Chuyên đề Giáo dục môi trường qua môn địa lí ở trường phổ thông

 Trong những năm gần dây, chúng ta nghe nói rất nhiều về môi trường . Vì sao con người lại quan tâm đến môi trường nhiều như vậy và nguyên nhân do đâu? Như chúng ta biết, sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại và sự gia tăng dân số quá nhanh kéo theo sự gia tăng tiêu thụ nhiên liệu hoá thạch và phá rừng của con người ngày càng lớn, nồng độ CO2 trong khí quyển tăng vọt lên. Nhiệt lượng toả ra từ vỏ Trái Đất bị tầng khí CO2 giữ lại không khuếch tán được vào vũ trụ, đó là “ hiệu ứng nhà kính” . Khí CO2 cùng với CFCs và mêtan được gọi là những khí nhà kính.

doc11 trang | Chia sẻ: lephuong6688 | Lượt xem: 818 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Giáo dục môi trường qua môn địa lí ở trường phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề: GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG QUA MÔN ĐỊA LÍ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG I/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong những năm gần dây, chúng ta nghe nói rất nhiều về môi trường . Vì sao con người lại quan tâm đến môi trường nhiều như vậy và nguyên nhân do đâu? Như chúng ta biết, sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại và sự gia tăng dân số quá nhanh kéo theo sự gia tăng tiêu thụ nhiên liệu hoá thạch và phá rừng của con người ngày càng lớn, nồng độ CO2 trong khí quyển tăng vọt lên. Nhiệt lượng toả ra từ vỏ Trái Đất bị tầng khí CO2 giữ lại không khuếch tán được vào vũ trụ, đó là “ hiệu ứng nhà kính” . Khí CO2 cùng với CFCs và mêtan được gọi là những khí nhà kính. “Hiệu ứng nhà kính” làm cho nhiệt độ bề mặt Trái Đất tăng lên, gây ra nhiều hậu quả xấu như: - Làm tan băng và dâng cao mực nước biển, gây ngập úng các vùng sản xuất lương thực trù phú, thành phố ven biển, các đảo thấp. - Khí hậu Trái Đất biến đổi, làm xáo động điều kiện sống và các hoạt động sản xuất nông , lâm, thuỷ sản bị ảnh hưởng. Ở Việt Nam nếu mực nước biển dâng lên một mét thì khoản 20 triệu người đành phải bỏ quê hương mà đi. Thời gian gần đây, ở nước ta chúng ta nghe quá nhiều về vấn đề môi trường như : Công ty Vedan giết chết sông Thị Vải , công ty Hào Dương đưa nước thải ra các nhánh sông Soài Rạp, nhà máy Hyundai Vinashin làm ô nhiễm nghiêm trọng môi trường nước, và còn rất nhiều công ty ở khắp nơi trong cả nước cũng vi phạm môi trường. Tàu chở dầu của Panama bị chìm ở vùng biển Phú Yên với hàng trăm tấn dầu tràn ra biển, chưa hết Xí nghiệp xăng dầu hàng không miền Trung ở Liên Chiểu Đà Nẵng bể hai bồn chứa xăng dầu đã tràn ra biển mà chưa có cơ quan nào đứng ra xử lí. Hiện nay ở nước ta có 70% khu công nghiệp, 90% cơ sở sản xuât không có hệ thống xử lí nước thải mà vẫn hoạt động, trong 2000 làng nghề có 1400 làng nghề ô nhiễm, 3 cơ sở có chất độc đioxin đến nay chưa khắc phục. Không chỉ có nhà máy làm ô nhiễm môi trường mà ngay cả những cơ quan lo cho sức khoẻ của con người cũng vi phạm môi trường. Đó là các bệnh viện . Cả nước ta hiện nay có 1100 bệnh viện không kể các bệnh xá, trạm xá đã thải ra 300 nghìn tấn rác thải y tế và hàng triệu mét khối nước thải y tế chưa qua xử lí, đó là những “ Đại lí phân phối vi trùng” ra môi trường xung quanh chúng ta sống. Nghe mà chúng ta thấy bất bình. Đặc biệt trong năm nay Bộ Giáo dục- Đào tạo có chỉ đạo các trường tích hợp một số nội dung như giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục dân số trong dạy học đối với các môn Địa lí, Lịch sử,GDCD, Ngữ văn, Vật lí, Sinh học, Công nghệ . Do đó tổ Xã hội 2 trường Kim Đồng chọn chuyên đề này để lồng ghép vào các nội dung giảng dạy Địa lí, nhằm để giáo dục ý thức về môi trường và bảo vệ môi trường cho học sinh. II/ CƠ SỞ LÍ LUẬN Giáo dục môi trường (GDMT) đã được tích hợp vào chương trình, sách giáo khoa (SGK) phổ thông của các môn học, trong đó có môn Địa lí từ cải cách giáo dục năm 1981. Bảo vệ môi trường (BVMT) là việc làm cần thiết của toàn nhân loại. Để bảo vệ môi trường có nhiều biện pháp như luật pháp, kinh tế, công nghệ và giáo dục, ở đó GDMT đóng vai trò quan trọng để hình thành cho người học không chỉ kiến thức, kỹ năng mà còn hình thành cho họ thái độ, hành vi và lối sống BVMT. Môn Địa lí trong nhà trường phổ thông có nhiều thuận lợi để GDMT cho học sinh vì các kiến thức về các thành phần của môi trường tự nhiên, môi trường kinh tế - xã hội, mối quan hệ qua lại giữa môi trường và con người là một phần của kiến thức địa lí. Vì vậy, cũng như các môn học khác như môn Sinh vật, môn Hoá học, môn Vật lí; các kiến thức về môi trường (MT) và GDMT đã được tích hợp vào chương trình, sách giáo khoa (SGK) phổ thông từ đầu thập kỷ 80. Tuy nhiên, để khai thác các kiến thức môi trường trong SGK làm chỗ dựa cho GDMT một cách có hiệu quả, phải nắm được qui trình khai thác và biết cách thiết kế các bài học khai thác nội dung đó. Nếu biết cách khai thác và thiết kế bài học khai thác khả năng GDMT thì cùng một lúc thực hiện được hai mục tiêu: vừa giáo dục địa lí, lại vừa GDMT được cho học sinh. Nói một cách khác, nếu lột tả được các kiến thức môi trường trong SGK để GDMT cho học sinh theo phương pháp tổ chức hoạt động thì sẽ nâng cao chất lượng dạy học địa lí nói chung và chất lượng GDMT trong nhà trường nói riêng. III/ MỤC TIÊU VÀ NGUYÊN TẮC CỦA GDMT TRONG NHÀ TRƯỜNG NƯỚC TA Nhà nước ta coi GDMT trong trường học là bộ phận hữu cơ của sự nghiệp giáo dục và sự nghiệp của toàn dân. Với tư tưởng chiến lược đó , ở nước ta GDMT được đưa vào nhà trường chính thức từ năm 1980, năm bắt đầu cải cách giáo dục phổ thông. GDMT không phải là một môn học mà là một quá trình nên nó có thể được thực hiện thông qua bất kì môn học nào một cách tự nhiên ở bất kì một cấp học nào: mầm non, tiểu học, THCS, THPT, cao đẳng , đại học 1) GDMT trong nhà trường phải làm cho GV và HS đạt được các mục tiêu sau: a. Có ý thức thường xuyên và luôn nhạy cảm đối với mọi khía cạnh của MT và những vấn đề liên quan đến MT. b.Thu nhận được những thông tin, những kiến thức cơ bản về MT và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hoạt động của con người và MT, về quan hệ giữa con người và MT. c. Phát triển những kĩ năng bảo vệ và giữ gìn MT, kĩ năng dự đoán, phòng tránh và giải quyết những vấn đề MT nẩy sinh. d. Tham gia tích cực vào những hoạt động khôi phục, bảo vệ và gìn giữ MT. e. Có ý thức về tầm quan trọng của MT trong sạch đối với sức khoẻ con người. với chất lượng cuộc sống của chúng ta, phát triển thái độ tích cực đối với MT 2) GDMT trong nhà trường ở nước ta được thực hiện theo các nguyên tắc sau: a. Nhà nước VN coi GDMT là một bộ phận hữu cơ của sự nghiệp giáo dục và là sự nghiệp của toàn dân. b. GDMT là một thành phần bắt buộc trong chương trình giáo dục đào tạo. c. Triển khai GDMT bằng các hoạt động mà HS là người thực hiện, thầy giáo là người tổ chức các hoạt động GDMT dựa trên chương trình qui định. d. GDMT được thực hiện : Về MT, trong MT, và vì MT, trong đó hiệu quả cao nhất sẽ đạt được khi tạo ra được thái độ và tình cảm vì MT. e. Làm cho người học và người dạy nhận thấy giá trị của MT đối với chất lượng cuộc sống, sức khoẻ và hạnh phúc của nhân dân. Làm cho mọi người hiểu rằng trong những quyền cơ bản của con người , bất kể chủng tộc, màu da, hay tín ngưỡng nào đều có quyền sống trong MT lành mạnh, có nước sạch để dùng và không khí trong lành để thở. IV/ CÁC HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP GDMT CHO HỌC SINH THÔNG QUA MÔN ĐỊA LÍ Có hai kiểu GDMT: - Kiểu 1: GDMT thông qua giáo trình giảng dạy của các bộ môn, kiểu này phù hợp với hình thức GDMT thông qua môn học chính khoá . - Kiểu 2: Một hoạt động độc lập, kiểu này phù hợp với hình thức GDMT thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Các hình thức và phương pháp GDMT thông qua dạy học nội khoá ở trên lớp: Việc lồng ghép kiến thức MT và GDMT thông qua các bài dạy địa lí ở trên lớp nhằm phân tích được những vấn đề MT chứa đựng trong nội dung môn học, liên hệ được với tình hình MT của nước ta, của từng địa phương nơi các em họctập. Từ đó giáo dục cho các em ý thức , trách nhiệm và hành vi BVMT. Trong các giờ học trên lớp, để làm được nhiệm vụ GDMT thông qua tiết học bài học, GV có thể thực hiện nhiều phương pháp, tuỳ thuộc vào đặc trưng của mỗi tiết, mỗi bài, mỗi phần mà GV có thể lựa chọn phương pháp phù hợp, đem lại hiệu quả giáo dục cao nhất. Trong phạm vi chuyên đề này chỉ giới thiệu một số phương pháp cơ bản với tính chất gợi ý, còn trong quá trình giảng dạy tuỳ theo trình độ và nghệ thuật của mỗi người GV, tuỳ theo đối tượng học sinh có thể sử dụng nhiều hình thức và phương pháp khác miễn sao đạt được mục đích mình đề ra. 1) Phương pháp đàm thoại gợi mở: Đối với việc liên hệ kiến thức giữa bài học chính với kiến thức MT thì phương pháp đàm thoại gợi mở được sử dụng rộng rãi và phổ biến nhất. Để mang lại hiệu quả thì hệ thống câu hỏi ở mức độ phát huy trí lực và sự sáng tạo của HS, câu hỏi đòi hỏi HS gắn kiến thức môn học đã biết với kiến thức MT mà có thể HS chưa biết, phải tìm tòi, suy nghĩ, vận dụng nhiều thao tác tư duy mới tìm ra câu trả lời. Ví dụ 1: Bài 32: Các mùa khí hậu và thời tiết ở nước ta ( Địa lí lớp 8) Khi dạy, GV có thể đặt ra các câu hỏi để học sinh có thể liên hệ với thực tế MT như: 1- Khí hậu nước ta đã mang lại cho địa phương em những thuận lợi và khó khăn gì? 2- Làm thế nào để phát huy những thuận lợi và khắc phục những khó khăn đó? Ví dụ 2: Bài 33: Đặc điểm sông ngòi Việt Nam Khi dạy phân tích đặc điểm chung sông ngòi nước ta, GV cũng có thể đặt một số câu hỏi để GDMT như: 1- Đặc điểm của sông ngòi nước ta đã tạo cho nước ta những thuận lợi và khó khăn gì trong hoạt động và phát triển kinh tế? 2- Để khắc phục những khó khăn do sông ngòi đem lại thì biện pháp tích cực và tối ưu nhất là gì? Hoặc : Khi dạy phần khai thác kinh tế và bảo vệ sự trong sạch của các dòng sông, GV đặt một số câu hỏi như sau: 1- Có những nguyên nhân nào làm cho nước sông bị ô nhiễm? Liên hệ ở địa phương em. 2- Để nước sông không bị ô nhiễm chúng ta phải làm gì? Ví dụ 3: Bài 2: Dân số và gia tăng dân số ( Địa lí lớp 9) Khi dạy phần này GV cũng dễ dàng đặt một số câu hỏi liên hệ đến vấn đề GDMT có liên quan đến dân số như: 1- Tình hình gia tăng dân số của nước ta có ảnh hưởng gì đến môi trường? 2- Để bảo vệ tài nguyên và môi trường, ta phải làm gì trong vấn đề dân số? 3- Hãy liên hệ đến tình hình gia tăng dân số ở địa phương em và cho biết địa phương em đã có những biện pháp gì để thực hiện chính sách về dân số? Ví dụ 4: Bài 3: Phân bố dân cư và các loại hình quần cư ( Địa lí lớp 9) Khi dạy GV có thể đặt các câu hỏi để liên hệ đến môi trường như sau: 1- Sự phân bố dân cư ở nước ta như thế nào? Sự phân bố đó ảnh hưởng gì đến việc khai thác tài nguyên và môi trường của nước ta? 2- Liên hệ ở địa phương em, những khu vực đông dân thường xảy ra những hậu quả gì đối với môi trường ? Ví dụ 5: Bài 24: Vùng Bắc Trung Bộ (t.t.) Mục 2: Công nghiệp Khi dạy GV có thể đặt các câu hỏi để liên hệ đến môi trường như sau: 1- Việc khai thác và chế biến khoáng sản có ảnh hưởng gì đến môi trường? 2- Vậy để bảo vệ môi trường, các nhà máy xí nghiệp cần phải quan tâm đến vấn đề gì? Nhìn chung các câu hỏi đặt ra đều nhằm mục đích GDMT cho HS, đồng thời thông qua đó cũng nhằm phát triển tư duy cho HS, bởi vì trong quá trình đàm thoại thường tập trung vào hai yêu cầu: bắt HS so sánh hai sự vật, hiện tượng địa lí đã biết; dựa vào cái đã biết để tìm ra cái đang cần biết, để thực hiện được hai yêu cầu này HS phải vận dụng các kiến thức đã học, để tìm ra kiến thức mới và để liên hệ với thực tế ở địa phương mình, nếu hệ thống câu hỏi tốt thì tác dụng của phương pháp đàm thoại không nhỏ: vừa thực hiện được mục đích GDMT , vừa phát triển tư duy HS, vừa giúp HS vận dụng được kiến thức vào thực tế của địa phương mình. 2) Phương pháp trực quan: Là phương pháp mà GV sử dụng các phương tiện trực quan như: bản đồ, biểu đồ, sơ đồ, tranh ảnh, băng hình.để dạy học và GDMT . Phương tiện trực quan bao giờ cũng có hai chức năng: nguồn tri thức và đồ dùng minh hoạ. Hiệu quả của phương pháp này phụ thuộc vào mục đích và chức năng sử dụng của GV trong quá trình dạy học. Để liên hệ kiến thức bài học chính với kiến thức MT thì việc sử dụng phương tiện trực quan cũng mang lại hiệu quả cao. Có hai cách sử dụng phương tiện trực quan để liên hệ và GDMT : - GV hướng dẫn HS khai thác kiến thức về môi trường và GDMT từ phương tiện trực quan thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở. - GV dùng phương tiện trực quan để minh hoạ và chứng minh cho một hiện tượng, một hậu quả về MT cần phải giáo dục. Ví dụ 1: Bài 38 : Bảo vệ tài nguyên sinh vật Việt Nam ( Địa lí lớp 8) Sau khi HS nhận thức được vai trò của rừng, và cũng biết được hiện nay rừng nước ta đang bị giảm sút nhanh chóng, để cho HS thấy rõ nguyên nhân và những hậu quả, GV có thể sử dụng một sơ đồ vẽ: “chuỗi các mối quan hệ nhân quả” của việc mất rừng, kèm theo một số câu hỏi gợi mở để khai thác kiến thức như sau: 1- Những nguyên nhân nào làm cho diện tích rừng của nước ta giảm sút nhanh chóng? 2- Khi mất rừng sẽ dẫn đến những hậu quả gì? 3- Chúng ta phải làm gì để bảo vệ rừng? Hãy liên hệ với địa phương em. HS sẽ dựa vào sơ đồ, dựa vào 3 câu hỏi gợi mở để phân tích, tổng hợp và rút ra được những kiến thức chính ở trong sơ đồ. Chiến tranh huỷ diệt Khai thác quá mức phục hồi Quản lí bảo vệ kém MẤT RỪNG Hàm lượng CO2 tăng Khí hậu xấu đi Dòng chảy không điều hoà lũ lụt, hạn hán Con người mất nơi nghỉ ngơi giải trí sức khoẻ kém Quá trình xói mòn rửa trôi tăng đất xấu đi Mất tài nguyên sinh vật mất mẫu chuẩn tài nguyên Đốt rừng làm nương rẫy - Định canh định cư BẢO VỆ RỪNG: - Ban hành luật khai thác sử dụng - Trồng, bảo vệ rừng, thành lập những khu rừng cấm. Ví dụ 2: Bài 12: Sự phát triển và phân bố công nghiệp ( Địa lí lớp 9) Muốn cho HS nắm được một số nguyên nhân gây ô nhiễm MT của hoạt động công nghiệp, GV chỉ cần sử dụng một sơ đồ vẽ về quy trình sản xuất của một ngành công nghiệp nào đó . Trong sơ đồ thể hiện đầu vào ( nguyên liệu, năng lượng.), khâu sản xuất, sản phẩm và các chất thải ra môi trường. Từ đó đặt vấn đề để HS suy nghĩ nếu những chất thải đó mà không được xử lí thì hậu quả đối với MT sẽ như thế nào? Vì vậy để bảo vệ môi trường, vấn đề lớn đặt ra cho các ngành công nghiệp là gì? Sơ đồ vẽ khái quát về chu trình sản xuất của nhà máy hoá chất Đà Nẵng Sản phẩm chính: HCl, xút, xà phòng Nguyên liệu Điện Nước Qui trình sản xuất Các chất thải: - Khí thải: HNO3, C6H6, CH4 - Nước thải , bụi Ví dụ 3: Ví dụ 5: Bài 24: Vùng Bắc Trung Bộ (t.t.) Mục 2: Công nghiệp Sau khi GV cho HS hiểu được sự phát triển của ngành công nghiệp ở Vùng Bắc Trung Bộ, GV có thể hỏi thêm : “Sự phát triển của các ngành công nghiệp có ảnh hưởng gì đến môi trường?” HS trả lời: “ Công nghiệp có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế của Vùng Bắc Trung Bộ nhưng nó cũng có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường do các chất thải”. Để minh hoạ cho câu trả lời của HS, GV có thể cho HS quan sát sơ đồ vẽ khái quát về chu trình sản xuất của nhà máy giấy Mộc Sơn ( Thanh Hoá) Nguyên liệu: Gỗ, tre, nứa Sản phẩm chính: Giấy Điện Nước Qui trình sản xuất Các chất thải: - Khí thải - Nước thải , bụi Ví dụ 4: Bài 9 : Hoạt động sản xuất nông nghiệp ở đới nóng (Địa lí lớp 7) Khi dạy phần 1: Đặc điểm sản xuất nông nghiệp ở MT đới nóng, để khai thác vấn đề MT và GDMT ở phần này GV có thể sử dụng biểu đồ hình 9.1 và các bức tranh hình 9.2 , hình 9.4 kèm theo một số câu hỏi gợi mở để HS khai thác kiến thức như: 1- Biểu đồ hình 9.1 cho chúng ta biết lượng mưa và nhiệt độ ở MT xích đạo ẩm như thế nào? 2- Hình 9.2 cho chúng ta thấy hiện tượng gì? Dựa vào hình 9.4 để giải thích nguyên nhân của hiện tượng đó? 3- Cần phải làm gì để hạn chế hiện tượng xói mòn và rửa trôi đất? Hãy liên hệ tới Việt Nam. Ngoài ra GV có thể sử dụng tranh ảnh , băng hình, đĩa CD làm phương tiện trực quan, để minh hoạ cho HS những hiện tượng tàn phá MT, ô nhiễm MT như đốt phá rừng, nước thải, chất thải công nghiệp ở các thành phố, hoặc những hậu quả do tàn phá MT gây ra như lũ lụt, hạn hán , bệnh tật và cả những hành động BVMT như các khu rừng cấm, các công viên thiên nhiên, các công nghệ xử lí chất thảiTất cả những hình ảnh trực quan đó đều gây một ấn tượng sâu sắc đối với HS, nó sẽ giúp các em nhận thức dễ dàng hơn vấn đề và đặc biệt nó tạo nên độ tin cậy cao trong giáo dục. 3) Phương pháp mô tả, hoặc trích dẫn tài liệu: Ở nhiều bài, do đặc trưng của nội dung và thời gian, GV vẫn có thể sử dụng phương pháp mô tả hoặc trích dẫn một đoạn thơ, đoạn văn, một bài viết về vấn đề MT để giúp HS khai thác những khía cạnh về MT có liên quan đến bài học. Ví dụ 1: Khi dạy đến những bài về tự nhiên, GV có thể liên hệ đến những hiện tượng “ nổi loạn” của tự nhiên mà có liên quan đến con người bằng cách như mô tả một trận lũ, lụt điển hình ở miền Trung, một trận lụt lịch sử ở thủ đô Hà Nội, hiện tượng đất lở, đá trượt điển hình xảy ra ở Tây Bắc nước ta hoặc ở một số nơi trên thế giới, hoặc khi dạy về những vấn đề kinh tế GV cũng có thể liên hệ đến vấn đề MT thông qua việc mô tả cảnh tượng ô nhiễm MT do dầu khí ở Vũng Tàu và ở một số nơi trên thế giới Ví dụ 2: Thông thường trong một tiết học, thời gian dành cho việc liên hệ đến những vấn đề MT rất ít, trong một số trường hợp GV cũng có thể sử dụng những tin tức, những bài viết trong các sách báo, trên các phương tiện thông tin như Internet, radio, tivi để đọc hoặc thông báo ngắn gọn để HS nắm được, chẳng hạn như: thông báo về những vụ cháy rừng lớn, đọc tin về những vụ ngộ độc lớn do chất thải công nghiệp, hoặc do ăn phải nông sản có hàm lượng thuốc trừ sâu cao, hoặc như vụ sữa có chất melamine, trứng gà có chất melamine sau đó GV nên yêu cầu HS tìm hiểu về nguyên nhân của những hiện tượng đó. 4) Phương pháp cho bài tập vận dụng và bài tập nghiên cứu: Trong chương trình địa lí có nhiều bài tập thực hành, để GDMT GV có thể cho HS các bài tập vận dụng và bài tập nghiên cứu. Các bài tập này tốt nhất là nên gắn liền với MT ở địa phương, nơi HS đang sinh sống và học tập thì hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn. Ví dụ: - Cho các bài tập tìm hiểu về MT tự nhiên ở địa phương như: Tìm hiểu về các danh lam, thắng cảnh, tìm hiểu về các tài nguyên thiên nhiên, tìm hiểu về mùa mưa, về chế độ nước sông của địa phương, đặc biệt GV nên hướng dẫn HS chú ý nhất vấn đề ảnh hưởng của các yếu tố, vấn đề khai thác và sử dụng, các biện pháp hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực. - Cho các bài tập nghiên cứu về tình hình MT của địa phương: vấn đề ô nhiễm MT, vấn đề cải tạo MT ở địa phương, đăc biệt GV nên hướng dẫn HS tìm hiểu nguyên nhân của vấn đề ô nhiễm, và có thể đề xuất những biện pháp khắc phục Muốn thực hiện tốt một bài tập nghiên cứu, GV cần phải chú ý đến các vấn đề sau: + Bài tập đưa ra phải rõ ràng, tránh nhầm lẫn, không ngoại suy. + Mục đích, yêu cầu của nghiên cứu phải rõ ràng, dễ hiểu. + Qúa trình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu cơ bản phải dựa trên những nguyên tắc và nguyên lí chung, nhưng đồng thời phải dành chỗ sáng tạo cho HS. Đặc biệt là phải rút ra được những kết luận và bài học điển hình. Để tiến hành và nghiên cứu, HS phải quan sát tình hình MT địa phương, thu thập các tài liệu có liên quan, tiến hành khảo sát trên thực địathông qua hoạt động này HS rèn luyện được một số kĩ năng địa lí cơ bản, phát triển được năng lực tư duy và năng lực thực hành và đặc biệt giúp các em hiểu rõ về tình hình MT địa phương làm cơ sở tốt để sau này các em trở thành những người lao động có ích cho quê hương. Tất cả những phương pháp được trình bày ở trên, thường không tách rời nhau và không độc lập trong mỗi bài, mỗi tiết mà luôn luôn có sự kết hợp chặt chẽ và nhuần nhuyễn, các thao tác thuần thục của GV sẽ làm cho bài dạy có chất lượng cao không chỉ trong nhiệm vụ GDMT mà cả nhiệm vụ môn học. V/ KẾT LUẬN Nước ta trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt trong thời kì công nghiệp hoá , hiện đại hoá. Chúng ta cũng đã tác động mạnh mẽ hơn bao giờ hết đến tự nhiên và môi trường làm cho MT bị biến đổi sâu sắc và gây suy thoái nhiều yếu tố tự nhiên như: rừng là nguồn tài nguyên vô cùng quí giá nhưng đang bị giảm sút với tốc độ đáng sợ; diện tích đất bị thoái hoá đang tiếp tục tăng lên, trong khi diện tích đất trên đầu người ngày càng giảm do dân số tăng; tài nguyên khoáng sản đang cạn kiệt dần do khai thác và sử dụng lãng phí ở mức trầm trọng; tài nguyên thuỷ sản và hải sản ở vùng cửa sông và ven biển cũng đang cạn kiệt và suy thoái do khai thác bừa bãi; các loài động vật quí hiếm đang bị mai một nhanh chóng do mất rừng khó bề phục hồi; môi trường đất , nước , không khí, các đô thị, các khu dân cư, các trung tâm công nghiệp đang bị ô nhiễm có nơi rất nặng nề, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và sức khoẻ của nhân dân trong hiện tại và tương lai Đó là tất cả những lí do để ta trả lời câu hỏi : Vì sao phải bảo vệ môi trường? Khi thực hiện chuyên đề này chúng ta cũng không dám có tham vọng to lớn, mà chỉ mong muốn làm sao cho học sinh thân thiện với môi trường, có ý thức về môi trường và bảo vệ môi trường. Từ ý thức đến hành vi, từ ý thức đến trách nhiệm. Các em phải thể hiện được bằng việc làm cụ thể đơn giản như dọn vệ sinh sạch sẽ trong lớp học, ngoài hành lang, trên sân trường. Các em có thói quen không vứt rác bừa bãi, không bẻ cây, hái hoa trong sân trường. Từ đó, ra xã hội các em có ý thức giữ gìn vệ sinh nơi công cộng, lớn lên các em trở thành những người lao động có ích cho xã hội, có kỉ luật lao động, biết quan tâm đến môi trường, giữ gìn và bảo vệ môi trường tốt đẹp. Và trong tương lai không xa đất nước Việt Nam sẽ trở thành một đất nước có một môi trường : xanh, sạch, đẹp như đất nước Xingapo anh em. “Sống trong môi trường trong sạch là quyền cơ bản của con người” ..&. PHÒNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO NÚI THÀNH TRƯỜNG THCS KIM ĐỒNG ------------------@------------------------ CHUYÊN ĐỀ GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG QUA MÔN ĐỊA LÍ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG TỔ XÃ HỘI 2 NĂM HỌC : 2008 – 2009

File đính kèm:

  • docChuyen deBao ve moi truong qua mon dia ly o truong pho thong.doc