Đổi mới kiểm tra đánh giá thúc đẩy đổi mới giảng dạy bộ môn Địa Lí THCS

Việc đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá và phương pháp dạy học không chỉ đơn thuần là giáo viên dùng hệ thống câu hỏi, bài kiểm tra để đánh giá mức độ nhận thức của học sinh và cho điểm. Hiện nay khi vấn đề giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu thì việc đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá và dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh đã trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu trong quá trình đổi mới sự nghiệp giáo dục ở nước ta; và được thực hiện ở tất cả các bộ môn trong đó có bộ môn Địa lí.

doc12 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 5553 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới kiểm tra đánh giá thúc đẩy đổi mới giảng dạy bộ môn Địa Lí THCS, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GD&ĐT BÌNH DƯƠNG TRƯỜNG THPT LÊ LỢI Tổ: Sử -Địa BÀI THAM LUẬN ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI GIẢNG DẠY BỘ MÔN ĐỊA LÍ THCS Việc đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá và phương pháp dạy học không chỉ đơn thuần là giáo viên dùng hệ thống câu hỏi, bài kiểm tra để đánh giá mức độ nhận thức của học sinh và cho điểm. Hiện nay khi vấn đề giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu thì việc đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá và dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh đã trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu trong quá trình đổi mới sự nghiệp giáo dục ở nước ta; và được thực hiện ở tất cả các bộ môn trong đó có bộ môn Địa lí. A. ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ: I.Mục đích, ý nghĩa, yêu cầu của việc kiểm tra đánh giá: 1.Mục đích: -Làm rõ mức độ hòan thành mục tiêu dạy học, phát hiện nguyên nhân, điều chỉnh hoạt động dạy học. -Công khai hóa việc nhận định hoạt động học tập cho học sinh, từ đó tạo điều kiện cho học sinh phát triển kỹ năng tự đánh giá và phấn đấu vươn lên trong học tập. -Giáo viên có cơ sở thực tế để không ngừng cải tiến, đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả bài học. 2.Ý nghĩa: -Tạo điều kiện cho giáo viên: +Nắm được sự phân hóa về trình độ học lực của học sinh trong lớp, từ đó có biện pháp giúp các em học yếu và bồi dưỡng các em khá giỏi. +Có cơ sở thực tế để điều chỉnh, tự hòan thiện hoạt động dạy học của mình. -Giúp học sinh: +Biết được khả năng học tập của mình so với mục tiêu đề ra và với yêu cầu của chương trình. +Tìm được nguyên nhân sai sót, từ đó điều chỉnh hoạt động của mình. +Phát triển kĩ năng tự đánh giá. -Giúp cán bộ quản lí: Nắm được các thông tin cơ bản về thực trạng dạy và học ở đơn vị để có sự chỉ đạo kịp thời, đúng hướng. -Giúp cha, mẹ học sinh và cộng đồng: Biết được kết quả học tập của học sinh và kết quả dạy học của giáo viên, từ đó cùng với nhà trường và xã hội đề ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh. 3.Yêu cầu: -Khách quan, chính xác. -Tòan diện, hệ thống. -Công khai kịp thời. -Vừa sức và bám sát yêu cầu chương trình. II.Về đổi mới kiểm tra đánh giá: Qua hội thảo, chúng tôi đã khẳng định: -Người giáo viên không chỉ đơn thuần là người cho điểm mà còn là người đánh giá và giúp học sinh tự đánh giá đúng trình độ năng lực và mức độ tiếp thu tri thức của học sinh. Vì vậy kết quả của quá trình kiểm tra đánh giá là kết quả của một quá trình học tập trong một thời gian nhất định; cái mà học sinh học được chứ không phải cái giáo viên dạy được (kiến thức, kỹ năng, khả năng giao tiếp, thái độ...) và đồng thời nó cũng là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc của cả thầy lẫn trò. -Qua thảo luận, tập thể tổ Sử - Địa cũng đã thống nhất tiêu chuẩn của quá trình kiểm tra đánh giá bao gồm: 1.Về kiến thức: Kiến thức của quá trình kiểm tra cần đạt được là những tri thức mà học sinh tiếp thu được sau một tiết học, một bài học, một chương, một học kỳ và một năm học, một cấp học. Thông thường bài kiểm tra cần phải đạt được ở các mức độ sau để phù hợp với từng đối tượng học sinh: Nhớ- hiểu-vận dụng. 2.Về kỹ năng: Khi học môn Địa lí cần phải chú ý đảm bảo một số kỹ năng như: Khai thác kênh hình, kênh chữ, sử dụng bản đồ, lược đồ, mô hình, bảng số liệu, bảng thống kê, tranh ảnh, hình vẽ; kỹ năng phân tích, tổng hợp thông tin, viết báo cáo… Về thang điểm kiểm tra: Phần kiến thức từ 7 điểm – 8 điểm; phần kỹ năng 2 điểm – 3 điểm. Giáo viên cần chú ý để đảm bảo bảo đủ cả hai phần này trong quá trình kiểm tra, đánh giá. Ngoài ra, có thể phát huy thêm các thang điểm về thái độ (nếu có), nhận thức của học sinh về một vấn đề nào đó. -Trong quá trình giảng dạy bộ môn Địa lí, ngoài việc duy trì các phương pháp kiểm tra truyền thống như nói, viết, bài tập (kiểm tra miệng, 15 phút, 45 phút, học kỳ …) chúng tôi cò đưa ra các hình thức kiểm tra khác như: Dùng bài tập lượng giá cuối tiết học, kiểm tra theo hình thức “Mođun Địa lí” tức là giao cho học sinh làm theo các chủ đề của từng bài, từng đề mục; giáo viên nhận xét và cho điểm. (Ví dụ như bài: Con người và môi trường Địa lí – Lớp 8). -Trong giảng dạy nên kết hợp đánh giá của giáo viên và của học sinh; đánh giá định kỳ trong quá trình giảng dạy. Giáo viên đánh giá không chỉ qua số điểm mà còn có thể qua lời nói, biểu dương, khen thưởng… một cách chính xác; kịp thời nhằm động viên, khích lệ tinh thần học tập của học sinh. Giáo viên cũng cần đề cao ý thức đánh giá và tự đánh giá lẫn nhau của học sinh để rèn luyện cho học sinh tác phong làm việc năng động, tích cực, tự tin. -Ngoài kiểm tra miệng đầu tiết học, giáo viên cũng có thể kiểm tra trong quá trình giảng dạy. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp đàm thoại, vấn đáp gợi mở để tạo điều kiện cho học sinh trả lời các câu hỏi khó, giải quyết các tình huống địa lí; tìm ra mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng địa lí; vận dụng kiến thức địa lí vào thực tiễn đời sống… Bên cạnh đó giáo viên cũng có thể sử dụng hệ thống câu hỏi tái hiện để học sinh trả lời các kiến thức cũ đã học, giáo viên nhận xét và cho điểm. -Cùng với việc phát huy tính tích cực của học sinh, việc đánh giá kết quả, hiệu quả làm việc nhóm của học sinh trong mỗi tiết học cũng hết sức quan trọng. Việc đánh giá, so sánh hiệu quả làm việc giữa nhóm này với nhóm khác sẽ là động lực để khích lệ và tạo tính tích cực trong học sinh; giúp học sinh rèn luyện kỹ năng có thể làm việc độc lập và làm việc tập thể. Với hình thức này, giáo viên có thể cho điểm theo nhóm, theo ý thức làm việc của cá nhân trong mỗi nhóm, điểm này sẽ được cộng vào thang điểm của kiểm tra miệng hoặc 15 phút của học sinh. -Việc đặt câu hỏi trong tiết dạy nhằm gợi mở hoặc củng cố kiến thức cho học sinh cũng hết sức quan trọng, nhưng quan trọng hơn đó là việc đánh giá, nhận xét của giáo viên về những vấn đề mà học sinh trả lời; việc nhận xét này cần tế nhị không nên gạt bỏ một cách cứng nhắc với những gì mà học sinh trả lời sai, chưa đúng mà cần có thái độ tích cực nhằm động viên và khuyến khích tính tích cực của học sinh, tránh việc học sinh sẽ không dám nêu ý kiến, quan điểm của mình về các vấn đề của bài học, tiết học vì học sinh sợ trả lời sai, sợ bị giáo viên chê. -Trong tiết học giáo viên cũng nên sử dụng một số câu hỏi dạng trắc nghiệm để đánh giá, kiểm tra nhận thức của học sinh về các nội dung của bài học, việc đánh giá này vừa giúp học sinh ghi nhớ, củng cố kiến thức vừa tạo được hứng thú và sự chủ động trong học tập cho học sinh. -Đối với các bài kiểm tra định kỳ: +Kiểm tra 10 phút và 15 phút: Số lượng bài kiểm tra tùy thuộc vào từng khối, tuy nhiên giáo viên cũng có thể linh động cho phù hợp với từng lớp (đối với lớp sức học yếu có thể tăng cường kiểm tra nhiều hơn). Đối với bài kiểm tra này giáo viên có thể chọn thời điểm là vào các tiết học với nội dung ngắn để đảm bảo chất lượng tiết dạy. Hình thức kiểm tra có thể là 100% trắc nghiệm khách quan hoặc trắc nghiệm khách quan lẫn tự luận. Kết quả của bài kiểm tra sẽ tác động sâu sắc đến quá trình dạy và học; tùy vào kết quả đó mà giáo viên điều chỉnh mức độ kiểm tra lần sau cho phù hợp. +Kiểm tra 45 phút: Bao gồm cả trắc nghiệm (lựa chọn câu đúng, điền khuyết) và tự luận. Số lượng câu trắc nghiệm thông minh từ 12 – 16 câu; mỗi câu 0,25 điểm và tự luận là từ 6 điểm – 7 điểm. Tuỳ vào từng khối học, đối với khối lớp 9 nên bổ sung thêm các bài kiểm tra thực hành biểu đồ từ 1,5 – 2 điểm; biểu đồ không quá phức tạp để học sinh có đủ thời gian để làm. Bộ đề kiểm tra một tiết được đảo thành nhiều đề để đảm bảo tính khách quan; đề kiểm tra phải có 1 – 2 câu khó để phân loại học sinh, điểm cho câu hỏi khó từ 1-2 điểm. Hình thức kiểm tra có thể chung đề, chung khối; tuy vậy công tác ra đề, duyệt đề, định ngày kiểm tra, phân công giáo viên gác kiểm tra; phải lên kế hoạch sớm để tránh cập rập gây khó khăn cho giáo viên và thông báo cho học sinh nắm được chính xác lịch kiểm tra trước một tuần để các em chuẩn bị. +Kiểm tra học kỳ: Thi kiểm tra học kỳ là bài kiểm tra quan trọng nhất trong quá trình học tập của học sinh. Muốn bài kiểm tra này đạt kết quả cao thì giáo viên cần phải chú ý đến tiết ôn tập chuẩn bị cho cho bài thi. Nội dung ôn tập là kiến thức trọng tâm của từng bài, từng chương; hình thức ôn tập có thể tuỳ vào từng giáo viên và thực tế lớp học. Giáo viên có thể cho học sinh về nhà ôn tập chuẩn bị kiến thức của từng chương, những vần đề nào khó, tới tiết ôn tập giáo viên sẽ hướng dẫn và trả lời; giáo viên cũng có thể khái quát lại kiến thức của các bài, nhấn mạnh những điểm trọng tâm, quan trọng. Giáo viên bổ sung vào kế hoạch ôn tập những câu hỏi khó, đòi hỏi học sinh khá giỏi phải phân tích, tư duy để trả lời. Thống nhất thang điểm giữa trắc nghiệm và tự luận là 3/7. Nội dung đề kiểm tra học kỳ phải đúng trọng tâm từng bài, chương, học kỳ; đảm bảo phân điểm hợp lí giữa kiến thức, kỹ năng và thái độ (nếu có); câu hỏi tư duy chiếm 40%, câu hỏi tái hiện chiếm 20%, câu hỏi kỹ năng chiếm 40% số điểm. Việc sửa bài kiểm tra, bài thi học kỳ cũng cần được coi trọng. Đối với môn địa lí thì không có tiết trả bài kiểm tra, trả bài thi trong phân phối chương trình; tuy nhiên giáo viên bộ môn cũng cần phải bỏ ra một lượng thời gian nhất định ở tiết học sau để đánh giá kết quả và sửa các điểm sai cho học sinh. Giáo viên có thể chọn một số học sinh đạt điểm cao lên sửa các câu hỏi khó, các bài tập biểu đồ... sau đó giáo viên sẽ chốt lại các mặt đạt được và chưa đạt được của bài kiểm tra này. Qua chấm bài, giáo viên cũng có thể phát hiện ra những học sinh nào tự lực làm bài, học sinh nào thiếu trung thực, nhìn bài bạn. Qua việc nhận xét khuyến khích những học sinh tích cực, giáo viên cũng cần nhắc nhở, phê bình những học sinh thiều tích cực; từ đó giúp học sinh rút kinh nghiệm, hay nói cách khách là giáo viên định hướng cho học sinh thái độ học tập đúng đắn. Trong thang điểm kiểm tra, giáo viên nên dành cộng một phần điểm ưu tiên đối với phần sáng tạo trong bài kiểm tra của học sinh (như sự phát hiện, đánh giá mang tính mới mẻ; cái hay, cái sáng tạo mang tính bất ngờ...), phần điểm này giáo viên sẽ cộng công khai ngay trong tiết sửa bài đó. Trên đây là những ý kiến của chúng tôi về một số vấn đề cơ bản trong công tác kiểm tra đánh giá. Tuy nhiên còn tuỳ thuộc vào thực trạng giảng dạy và học tập của từng trường mà chúng ta có kế hoạch kiểm tra và đánh giá cho phù hợp. B. ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY: I.Thực trạng giảng dạy môn Địa lí ở trường THCS hiện nay : Từ trước tới nay, dạy học môn Địa lí, giáo viên chủ yếu sử dụng các phương pháp dạy học như phương pháp dùng lời, phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan (mô hình, biểu đồ, tranh ảnh...).Nhiều giáo viên đã sử dụng tốt các phương pháp này theo hướng phát huy tính sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên, cũng có không ít giáo viên ít quan tâm tới việc giúp học sinh phát huy tính sáng tạo của mình trong giờ học. 1.Phương pháp dùng lời: Có thể kể đến các phương pháp như: thuyết giảng, vấn đáp ; tức là giáo viên sử dụng lời giảng mạch lạc, rõ ràng ; học sinh lắng nghe, quan sát biểu đồ, sách giáo khoa và ghi chép kiến thức. 2.Phương pháp trực quan: Giáo viên sử dụng các phương tiện như: bản đồ, quả địa cầu, lược đồ, hình ảnh ... để phân tích làm rõ các kiến thức địa lí. Nhưing hiện nay, nhiều giáo viên lại chỉ sử dụng các phương tiện trực quan chỉ để mang tính chất minh họa; tức là giáo viên chưa khai thác triệt để nguồn kiến thức từ phương tiện và chưa chú ý đến việc học sinh có khả năng tự làm việc với các phương tiện đó hay không. Tuy thời gian gần đây, việc dạy học môn địa lí đã được cải thiện theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, nhưng học sinh vẫn còn mang nặng tính thụ động, chưa có kỹ năng tự tìm hiểu, phát hiện kiến thức mới. Có thể kể đến nhiều nguyên nhân như; chưa có sự triển khai đồng bộ về bồi dưỡng giáo viên, đổi mới sách giáo khoa, sách giáo viên, cơ sở vật chất kĩ thuật; trong đó việc thi cử còn mang nặng tính « chính - phụ » cũng là một trong những trở ngại lớn nhất. II. Đổi mới phương pháp giảng dạy: 1.Vấn đề đổi mới: Đổi mới không có nghĩa là bỏ đi các phương pháp giảng dạy địa lí truyền thống mà phải kế thừa, đồng thời tiếp thu những mặt tích cực của phương pháp giảng dạy địa lí mới. 2.Mục tiêu của vấn đề đổi mới phương pháp dạy là: +Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh. +Bồi dưỡng phương pháp tự học. +Rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. +Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập địa lí cho học sinh. 3.Đổi mới phương pháp dạy địa lí: Như vậy, cái cốt lõi của phương pháp dạy địa lí mới là giúp học sinh phát huy được năng lực của bản thân, phát huy tính sáng tạo trong tiết học. Muốn đạt được kết quả trên đòi hỏi sự cố gắng của giáo viên và học sinh, đặc biệt là vai trò của việc định hướng nhận thức cho học sinh là rất quan trọng. 3.1.Giáo viên là người tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh: -Dạy học hướng vào người học, tức người học là trung tâm; nhưng không vì thế mà quên vai trò đặc biệt quan trọng của giáo viên. Giáo viên là người tổ chức ra các hoạt động học tập và định hướng cho học sinh mục tiêu, ý nghĩa của các hoạt động đó. -Trong phương pháp tích cực, người học được cuốn hút vào những hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo; nhưng học sinh tiếp thu tri thức một cách chủ động, sáng tạo chứ không phải thụ động. -Bên cạnh sử dụng phương pháp thuyết giảng thì phương pháp vấn đáp và vấn đáp gợi mở cũng là phương pháp được giáo viên sử dụng tối đa. Mục tiêu của phương pháp này là giúp học sinh giải quyết vấn đề khi học địa lí. Phương pháp này đòi hỏi người học phải tư duy độc lập để tìm được kiến thức mới. Ví dụ vấn đề  « Nguyên nhân hình thành hoang mạc Sahara » (Bài 27 sách giáo khoa địa lí lớp 7). Giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh về vị trí, địa hình, hoàn lưu, hải lưu => Kết luận: *Lãnh thổ Bắc Phi rộng, hình khối. *Có đường xích đạo chạy ngang qua lãnh thổ. *Chịu ảnh hưởng của gió tín phong Đông Bắc. *Dòng biển lạnh Canari chảy ven bờ. 3.2.Giáo viên có thể tạo tình huống để học sinh nhận thức kiến thức mới, tức tránh lối « thầy đọc, trò chép »; giáo viên nên tạo điều kiện cho học sinh tự kết luận và ghi bài (Tất nhiên có sự định hướng và khẳng định đúng hoặc sai của giáo viên). 3.3.Giúp học sinh khai thác tốt các thiết bị học tập: +Sách giáo khoa: Khai thác kiến thức từ sách giáo khoa bao gồm kênh hình, kênh chữ, bảng thống kê, số liệu, biểu đồ, lược đồ... Việc sử dụng sách giáo khoa tưởng chừng như rất dễ song lại không đơn giản để khai thác triệt để kiến thức từ sách giáo khoa và không bị lệ thuộc quá mức vào nó. Giáo viên nên rèn luyện cho học sinh khả năng sử dụng sách; biết chú trọng vào phần trọng tâm, lướt qua những phần không cơ bản, phát hiện những thiếu sót của sách giáo khoa và bổ sung những thông tin, số liệu, tin tức thời sự liên quan tới bài học mà sách giáo khoa không có hoặc chưa có. Ví dụ 1: Trong sách giáo khoa lớp 8, ở bài 10 mục 2 có ghi « Nam Á nằm trong đới khí hậu nhiệt đới gió mùa » là chưa chính xác, vì « nhiệt đới gió mùa » là một kiểu. Ví dụ 2 : Trong sách giáo khoa lớp 7, ở bài 2 mục 2 có hình 2.2 là hình ảnh ba chủng tộ Môngôlôit, Ơrôpêôit, Ocxtraylôit. Giáo viên có thể cho học sinh khai thác ảnh để rút ra ý nghĩa là ba chủng tộc này chung sống hoà bình, bình đẳng với nhau. Bên cạnh đó giáo viên cũng có thể nêu lên một số nét nổi bật của ba chủng tộc này để học sinh phân biệt. +Bản đồ và quả địa cầu: Là những thiết bị quen thuộc khi dạy địa lí. Giáo viên nên rèn luyện để học sinh có khả năng sử dụng các phương tiện này hợp lí, hiệu quả về kiến thức lẫn kỹ năng sử dụng. 3.4.Giáo viên nên giúp học sinh học tốt các bài học thực hành, tránh dạy lướt, dạy bỏ kiến thức bởi các bài thực hành sẽ định hướng nhiều kĩ năng địa lí cho học sinh. 3.5.Giáo viên giảng dạy theo hướng rèn luyện phương pháp tự học cho học sinh: Có thể mỗi giáo viên có những phương pháp riêng biệt để giúp học sinh tự học. Giáo viên có thể cho học sinh chuẩn bị bài học trước ở nhà. Muốn thế, giáo viên phải thực hiện tốt phần củng cố bài, tức là giáo viên đã phân công cho học sinh chuẩn bị những vấn đề gì cho tiết sau. Bên cạnh đó, giáo viên thực hiện tốt phương pháp giao việc có kiểm tra, đánh giá sẽ giúp học sinh chủ động tích cực, làm việc có hiệu quả. 3.6.Giáo viên nên tăng cường sử dụng phối hợp các phương pháp: Học tập cá nhân, tập thể, phân nhóm....Trong đó phương pháp chia nhóm là hiệu quả nhất. Khi chia nhóm nhỏ, giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh làm việc tích cực, năng động; khi làm việc cần bầu ra nhóm trưởng và thư ký để ghi lại kết quả thảo luận của nhóm. Giáo viên nên chọn chủ đề thảo luận có tình huống, cần tới sự chia sẻ hợp tác giải quyết; thành viên nhóm không nên quá đông, mỗi nhóm từ 4 đến 6 học sinh. Khi cho học sinh thảo luận giáo viên phải quy định rõ ràng về thời gian; giáo viên không nên quên vai trò hướng dẫn, quan sát, kiểm tra khi học sinh thảo luận và đánh giá, nhận xét kết quả thảo luận của học sinh, khái quát các kiến thức cơ bản nhằm củng cố kiến thức cho học sinh. 3.7.Đối với việc nâng cao kỹ năng địa lí: Giáo viên tạo điều kiện cho học sinh tham gia các trò chơi địa lí nhằm tạo không khí thoải mái; đây cũng là phương pháp hiệu quả để thực hiện cuộc vận động « Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực ». Tuy vậy,việc lựa chọn trò chơi địa lí phải thích hợp với thời lượng bài dạy. Ví dụ: Với hiện tượng trái đất quay xung quanh mặt trời, có nghĩa là trái đất cùng một lúc thực hiện đồng thời hai hoạt động quay. Giáo viên có thể chọn 3 học sinh để đóng vai Trái đất, Trục, Mặt trời để minh họa. 3.8.Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh xem phim tư liệu, tham quan địa lí nếu có điều kiện; khuyến khích học sinh quan sát thế giới tự nhiên; tìm kiếm, xử lí thông tin và kiến thức địa lí từ mọi nguồn, đặc biệt là qua mạng Internet và các phương tiện truyền thông khác. 3.9.Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy được xem là một tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên. Ngoài việc soạn và trình chiếu giáo án điện tử thì khả năng lấy thông tin, hình ảnh để bổ sung vào những gì mà sách giáo khoa không có hoặc chưa có cũng được xem là ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. 3.10.Bên cạnh đó người giáo viên cũng cần tích cực định hướng đổi mới phương pháp học tập cho học sinh, giúp học sinh xác định được mục tiêu, mục đích, thái độ học tập đúng đắn, tích cực, chủ động: -Tổ chức hướng dẫn phương pháp học tập cho học sinh. Thường là học sinh rất lúng túng trong khi xác định phương pháp học tập cho mình. Cần phải chỉ rõ cho học sinh 2 nội dung quan trọng trong phương pháp học tập. +Phương pháp học tập trên lớp: Cần phải tập trung cao độ vào việc tìm hiểu và phân tích kiến thức, nghe giảng, để hiểu rõ nội dung bài; mạnh dạn tham gia xây dựng bài, không nên quá tập trung vào việc ghi bài mà việc nghe giảng bị gián đoạn dẫn đến không hiểu bài (nhiều học sinh chỉ ra sức ghi chép bài mà không chú ý phần giảng giải của giáo viên). +Phương pháp học tập ở nhà: (Có 3 bước quan trọng) Bước 1: Xem lại bài giảng trên lớp, tìm hiểu rõ nội dung và nhớ nội dung cơ bản của bài học. Bước 2: Vận dụng nội dung ấy để trả lời câu hỏi cuối sách giáo khoa, làm các bài tập trong sách giáo khoa, sách bài tập rồi đến các bài trong sách nâng cao nếu có khả năng và nhu cầu. Bước ba: Soạn bài và chuẩn bị bài mới ở nhà, ghi lại các vấn đề chưa hiểu bằng hệ thống câu hỏi để đưa ra trao đổi, tìm hiểu vào tiết học ở trên lớp. -Các em học sinh khá, giỏi thực hiện rất tốt hai nội dung trên của phương pháp học tập, đặc biệt chú trọng phương pháp học ở nhà. Các em học sinh yếu kém thường bỏ qua việc học ở nhà, hoặc học bài ở nhà thì bỏ qua bước một, thực hiện sơ sài hoặc không thực hiện bước ba dẫn đến việc bước vào tiết học với tâm lí thụ động và nắm kiến thức một cách hời hợt. Việc vận dụng kiến thức để trả lời câu hỏi và làm bài tập khiến cho việc hiểu bài phiến diện, lệch lạc và chóng quên. -Một điểm then chốt nữa trong phương pháp học tập là phải học thường xuyên, đều đặn tất cả các bài trong chương trình vì kiến thức là một hệ thống hoàn chỉnh, nếu học sinh học đối phó, chỉ học khi bị kiểm tra thì kiến thức không đầy đủ và hệ thống, dẫn đến không có cơ sở để tiếp thu những kiến thức tiếp theo. -Thường là học sinh không hiểu những điểm cơ bản như trên, nhiều em cứ nghĩ phương pháp học tập là cách gì thật độc đáo, không quan niệm rằng đó là những điều rất thông thường nhưng đòi hỏi người học cần phải có ý chí và nghị lực, kiên trì thực hiện đầy đủ các bước và công việc cần thiết. -Tổ chức Hội nghị học tốt, sinh hoạt chuyên đề về phương pháp học tập, quy mô từng lớp và toàn trường. Điều quan trọng là sau đó phải tổng kết, rút ra những phương pháp hay, dễ áp dụng, có hiệu quả để phổ biến, yêu cầu các lớp tổ chức học tập và vận dụng. -Cần phân tích, giảng giải và ngăn chặn việc quay cóp, không trung thực trong học tập; đồng thời cần phải chống học lệch nhằm giúp học sinh có định hướng đúng đắn trong học tập. Trên đây là bài tham luận của chúng tôi về việc đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá thúc đẩy đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn địa lí. Có thể mỗi trường, mỗi khối lớp, mỗi giáo viên có những phương pháp khác nhau nhằm đạt hiệu quả tốt nhất. Bài tham luận này chỉ là những gì mà tổ Sử-Địa Trường THPT Lê Lợi chúng tôi đã trao đổi và áp dụng thực hiện, rất mong được sự đóng góp ý kiến của quý đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn! Tân Thành, ngày 19 tháng 12 năm 2009 Thay mặt nhóm thảo luận Giáo viên Nguyễn Thị Bích Trâm

File đính kèm:

  • docTham luan mon Dia ly THCS Co Tram.doc