Chuyên đề: Rèn luyện kỹ năng làm thí nghiệm thực hành cho học sinh (phần điện học) Vật lí 9

1. Tóm tắt

1.1. Lí do chọn đề tài.

+Vai trò của vật lí học và mục tiêu của ngành giáo dục của nước ta trong tình hình mới.

+ Thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy ở các bộ môn trong đó có môn vật lí sao cho học sinh nắm kiến thức vững chắc và phù hợp với con người mới hiện nay

+ Sự cần thiết của việc rèn luyện kỹ năng làm thí nghiệm thực hành ( phần điện học) ở bộ môn vật lí 9.

1.2. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu.

a. Đối tượng.

-Giáo viên thực hiện các giải pháp đã đưa ra để tổ chức, điều khiển giúp học sinh có kỹ năng làm các thí nghiệm ở phần điện học của vật lí 9 để nắm kiến thức mới.

-Học sinh vận dụng các giải pháp mà giáo viên đưa ra để làm thí nghiệm.

b. Phương pháp nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu tài liệu.

Phương pháp điều tra, trò chuyện.

Phương pháp quan sát.

Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp

 

doc13 trang | Chia sẻ: lephuong6688 | Lượt xem: 2873 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề: Rèn luyện kỹ năng làm thí nghiệm thực hành cho học sinh (phần điện học) Vật lí 9, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Tóm tắt 1.1. Lí do chọn đề tài. +Vai trò của vật lí học và mục tiêu của ngành giáo dục của nước ta trong tình hình mới. + Thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy ở các bộ môn trong đó có môn vật lí sao cho học sinh nắm kiến thức vững chắc và phù hợp với con người mới hiện nay + Sự cần thiết của việc rèn luyện kỹ năng làm thí nghiệm thực hành ( phần điện học) ở bộ môn vật lí 9. 1.2. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu. a. Đối tượng. -Giáo viên thực hiện các giải pháp đã đưa ra để tổ chức, điều khiển giúp học sinh có kỹ năng làm các thí nghiệm ở phần điện học của vật lí 9 để nắm kiến thức mới. -Học sinh vận dụng các giải pháp mà giáo viên đưa ra để làm thí nghiệm. b. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Phương pháp điều tra, trò chuyện. Phương pháp quan sát. Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp. 1.3. Đề tài đưa ra giải pháp mới. Đưa ra các giải pháp giúp giáo viên tổ chức, điều khiển, hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm một cách có hiệu quả ở các bài dạy có thí nghiệm hay các bài thực hành trong chương điện học của vật lí 9. Từ đó rèn luyện cho học sinh kỹ năng làm thí nghiệm thực hành ở phần này. 1.4. Hiệu quả áp dụng. -Rèn luyện kỹ năng làm thí nghiệm thực hành phần điện học ở vật lí 9 cho học sinh. -Học sinh làm việc có khoa học, có tinh thần hợp tác trong nhóm nhỏ. -Học sinh yêu thích học bộ môn hơn. - Giáo viên phối hợp và sử dụng tốt các phương pháp dạy học, đạt hiệu quả cao trong giảng dạy. 1.5. Phạm vi áp dụng. Sáng kiến kinh nghiệm này áp dụng đối với bộ mộn vật lí 9 ở trường THCS Chu Văn An, có thể áp dụng cho một số trường trong huyện có điều kiện cơ sở vật chất tương tự như trường THCS Chu Văn An. 2. Giới thiệu Vật lí học là một môn khoa học tự nhiên, nó nghiên cứu tìm hiểu các quy luật, các hiện tượng tự nhiên, nó nghiên cứu các khái niệm về vật lí, các định luật, các thuyết. Từ đó có thể rút ra được kết luận ứng dụng vào thực tế cuộc sống. Vì vậy, Vật lí học là cơ sở của nhiều ngành kỷ thuật quan trọng, sự phát triển của khoa học vật lí gắn bó chặt chẽ và tác động qua lại trực tiếp với sự tiến bộ của khoa học kỉ thuật. Do đó, những hiểu biết và nhận thức về vật lí có giá trị to lớn trong đời sống và trong sản xuất, đặc biệt là trong thời đại hiện nay. Với sự nghiệp CNH-HĐH đất nước mở cửa để hội nhập với cộng đồng thế giới. Trong nền kinh tế cạnh tranh quyết liệt, đòi hỏi công tác giáo dục ở nước ta phải có sự đổi mới sâu sắc và toàn diện, nhằm đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, vừa phát huy bản sắc dân tộc, vừa có khả năng tự học, tự giác, chủ động và sáng tạo phù hợp với con người mới XHCN. Để làm được điều đó thì ở trường THCS sự đổi mới đó phải được thực hiện thông qua việc dạy các môn học trong đó có bộ môn Vật lí. Yêu cầu đổi mới PPDH đối với môn Vật lí còn có một số điểm riêng so với các môn khác: Phải hướng tới việc tạo điều kiện cho HS tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua hoạt động thực nghiệm, những kiến thức Vật lí mà giáo viên giảng dạy phải làm cho HS hiểu đúng đắn về thế giới tự nhiên, cho HS tin vào khả năng làm được của bản thân, tin tưởng vào các sự vật hiện tượng xung quanh luôn tồn tại, luôn vận động, có nhiều điều HS chưa thấy, chưa giải thích được các hiện tượng, nhờ các thí nghiệm thực hành các em tự tay lắp và làm thí nghiệm (TN), quan sát hiện tượng rút ra nhận xét hay kết luận, từ đó kích thích hứng thú học tập bộ môn, đồng thời vận dụng những kiến thức đó vào cuộc sống để giải thích các sự vật, hiện tượng xung quanh. Tư duy Vật lí khác với tư duy Toán học ở chỗ là nó không bằng lòng với những lập luận chặt chẽ mà đòi hỏi cần có sự kiểm nghiệm của thực tế, bằng các thí nghiệm thực hành. Vì các hiện tượng Vật lí xảy ra trong tự nhiên vô cùng phức tạp, vì vậy cần phải có các TN Vật lí để đơn giản hóa hiện tượng, làm nổi bật khía cạnh cần nghiên cứu của hiện tượng, tức là làm cho quá trình tự nhiên xảy ra rõ ràng nhất. Nhờ đó làm HS nhận ra các tính chất đặc trưng của hiện tượng. Phần điện học là một phần tương đối quan trọng trong chương trình vật lí(cả cấp THCS và THPT), nó chiếm phần lớn trong chương trình học vật lí của cả hai cấp học.Vì vậy, việc rèn luyện cho HS kỷ năng làm TN thực hành trong giờ Vật lí ( phần Điện học ) là rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục môn vật lí không chỉ ở cấp THCS mà nó còn là nền tảng để các em có một kiến thức vững chắc ở cấp THPT. Đối với bản thân, là giáo viện dạy Vật lí, vời thời gian giảng dạy đã lâu tôi đã thấy được tầm quan trọng của các TN thực hành trong giờ dạy Vật lí, nhất là các TN ở phần Điện học, là một chương quan trọng trong chương trình. Cho nên, việc rèn luyện cho HS kỹ năng làm TN thực hành Vật lí để rút ra kiến thức là rất cần thiết. Đó cũng là lí do tôi chọn làm đề tài này. Nghiên cứu việc làm TN thực hành Vật lí 9 phần điện học nhằm giúp HS nắm vững và chắc kiến thức hơn để nâng cao chất lượng dạy và học ở trường THCS Chu Văn An. Nghiên cứu quá trình thực hiện giải pháp trong giảng dạy của bản thân về việc giúp HS lớp 9 có kỹ năng làm TN thực hànhVật lý và ghi kết quả. Nghiên cứu quá trình HS vận dụng giải pháp để làm TN thực hành nắm kiến thức. Từ đó biết mức độ nhận thức, tư duy của HS với khi chưa thực hiện giải pháp. Với những kiến thức mà HS rút ra được từ việc giảng giải, nghe hiểu thì không thể nào HS hiểu và khắc sâu kiến thức lâu được. Đồng thời, khi HS vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống thì kỹ năng thực hành, thao tác của HS sẽ bị lủn củn, không thành thạo, cảm thấy mới lạ. Vì vậy, theo tôi nghĩ nếu tiến hành như vậy thì chưa thật sự rèn cho HS một số kỹ năng, đồng thời chỉ áp đặt kiến thức, HS không có thói quen học tập theo hướng tích cực chủ động. Do đó, chỉ khi HS làm TN để rút ra kiến thức thì HS mới nhớ lâu và nhớ sâu được, nên khi những kiến thức đó được vận dụng ngược vào thực tế thì các em sẽ cảm thấy quen thuộc và làm thành thạo hơn. Như vậy không những rèn cho HS có kĩ năng thực hành mà còn thành thạo phương pháp hợp tác nhóm nhỏ để học tập kinh nghiệm lẫn nhau. Dựa vào cấu trúc, nội dung, mức độ yêu cầu của chương trình về các bài có TN thực hành để nắm mối liên hệ giữa các TN trong chương điện học. Từ đó, rèn luyện cho HS có kỹ năng TN thực hành để từ đó các em nắm kiến thức vững chắc và sâu hơn. Phương pháp nghiên cứu. Suốt quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài, bản thân tôi đã nghiên cứu sử dụng kết hợp các phương pháp sau: a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu . -Tìm đọc những tài liệu có liên quan để làm cơ sở lí luận cho đề tài, giúp trình bài đề tài một cách lôgic, chặt chẽ hơn. -Nghiên cứu các tài liệu về Vật lí có liên quan đến việc dạy và học ở bậc THCS. - Nghiên cứu nội dung, chương trình SGK Vật lí 9 phần điện học để nắm được mối liên hệ giữa các TN thực hành ở các bài. -Nghiên cứu sản phẩm nhằm nắm thực trạng của việc tổ chức làm TN vật lí của HS. b. Phương pháp điều tra, dự giờ. -Trò chuyện để tìm hiểu tình hình làm TN của HS để từ đó nắm những khó khăn mà HS gặp phải khi làm TN phần điện học Vật lí 9 nhằm nắm và hiểu được mức độ tiếp thu bài của HS, vì tiết thực hành cho phép ta xác định được khả năng nhận thức, trình độ phát triển trí tuệ, thái độ, hứng thú của HS trong học tập và trong giờ thực hành. - Dự giờ các giáo viên trong trường và các trường bạn một số tiết dạy có TN thực hành c. Phương pháp kiểm tra, đối chiếu. - Kiểm tra khảo sát chất lượng học sinh. - So sáng, đối chiếu kết quả. d. Phương pháp quan sát. -Quan sát hoạt động của HS trong giờ học vật lí có sử dụng thí nghiệm để có thể so sánh với các giờ học Vật lí không có TN. -Quan sát thao tác, kỷ năng thực hiện TN của HS trong các TN thực hành. 3. Phương pháp a) Khách thể nghiên cứu: * Giáo viên: Có nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy, có lòng nhiệt tình và trách nhiệm cao trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh. * Học sinh: Các học sinh ở lớp 9 năm học 2009-2010 vể ý thức học tập, thành tích học tập đối với các chủ đề sau: -Nghiên cứu tính lôgic, hệ thống của các kiến thức trong chương điện học ở Vật lí 9 để nắm hệ thống cácTN thực hành trong chương. -Nghiên cứu thực trạng học tập, kỹ năng, thao tác làm TN của HS để nắm mặt mạnh, mặt tồn tại để có hướng khắc phục khi HS khi làm TN. -Hướng dẫn, thao tác làm TN để HS có kỷ năng làm TN ở từng bài trong chương điện học. -Các thí nghiệm ở bậc THCS thì rất nhiều, rất đa dạng và phức tạp. Trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ tập trung nghiên cứu vào các TN trong chương điện học mà theo tôi là khó đối với HS lớp 9 tại trường THCS Chu Văn An để từ đó tìm ra các biện pháp giúp kỹ năng làm TN của HS thành thạo, chính xác và đạt kết quả cao nhất để HS nắm kiến thức vững hơn. b. Thiết kế nghiên cứu: b1. Một số nét chung về thí nghiệm thực hành vật lí. Trong thời đại CNH-HĐH đất nước như hiện nay, đòi hỏi người công nhân khi bắt tay vào làm bất kỳ công việc gì phải dựa vào các tri thức mà họ đã tiếp thu được, tức là họ phải vận dụng lí thuyết vào thực hành. Khi lý thuyết đã nắm vững thì thực hành mới đạt được ở mức cao hơn. Mà môn Vật lí là môn khoa học thực nghiệm, là môn học có tác dụng to lớn trong viêc giáo dục kỹ thuật tổng hợp. Do đó, đòi hỏi các kiến thức ở môn này phải được rút ra từ các hiện tượng, thí nghiệm mà các em đã làm, đã quan sát được. Chính vì lí do đó mà ở sách giáo khoa Vật lí từ lớp 6 đến lớp 9, phần lớn các bài đều có từ một đến hai thí nghiệm, mỗi một phần trong một khối lớp cũng có từ một đến hai bài thí nghiệm thực hành. Do đó, việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng làm thí nghiệm thực hành, đặc biệt trong chương điện học là rất cần thiết. Đây là một việc làm rất quan trong, vì các kiến thức mà các em rút ra được từ các thí nghiệm thực hành do chính các em gây ra sẽ có tác dụng to lớn trong việc vận dụng vào thực tế cuộc sống của các em. b2. Thực trạng của việc cần rèn luyện cho học sinh những kỹ năng làm thí nghiệm thực hành chương điện học Vật lí 9 ở trường THCS Chu Văn An hiện nay. Nhiều bài học trong sách giáo khoa Vật lí 9 có nội dung kiến thức khá dài, kênh hình trong sách không rõ ràng, chưa phù hợp với các dụng cụ thí nghiệm được cấp phát dẫn đến học sinh còn lúng túng khi bố trí thí nghiệm. Chất lượng một sồ đồ dùng dạy học chưa cao: Đồng hồ đo điện thiếu chính xác, đế đèn chiếu còn lỏng, biến thế thực hành có số vòng dây còn khác với phần hướng dẫn thí nghiệm trong SGK, bộ thí nghiệm bài lực điện từ: thanh đồng và đế làm thí nghiệm khó thành công, dây dẫn hay bị tuột, đứt khi làm thí nghiệm. Vì đây là một vùng nông thôn nên việc rèn luyện cho các em những kỹ năng làm thí nghiệm là tương đối khó, vì có những thí nghiệm cần phải có dụng cụ chính xác truyệt đối thì kết quả mới chính xác, bàn ghế chưa đảm bảo yêu cầu, chưa bằng phẳng để đặt các dụng cụ thí nghiệm Đa số học sinh ở trường đều ở nông thôn nên trình độ nhận thức còn yếu, một số học sinh còn nghỉ học để phụ giúp gia đình nên không có thời gian soạn bài, nghiên cứu bài trước. Mà đa số các bài ở môn Vật lí đều có thí nghiệm, do đó khi bắt tay vào làm thí nghiệm các em không nắm được các bước tiến hành thí nghiệm, hay chỉ chú ý đến các dụng cụ thí nghiệm vì cảm thấy lạ mắt mà không chú ý đến mục đích của thí nghiệm, dẫn đến khi làm thí nghiệm có phần khó khăn, lúng túng, chưa biết cách bố trí thí nghiệm, chưa nắm được thí nghiệm đó cần hình thành nên kiến thức nào của bài. Mặt khác, với các bài có liên quan đến đo đạc thì học sinh còn yếu trong kỹ năng sử dụng dụng cụ đo nên kết quả thí nghiệm có sự chênh lệch nhiều giữa các nhóm gây khó khăn cho giáo viên trong việc xử lí kết quả thí nghiệm để dẫn dắt học sinh tiếp thu kiến thức mới. Từ đó cũng ảnh hưởng đến kỹ năng làm thí nghiệm thực hành để rút ra kiến thức mới của các em. Cho nên, viêc tìm ra các phương pháp để rèn luyện cho các em kỹ năng làm thí nghiệm thực hành, đặc biệt là chương điện học, một chương quan trọng trong chương trình là rất cần thiết, đòi hỏi người giáo viên như tôi luôn tìm cách nghiên cứu sao cho ở mỗi bài thí nghiệm thực hành phải hướng dẫn để các em có những kỹ năng phù hợp với tình hình, đặc điểm của trường, vừa phù hợp với hoàn cảnh của các em. Để khai thác triệt để các thí nghiệm trong chương trình, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh đặc biệt là kỹ năng làm thí nghiệm thực hành trong chương điện học lớp 9 đạt cao nhất, tôi có một số giải pháp và một số ví dụ cụ thể để chứng minh những giải pháp đó như sau: c.Quy trình nghiên cứu Tổ chức học sinh làm thí nghiệm vật lí chủ yếu trong các hoạt động nhóm nhằm rèn luyện cho học sinh kỉ năng sử dụng các dụng cụ đo lường vật lí phổ biến, lắp ráp và tiến hành các thí nghiệm đơn giản, kỉ năng phân tích và xử lí các thông tin, các dữ liệu thu được từ thí nghiệm. Qua thí nghiệm học sinh có thái độ trung thực, tỉ mỉ, cẩn thận, chính xác, rèn luyện tính độc lập và kỉ năng tư duy sáng tạo cho học sinh trong thực hành thí nghiệm Làm thí nghiệm là một hoạt động không thể thiếu được trong giờ học Vật lí. Khi làm thí nghiện thành công thì học sinh cơ bản nắm được kiến thức nội dung bài học. Muốn làm thí nghiệm thành công cũng không phải chuyện dễ vì môn Vật lí có nhiều thí nghiệm, mỗi bài học có một kiểu thí nghiệm khác nhau. Do đó, giáo viên phải suy nghĩ xem mình phải chuẩn bị những gì cho bài học này và cho những bài học khác, nhưng tổ chức cho HS làm thí nghiệm ở những bài học khác nhau cũng có những đặc điểm chung: c1. Chuẩn bị: + GV gọi HS cho biết mục đích của TN là gì? + HS: Tổ chức HS làm thí nghiệm chủ yếu trong hoạt động nhóm nên GV có thể chia lớp thành 4 à6 nhóm nhỏ (tùy tình hình cơ sở vật chất trường, lớp), có phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong nhóm như phân công nhận và thu dọn lại dụng cụ thí nghiệm của nhóm. Phân công thư ký để ghi kết quả thí nghiệm, phân công chịu trách nhiệm trình bày kết quả thí nghiệm . Trong nhóm, mỗi thành viên thực hiện một công việc cụ thể. + GV phải chuẩn bị sẵn đầy đủ các đồ dùng, dụng cụ cần thiết cho từng thí nghiệm ở các nhóm. Vẽ hình sẵn nếu cần thiết. C2. Giới thiệu đồ dùng: GV giới thiệu và cách sử dụng từng đồ dùng có trong thí nghiệm hoặc qua hình vẽ HS nêu được các đồ dùng cần thiết trong thí nghiệm hoặc HS có thể tự đề xuất phương án làm thí nghiệm để giải quyết một vấn đề nào đó. C3. Giáo viên có thể làm mẫu cho HS xem:Có những thí nghiệm tương đối khó thực hiện, GV có thể làm trước cho HS xem trước các bước hoặc có những đồ dùng các em chưa từng thực hiện thì GV cũng có thể thao tác mẫu cho HS thấy. C4. Tiến hành thí nghiệm: Các nhóm HS đồng loạt tiến hành thí nghiệm theo sự hướng dẫn của GV. Từng thành viên trong nhóm thực hiện nhiệm vụ của mình như đã phân công trong nhóm. Khi học sinh làm thí nghiệm, giáo viên theo dõi, quan sát kỉ năng, thái độ làm việc của học sinh từng nhóm để từ đó có thể chỉnh đốn, uốn nắn nhằm hình thành các kỉ năng làm thí nghiệm thực hành cho học sinh. C5. Các nhóm thảo luận, xử lý, trình bày kết quả: Sau khi các nhóm thực hiện thí nghiệm xong (có thể trong quá trình thí nghiệm) các nhóm tự thảo luận, xử lý kết quả của nhóm mình sau đó trình bày kết quả trên bảng phụ của nhóm hoặc phiếu học tập mà GV đã hướng dẫn trước đó. C6. Lớp thảo luận thống nhất: Sau khi các nhóm trình bày kết quả thí nghiệm GV cho cả lớp cùng thảo luận kết quả từ đó đi đến thống nhất chung về kết quả thhực hiện được. *Trong những bài thí nghiệm ở phần Điện học trình tự tiến hành thí nghiệm như trên, tuy nhiên nó cũng có những đặc thù riêng của phần Điện học, cụ thể: - Ôn lại các kiến thức cũ của các bài trước và các kiến thức quan trọng có liên quan mà HS đã được học ở lớp 7 -Chuẩn bị đầy đủ các linh kiện, đồ dùng (nên soạn riêng từng mâm cho mỗi nhóm) -Vẽ hình mạch điện lên bảng phụ, yêu cầu HS cho biết công dụng và cách mắc từng bộ phận trong sơ đồ mạch điện -Dựa vào mạch điện, hướng dẫn từng bước cho HS mắc mạch điện theo sơ đồ. -Chú ý đặt các dây dẫn điện phải liên tục để dễ quan sát (hạn chế đan chéo nhau) -GV nhắc HS trong khi ráp mạch điện phải để khóa K hở. Sau khi nhóm nào báo ráp xong, GV đến kiểm tra àcho HS đóng khóa K. -Nếu nhóm nào khi đóng khóa K mà thấy kim của các dụng cụ quay ngược lại thì lập tức ngắt khóa k và kiểm tra, đổi cực ở hai chốt của dụng cụ. -HS biết đọc các số chỉ thị trên mặt đồng hồ đo, giá trị một khoảng chia ( đối với những loại vôn kế hoặc ampe kế có 2 thang đo thì phải đọc thang trên hay thang dưới) -GV phải biết cần cho HS mắc vôn kế và ampe kế với thang đo như thế nào để không hư dụng cụ. -Nên theo dõi thí nghiệm ở các nhóm để có thể giúp các em thực hành đúng động tác và nhất là đọc đúng số chỉ của các dụng cụ đo. -Cần bố trí thêm một bộ dụng cụ thí nghiệm để phòng có các dụng cụ hư của các nhóm . -Riêng các tiết thực hành thì học sinh có thêm nhiệm vụ phải hoàn thành mẫu báo cáo trong sách giáo khoa. d. Đo lường và thu thập dữ liệu Sau khi thực hiện các phương pháp để rèn luyện cho học sinh các kỹ năng làm thí nghiệm Vật lí trong phần điện học đã đem lại kết quả khả quan hơn so với kết quả khi chưa sử dụng. Đồng thời kể từ khi áp dụng vào các bài có thí nghiệm thực hành thì tôi nhận thấy một số điểm sau: + Kỹ năng sắp xếp, bố trí các thí nghiệm có hệ thống và tiến bộ hơn trước + Kỹ năng làm các thí nghiệm thực hành của học sinh rất nhanh nhẹn, không còn lúng túng trong khi làm thí nghiệm, phần lớn các thành viên trong nhóm đều tham gia làm việc. + Học sinh nắm các kiến thức một cách sâu và vững chắc hơn. +Học sinh cảm thấy yêu thích bộ môn hơn, nhất là các bài học có thí nghiệm, vì các em có niềm tin vào các kiến thức Vật lí. + Học sinh biết cách hợp tác trong học tập. 4. Phân tích dữ liệu và bàn luận kết quả Sau đây là bảng kết quả ở các lớp 9a2, 9a3, 9a4, 9a5 ở trường THCS Chu Văn An qua các thời điểm khác nhau là: Thời điểm kiểm tra Tổng số Trên trung bình Dưới trung bình Tổng số % Tổng số % Khảo sát chất lượng đầu năm 156 135 86,5 21 13,5 Kiểm tra lần 1 156 140 89,7 16 10,3 Kiểm tra lần 2 156 144 92,3 12 7,7 Cho thấy kết quả có phần tiến bộ hơn rất nhiều sau khi thực hành thí nghiệm. một số em có tiến bộ rõ nét trong học tập do cảm thấy thích học hơn. Nhiều em còn tiến bộ đối với các môn có thực hành thí nghiệm. nhưng dù sau cũng cần lưu ý khi giáo viên cho học sinh thực hành thí nghiệm. Việc làm thí nghiệm về mạch điện nếu sử dụng nguồn điện là pin thì khá an tòan cho HS. Tuy nhiên nếu làm thí nghiệm với nguồn điện là biến thế chỉnh lưu cắm vào mạch điện 220V thì trước khi làm thí nghiệm GV cần kiểm tra để bảo đảm cách điện giữa cuộn sơ cấp (cắm vào điện 220V) với cuộn thứ cấp ở mạch điện HS sử dụng. Trên bàn GV cần có cầu dao điều khiển điện cho cả lớp, ở cầu dao này dùng dây chì loại nhỏ để dễ ngắt mạch khi có sự cố. Sau khi kiểm tra việc lắp mạch điện của HS xong GV mới đóng mạch cho sử dụng. Khi có sự cố giáo viên có thể ngắt mạch điện ngay. Việc cho học sinh làm thí nghiệm rất quan trọng, nên giáo viên phải tổ chức cho học sinh làm đều đặn và thường xuyên, từ đó tạo cho các em thói quen tốt trong khi làm thí nghiệm. Nhất là đối với phần Điện học, nếu các em được thường xuyên làm thí nghiệm thì các em sẽ thành thạo trong cách lắp mạch điện làm cho giáo viên đở vất vả nhiều trong khâu hướng dẫn ở những tiết sau, các em có thói quen về an toàn điện và biết cách khắc phục sự cố nếu có. Qua việc giảng dạy, dự giờ ở những tiết Vật lý có tổ chức cho HS làm thí nghiệm thì thấy không khí lớp học rất sôi nổi, giúp cho học sinh tiếp thu bài tốt hơn, các em rất say mê trong những thí nghiệm do chính tay mình làm từ đó các kiến thức được khắc sâu hơn vì những kiến thức vật lý thường xuất phát từ những thí nghiệm chứng minh, thí nghiệm thực hành. Tuy nhiên để việc làm thí nghiệm thành công hơn thì giáo viên phải biết tổ chức hợp lý mới có kết quả tốt, phải chọn những dụng cụ sao cho hạn chế rất ít những sai số không cần thiết. * Hạn chế: Chuẩn bị vất vả, điều khiển giờ thực hành phức tạp vì có nhiều học sinh chưa có kỹ năng thực hành thí nghiệm và nếu có ít cũng không đồng đều, nếu điều khiển không khéo giờ thực hành sẽ bị phân tán và phản tác dụng. Mặt khác, trong quá trình tự học của học sinh ở nhà, học sinh nào tự giác tích cực sẽ đạt hiệu quả cao hơn, ngược lại một số học sinh kém, hoạt động chậm hơn luôn bị động và rất dễ dẫn đến chán học. 5. Kết luận và khuyến nghị * Kết luận: Qua việc nghiên cứu , tìm hiểu các phương phap để rèn luyện cho học sinh kỹ năng làm thí nghiệm thực hành phần điện học ở môn Vật lí 9, tôi nhận thấy một số vấn đề sau: Để đạt chất lượng tốt trong giảng dạy và nhất là để học sinh nắm bắt các kiến thức vững chắc hơn, có kỹ năng vận dụng các kiến thức, các thí nghiệm vào thực tiễn tốt hơn thì mỗi trường cần có phòng thí nghiệm cho bộ môn. Vì có như vậy thì giáo viên và cả học sinh đỡ vất vả hơn trong quá trình bố trí , làm thí nghiệm, kết quả được chính xác hơn. Với vốn kinh nghiệm còn ít ỏi, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp nên đề tài không tránh khỏi thiếu sót. Mong các đồng nghiệp, Ban giám hiệu nhà trường nhận xét, đóng góp ý kiến quý báu để đề tài được hoàn thiện hơn. * Khuyến nghị: - Đối với giáo viên: Không ngừng học tập, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; cần quan tâm giúp đỡ hơn nữa học sinh yếu kém; lựa chọn các nhóm trưởng có uy tín, học khá, giỏi để giúp đỡ hoc sinh yếu. - Đối với các cấp lãnh đạo: để tiết thực hành thí nghiệm thành công cần phải trang bị đầy đủ các trang thiết bị, chính xác. Do đó cần có sự chỉ đạo kịp thời về cơ sở vật chất và kinh phí để giáo viên thực hiện có hiệu quả hơn. 6. Tài liệu tham khảo: -Sách giáo khoa vật lí 9, NXB giáo dục. -Sách giáo viên vật lí 9, NXB giáo dục. -Tài liệu hướng dẫn, sử dụng bộ dụng cụ thí nghiệm thực hành vật lí 9 của Bộ giáo dục và đào tạo. -Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS ở môn vật lí, NXB giáo dục. -Phương pháp dạy học vật lí, Nguyễn Đức Thâm- Nguyễn Ngọc Hưng. - Chuẩn kiến thức kỹ năng môn vật lí THCS – NXB Giáo dục. - Phương pháp dạy học vật lí – NXB Giáo dục. - Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng. 7. Phụ lục đề tài Các ví dụ về tiến hành tiết thực hành thí nghiệm ¯Ví dụ 1 : A V K + - Hình 1.1 wTrong bài 1“SỰ PHỤ THUỘC CỦA CƯỜNG ĐỘ DÒNG ĐIỆN VÀO HIỆU ĐIỆN THẾ GIỮA HAI ĐẦU DÂY DẪN” (Vật lý lớp 9) cho các nhóm đo cường độ dòng điện qua dây dẫn ứng với các hiệu điện thế khác nhau đặt vào hai dầu dây dẫn đó. --> Mục đích thí nghiệm: Thấy được mối liên hệ giữa cường độ dòng điện và hiệu điện thế đặt vào hai đầu dây dẫn. -Chuẩn bị : 4 nhóm (mỗi nhóm): Nguồn điện 6V; 1 dây constantan; 1 ampe kế; 1 vôn kế; 1 công tắc; 6 đoạn dây dẫn, kẻ sẵn bảng 1 SGK. GV vẽ sẵn sơ đồ hình 1.1 -Cho HS kể tên, nêu công dụng và cách mắc của từng bộ phận trong sơ đồ hình 1.1 -Cho các nhóm nhận dụng cụ theo sơ đồ mạch điện (vì đây là bài đầu tiên của chương có thể HS đã quên cách mắc mạch điện đã học ở lớp 7 nên GV có thể hướng dẫn từng bước cho các nhóm đồng loạt mắc mạch điện) -GV theo dõi, kiểm tra, giúp đđỡ các nhóm mắc mạch điện. -Nhóm nào mắc đúng thì GV cho đóng mạch và tiến hành đo, ghi kết quả vào bảng 1. -Cho các nhóm tăng dần nguồn điện từ 1,5V lên 6V, ghi giá trị của hiệu điện thế và dòng điện tương ứng vào bảng 1. -Thảo luận trả lời C1: Từ kết quả thí nghiệm, hãy cho biết khi thay đổi hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn, cường độ dòng điện chạy qua dây dẫn đó có mối quan hệ như thế nào đối với hiệu điện thế? ( U tăng bao nhiêu lần thì I cũng tăng bấy nhiêu lần) *Chú ý: *Trước khi đo phải điều chỉnh vôn kế và ampe kế ở vạch số 0. * Sắp xếp các dụng cụ theo sơ đồ. *Dùng dây dẫn nối liên tục các dụng cụ lại với nhau theo sơ đồ, chú ý dây dẫn không được đan chéo nhau. *Mắc ampe kế nối tiếp vào mạch, mắc vôn kế song song với mạch cần đo, chốt (+) của chúng phải mắc về phía cực dương của nguồn điện.Chú ý chọn thang đo phù hợp, xác định GHĐ, ĐCNN của thang đo. * Chỉ đóng mạch trong thời gian ngắn nhất đủ để quan sát số chỉ của ampe kế và vôn kế. ¯Ví dụ 2 :Trong bài 10 “BIẾN TRỞ - ĐIỆN TRỞ DÙNG TRONG KĨ THUẬT” (Vật lý lớp 9) cho các nhóm mắc biến trở vào mạch điện và sử dụng biến trở trong mạch điện. Hình 10.3 à Mục đích thí nghiệm: Biết cách mắc biến trở vào mạch điện, biết tác dụng của biến trở. -Chuẩn bị :4 nhóm (mỗi nhóm):Nguồn điện 3V; 1 biến trở con chạy (20-2A); 1 bóng đèn 2,5V; 1 công tắc; 5 đoạn dây dẫn. -HS cho biết các dụng cụ ở mạch điện hình 10.3, từ đó cho HS vẽ sơ đồ mạch điện. -Sau khi HS vẽ sơ đồ mạch điện GV cho HS nhận dụng cụ và tiến hành lắp mạch điện. -GV lưu ý HS đẩy con chạy về phía N để biến trở có điện trở lớn nhất trước khi cho HS đóng công tắc. Sau đó cho HS di chuyển con chạy về phía A và quan sát độ sáng của bóng đèn. Sau khi các nhóm thực hiện xong cho đại diện các nhóm trả lời C6 SGK. è Rút ra kết luận chung: Biến trở là điện trở có thể thay đổi trị số và có thể sử dụng để điều chỉnh cường độ dòng điện trong mạch. *Chú ý: -Khi mắc biến trở nối tiếp vào mạch điện thì lưu ý HS mắc ở các chốt A và N hoặc B và N. Nếu HS mắc biến trở vào mạch ở hai chốt A và B thì biến trở không có tác dụng thay đổi điện trở vì khi dịch chuyển con chạy sẽ không có tác dụng làm thay đổi chiều dài của phần cuộn dây có dòng điện ch

File đính kèm:

  • docskkn ren luyen ky nang thuc hanh vat ly 9.doc