước hòa bình thống nhất để quê hương Kinh Bắc bên kia sông Đuống không còn “tan tác về đâu” mà sẽ giống dòng sông Đáy. Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng (“Đôi mắt người Sơn Tây - Quang Dũng)

File đính kèm:

  • docOn thi Ben kia song Duong.doc
Giáo án liên quan