Đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học hoá học ở trường phổ thông

Mục lục

Chuyên đề 1: Giáo dục môi trường thông qua

dạy học hoá học ở trường phổ thông . 5

Chương 1: Sự phát triển, vai trò, nhiệm vụ và phương hướng giáo dục môi trường

ở nhà trường phổ thông. .6

I. Môi trường và tầm quan trọng của môi trường 8

II. Sự phát triển của giáo dục môi trường trên thế giới và ở nước ta 8

III. Vai trò, nhiệm vụ và phương pháp GDMT ở trường phổ thông Việt Nam 11

III. Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và ngành Giáo dục và Đào tạo về bảo vệ môi trường và GDMT 13

Chương 2: Những kiến thức cơ sở về môi trường và hoá học môi trường . .15

I. Những kiến thức cơ sở về môi trường 17

II. Những kiến thức cơ sở về hoá học môi trường và sự ô nhiễm môi trường 27

Chương 3: Giáo dục môi trường và những vấn đề bảo vệ môi trường 43

I. Giáo dục môi trường 43

II. Các biện pháp bảo vệ môi trường 55

Chương 4: Phương pháp GDMT thông qua môn Hoá học ở trường phổ thông 61

I. Phương thức đưa GDMT vào môn Hoá học ở trường phổ thông 61

II. Môđun – cơ sở lí luận của phương pháp môđun 64

III. Nội dung GDMT khai thác từ các khái niệm cơ bản về môi trường 66

IV. Thiết kế các môđun GDMT khai thác từ kiến thức hoá học trong sách giáo khoa phổ thông 69

Tài liệu tham khảo 70

Chuyên đề 2: Đổi mới PPDH và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học hoá học ở trường phổ thông 71

Chương 1: Những xu hướng đổi mới PPDH Hoá học 72

I. Nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học Hoá học 72

II. Tính tích cực của nhận thức 74

III. Phương hướng đổi mới phương pháp dạy học hoá học 77

IV. Phương pháp dạy học tích cực 84

Chương 2: Những PPDH tích cực trong dạy học hoá ở trường Phổ Thông 87

I. Sự đổi mới quá trình dạy học hoá học theo hướng dạy học tích cực 87

II. Những đổi mới trong chương trình, SGK Hoá học THPT 91

III. Sử dụng các phương pháp dạy học hoá học theo hướng dạy học tích cực 97

Chương 3: Thiết kế kế hoạch giờ học theo hướng dạy học tích cực 121

I. Xây dựng kế hoạch giờ học theo hướng dạy học theo hoạt động 121

IV. Thiết kế bài học theo quan điểm kiến tạo – tương tác 124

Chương 4: Tổng quan Công nghệ thông tin và truyền thông 131

I. Công nghệ thông tin và truyền thông với dạy học Hóa học 131

II. Làm việc với máy vi tính 132

III. Các phần mềm văn phòng Microsoft Office 133

Chương 5: Hướng dẫn sử dụng MS.WORD XP trong dạy học hoá học 137

I. Cửa sổ ứng dụng 137

II. Các lệnh căn bản 138

III. Các tính năng kĩ thuật 142

IV. ứng dụng soạn bài giảng Hoá học 142

Chương 6: Hướng dẫn sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint XP 145

I. Khởi động MS.PowerPoint XP 146

II. Màn hình PowerPoint XP 147

III. Thiết lập các tham số chung cho toàn bộ tập tin trình diễn 147

IV. Một số thao tác trên tập tin và Slide 148

V. Tạo siêu liên kết (Hyperlink) 152

VI. Thiết lập trình diễn 153

VII. Các bước xây dựng tập tin 154

VIII. Một số chú ý khi xây dựng tập tin trình diễn 154

X. Xây dựng một số mô phỏng đơn giản trong dạy học hoá học 154

 

Chương 7: Hướng dẫn sử dụng phần mềm ChemDraw Utra 8.0 157

I. Đơn lệnh File 158

II. Thanh đơn lệnh Edit 159

III. Thanh đơn lệnh View 159

IV. Thanh đơn lệnh Object 160

V. Thanh đơn lệnh Structure 160

VI. Thanh công cụ của ChemDraw Utra gồm 36 công cụ 161

Chương 8: Hướng dẫn sử dụng phần mềm Chem 3D Phiên bản 8.0 167

I. Thanh đơn lệnh 168

II. Thanh công cụ 171

Tài liệu tham khảo 175

Chuyên đề 3: Bài tập TNKQ và bài tập hoá học ở THPT 177

Chương 1: Trắc nghiệm khách quan 178

I. Cơ sở lí luận về kiểm tra - đánh giá 178

II Cơ sở lí luận về trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan 184

Chương 2: Bài tập hóa học ở trường trung học phổ thông 203

I. ý nghĩa, tác dụng của bài tập hóa học ở trường phổ thông 203

II. Một số phương pháp giải bài toán hóa học ở THPT 204

III. Phân loại, lựa chọn và sử dụng bài tập hoá học trong dạy học hoá học 226

IV. Xây dựng bài tập hóa học mới 240

Tài liệu tham khảo 251

Phụ lục 1: 252

Phụ lục 2 275

Phụ lục 3 298

Phụ lục 4 306

 

 

doc288 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học hoá học ở trường phổ thông, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Chuyên đề 1 giáo dục môi trường thông qua dạy học hoá học ở trường phổ thông Mục tiêu Kiến thức - Nắm được những kiến thức cơ bản về cơ sở hóa học môi trường, ô nhiễm môi trường. - Biết được vai trò của môi trường đối với con người và tác động của con người với môi trường (MT). - Có những hiểu biết về luật pháp và các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ môi trường. - Biết khai thác các nội dung kiến thức hoá học có trong sách giáo khoa phổ thông để giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh thông qua các hình thức dạy học. Kĩ năng - Hình thành và phát triển những kĩ năng cơ bản về môi trường. - Vận dụng thiết kế được các bài dạy khai thác được nội dung giáo dục môi trường (GDMT) trong sách giáo khoa (SGK) phổ thông. - Tổ chức dạy học và tổ chức các hoạt động ngoại khoá về giáo dục môi trường cho học sinh. Phương pháp giảng dạy - Báo cáo viên chủ yếu hướng dẫn những nội dung cơ bản của chuyên đề và hướng dẫn học viên tự đọc, tự nghiên cứu tài liệu. - Học viên tự liên hệ thực tế, vận dụng và thiết kế được các bài soạn cụ thể về dạy học hoá học có khai thác các nội dung về giáo dục môi trường và thiết kế được các hoạt động ngoại khoá về giáo dục môi trường. Chương 1 Sự phát triển, Vai trò, nhiệm vụ và phương hướng giáo dục môi trường ở nhà trường phổ thông I. Môi trường và tầm quan trọng của môi trường Môi trường theo nghĩa rộng là tập hợp các yếu tố tự nhiên, xã hội, nhân tạo có quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau và qua đó ảnh hưởng đến cuộc sống, sự tồn tại và phát triển của con người và giới tự nhiên. Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Trong quá trình phát triển, con người không chỉ khai thác thiên nhiên mà còn phải giữ gìn và bảo vệ môi trường tự nhiên, tạo lập môi trường nhân tạo phù hợp với nhu cầu của cuộc sống và các hoạt động sản xuất, dịch vụ. Xây dựng môi trường xã hội với các mối quan hệ cộng đồng xã hội tốt đẹp, bảo đảm phát triển bền vững và lợi ích lâu dài cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Môi trường có vai trò đặc biệt đối với sự sống và chất lượng cuộc sống của con người. Con người cần có môi trường trong lành, tài nguyên thiên nhiên thích hợp để sử dụng trong sinh hoạt và sản xuất, như: không khí trong lành để thở, nước sạch để sinh hoạt hàng ngày…, cần có một môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh, văn minh để hình thành, phát triển nhân cách, nâng cao chất lượng cuộc sống cả về vật chất và tinh thần. II. Sự phát triển của giáo dục môi trường trên thế giới và ở nước ta 1. Sự phát triển của giáo dục môi trường trên thế giới Môi trường là một vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm của toàn thế giới. Trong mấy chục năm trở lại đây, sự phát triển kinh tế ồ ạt dưới tác động của cách mạng khoa học kĩ thuật và sự gia tăng dân số quá nhanh đã làm cho môi trường bị biến đổi chưa từng thấy. Nhiều nguồn tự nhiên bị vắt kiệt, nhiều hệ sinh thái bị tàn phá mạnh, nhiều cân bằng trong tự nhiên bị rối loạn. Môi trường lâm vào khủng hoảng với quy mô toàn cầu, trở thành nguy cơ thực sự đối với cuộc sống hiện đại và sự tồn vong của xã hội trong tương lai. Để bảo vệ cái nôi sinh thành của mình, con người phải thực hiện hàng loạt các vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề GDMT. GDMT là một trong những biện pháp có hiệu quả nhất, giúp cho con người có nhận thức đúng trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Lần đầu tiên trong lịch sử, vào năm 1948 tại cuộc họp Liên hiệp quốc (LHQ) về bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên ở Pari, thuật ngữ “giáo dục môi trường” được sử dụng. Tiếp sau đó ngày 5 - 6 - 1972, tại Hội nghị Liên hợp quốc họp ở Stockhom (Thụy Điển) đã nhất trí nhận định: việc bảo vệ thiên nhiên và môi trường là hai nhiệm vụ hàng đầu của toàn nhân loại (cùng với nhiệm vụ bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh). Cũng vì thế, ngày 5 tháng 6 hàng năm đã trở thành Ngày môi trường thế giới. Hội nghị tuyên bố: GDMT là rất cần thiết để làm cơ sở cho nhận thức và hành vi có trách nhiệm của cá nhân và tổ chức trong việc bảo vệ và cải thiện môi trường. Điều 96 của Hội nghị yêu cầu sự phát triển của GDMT như một yếu tố quyết định nhất để tấn công vào cuộc khủng hoảng môi trường trên toàn thế giới. Sau hội nghị họp tại Stockhom, ở nhiều nước, GDMT đã được đưa vào các trường học. Đến năm 1973, người ta thấy có khoảng 1000 chương trình được giảng dạy trong 750 trường và viện thuộc 70 nước khác nhau. Tuy nhiên, mục đích, nội dung của GDMT lúc đó chưa được xác định rõ ràng. Phải đợi đến các hội nghị quốc tế sau, vấn đề này mới được giải quyết và hoàn thiện. Tháng 10 năm 1975, tại Hội nghị Quốc tế về GDMT họp ở Bengrat (Nam Tư), lần đầu tiên UNESCO (Tổ chức Văn hóa khoa học và Giáo dục của LHQ) đã khởi thảo một chương trình GDMT quốc tế (IEEP). Tiếp sau đó, nhiều hội thảo khu vực về GDMT được tổ chức. Hội thảo của khu vực châu á - Thái Bình Dương được tổ chức vào tháng 10 năm 1976 tại Băng Cốc (Thái Lan). Hội thảo đã đưa ra 15 kiến nghị thuộc bốn vấn đề: chương trình GDMT, đào tạo bồi dưỡng giáo viên, GDMT phi chính quy và vấn đề soạn thảo các tài liệu, xây dựng các phương tiện phục vụ GDMT. Đầu tháng 8 năm 1987, UNESCO và UNED (Chương trình Môi trường LHQ) lại phối hợp tổ chức Hội nghị Quốc tế về GDMT tại Matxcơva, có đại diện của 100 nước và nhiều tổ chức quốc tế tham dự về chương trình hành động GDMT cho thập kỷ 90. Hội nghị quyết định đặt tên cho thập kỷ 90 là Thập kỷ toàn thế giới cho GDMT. Với tinh thần trên, tháng 10 năm 1990 tại Pari UNESCO và UNED tổ chức mở hội nghị quốc tế với sự tham gia của nhiều tổ chức quốc tế thuộc LHQ. Hội nghị nhằm mục đích trao đổi về sự tăng cường trách nhiệm của từng tổ chức trong lĩnh vực GDMT. Tại hội nghị, một lần nữa lại nhấn mạnh nhiệm vụ GDMT cho tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ và tầm quan trọng của việc bồi dưỡng kiến thức về môi trường cho giáo viên các cấp. Hội nghị thượng đỉnh (UNCED) diễn ra năm 1992 tại Rio de Janero trong hai ngày có 120 vị đứng đầu nhà nước, chính phủ, cùng các đoàn đại biểu của hơn 170 nước tham dự. Song song với hội nghị còn có diễn đàn toàn cầu lôi cuốn đại diện của hàng trăm nhóm có quan tâm đặc biệt, các tổ chức phi chính phủ vào các kì diễn thuyết, trình bày, thảo luận và hội thảo trên một phạm vi rộng các đề tài về vấn đề môi trường. 2. Tình hình giáo dục môi trường ở Việt Nam ở Việt Nam, từ năm 1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào Tết trồng cây để giữ gìn và làm đẹp môi trường sống. Cho đến nay phong trào này vẫn được duy trì và phát triển mạnh mẽ. Năm 1991, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có chương trình trồng cây phát triển giáo dục - đào tạo và bảo vệ môi trường (1991-1995). Trong Kế hoạch hành động quốc gia về môi trường và phát triển bền vững của Việt Nam giai đoạn 1996 - 2000, GDMT được ghi nhận như một bộ phận cấu thành. Từ năm 1995, Dự án Giáo dục Môi trường trong nhà trường phổ thông Việt Nam (VIE 95/041) của Bộ Giáo dục và Đào tạo do UNDP tài trợ đã nhằm vào các mục tiêu cơ bản: - Hỗ trợ xây dựng một bản chính sách và chiến lược thực hiện quốc gia về GDMT tại Việt Nam. - Tăng cường năng lực của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc truyền đạt những nội dung và phương pháp GDMT vào các chương trình đào tạo giáo viên. - Xây dựng các hoạt động GDMT cụ thể để thực hiện ở cấp Tiểu học và Trung học. Các mục tiêu trên được thực hiện ở mức chi tiết và cụ thể hơn trong thực tiễn thông qua dự án VIE98/018. Đặc biệt gần đây nhất, tháng 8 - 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 153/2004/ QĐ-TTg về việc ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam gồm năm phần: Phần 1: Phát triển bền vững - Con đường tất yếu của Việt Nam. Phần 2: Những lĩnh vực kinh tế cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững. Phần 3: Những lĩnh vực xã hội cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững. Phần 4: Những lĩnh vực sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và kiểm soát ô nhiễm cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững. Phần 5: Tổ chức thực hiện phát triển bền vững. ở các trường Đại học, GDMT đã được coi như một nội dung quan trọng trong các giáo trình Con người và môi trường; Dân số, tài nguyên, môi trường. ở các khoa: Sinh học, Địa lí, Hóa học của các trường ĐHSP (Hà Nội, Huế, TPHCM…) đã có các môn học về môi trường. III. Vai trò, nhiệm vụ và phương pháp giáo dục môi trường ở trường Phổ Thông Việt Nam 1. Vai trò và vị trí của nhà trường phổ thông trong công tác giáo dục và bảo vệ môi trường Với mạng lưới phân bố rộng khắp đến từng thôn, ấp ở mọi miền đất nước, nhà trường phổ thông từ bậc Tiểu học đến Trung học có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác giáo dục môi trường và bảo vệ môi trường. Nhà trường phổ thông có chức năng cơ bản là hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của học sinh, có nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức công tác giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác trong và ngoài nhà trường theo mục tiêu, chương trình giáo dục của từng bậc học, cấp học. Nội dung giáo dục môi trường là một bộ phận cấu thành nội dung, chương trình giáo dục ở các cấp, bậc học phổ thông từ Tiểu học đến Trung học. Giáo dục môi trường nhằm trang bị cho học sinh những tri thức cơ bản về môi trường, góp phần xây dựng môi trường sống trong sạch, lành mạnh trong phạm vi cả nước cũng như ở từng cộng đồng địa phương. Công tác giáo dục nói chung và giáo dục môi trường trong trường phổ thông nói riêng không chỉ có tác động trước mắt đến thế hệ hôm nay, các cộng đồng hôm nay mà còn tác động lâu dài đến nhiều thế hệ mai sau và toàn xã hội Việt Nam. Việc GDMT có thể thông qua nhiều hình thức khác nhau: giáo dục thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng (phát thanh, truyền hình, báo chí, sách khoa học, sách phổ biến khoa học, phim ảnh…) qua hoạt động của các tổ chức quần chúng (như Hội bảo vệ môi trường, Hội môi trường và sinh thái…) và qua giảng dạy ở các trường phổ thông. Trong các hình thức giáo dục môi trường nói trên thì GDMT ở trường phổ thông chiếm vị trí đặc biệt, bởi nhà trường phổ thông là nơi đào tạo thế hệ trẻ, những người chủ tương lai của đất nước thực hiện việc sử dụng các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường. GDMT cho thế hệ trẻ là việc làm có tác dụng rộng lớn nhất, sâu sắc và lâu bền nhất. 2. Nhiệm vụ và phương hướng giáo dục môi trường ở trường phổ thông GDMT là một quá trình nâng cao nhận thức, phương pháp kĩ năng, tình cảm và đạo đức cho học sinh về vấn đề môi trường, do đó nó có nhiệm vụ: - Làm cho học sinh hiểu biết về thiên nhiên, môi trường nói chung và thiên nhiên, môi trường Việt Nam nói riêng. Học sinh nhận thức rõ mối quan hệ khăng khít và sự tác động tương hỗ giữa sinh vật với các yếu tố của môi trường, tầm quan trọng của môi trường đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. - Trên cơ sở các hiểu biết đó giáo dục cho học sinh ý thức quan tâm thường xuyên đến môi trường, dần dần hình thành lòng yêu thích, tôn trọng thiên nhiên, muốn được bảo vệ môi trường sống, các phong cảnh đẹp, các di tích văn hóa lịch sử của đất nước, và cuối cùng, làm cho việc bảo vệ môi trường trở thành phong cách, nếp sống của họ. - Trang bị cho học sinh một số phương pháp và kĩ năng bảo vệ môi trường để học sinh có thể thực hành các nhiệm vụ bảo vệ môi trường ở địa phương. III. Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và ngành giáo dục - đào tạo về bảo vệ môi trường và giáo dục môi trường Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII của Đảng (1996) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo nước ta trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa một lần nữa khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu và nhấn mạnh đến yêu cầu phát triển giáo dục đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực hiện nay và tương lai của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đưa nội dung giáo dục môi trường và bảo vệ môi trường vào nhà trường là thể hiện cụ thể yêu cầu gắn phát triển giáo dục và đào tạo với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Chỉ thị 36-CT/TW ngày 25/06/1998 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nhấn mạnh giải pháp Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen, nếp sống và các phong trào quần chúng bảo vệ môi trường. Đây là một trong những giải pháp cơ bản để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước ta trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 27-12-1993 đã thể chế hóa một bước các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường và giáo dục, đào tạo về bảo vệ môi trường. Điều 4 của Luật Bảo vệ môi trường quy định: “Nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ, phổ biến kiến thức và luật pháp về bảo vệ môi trường”. Luật Bảo vệ môi trường là cơ sở và hành lang pháp lí quan trọng để tổ chức triển khai các hoạt động giáo dục và đào tạo về môi trường trong hệ thống giáo dục quốc dân nói chung và trong các trường phổ thông nói riêng. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 1363/QĐ-TTg ngày 17-10-2001 về việc phê duyệt đề án Đưa các nội dung bảo vệ môi trường về hệ thống giáo dục quốc dân đã xác định rõ các mục tiêu, nội dung, phương thức giáo dục đào tạo và bảo vệ môi trường, trong đó: - Đối với giáo dục Tiểu học: trang bị những kiến thức cơ bản, phù hợp với độ tuổi và tâm sinh lí của học sinh về các yếu tố môi trường, vai trò của môi trường đối với con người và tác động của con người đối với môi trường. Giáo dục cho học sinh ý thức bảo vệ môi trường; phát triển kĩ năng bảo vệ và gìn giữ môi trường. - Đối với giáo dục Trung học cơ sở và Trung học phổ thông: trang bị những kiến thức về sinh thái học, mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Trang bị và phát triển kĩ năng bảo vệ và gìn giữ môi trường, biết ứng xử tích cực với môi trường sống xung quanh. - Việc giáo dục bảo vệ môi trường chủ yếu thực hiện theo phương thức khai thác triệt để tri thức về môi trường hiện có ở các môn học trong nhà trường. Nội dung giáo dục bảo vệ môi trường còn được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường cho toàn cộng đồng. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định số 3288/QĐ-BGD&ĐT- KHCN ngày 2-10-1998 phê duyệt và ban hành các văn bản về chính sách và chiến lược giáo dục môi trường trong nhà trường phổ thông Việt Nam cũng như một số văn bản hướng dẫn kèm theo. Các văn bản này bước đầu đã tạo cơ sở pháp lí quan trọng cho việc tổ chức, triển khai các hoạt động giáo dục môi trường ở các trường phổ thông và trường sư phạm trong hệ thống giáo dục quốc dân thời gian vừa qua. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu tăng cường công tác giáo dục môi trường ở nhà trường phổ thông giai đoạn mới (2001-2010), các văn bản trên cần được bổ sung hoàn thiện cho phù hợp với tình hình hiện nay. Chương 2 Những kiến thức cơ sở về môi trường và hoá học môi trường I. Những kiến thức cơ sở về môi trường 1. Môi trường tài nguyên và hệ sinh thái 1.1. Khái niệm về môi trường và hoá học môi trường a. Khái niệm về môi trường Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người và thiên nhiên (Điều 1, Luật Bảo vệ môi trường, Việt Nam, 1993). Theo UNESCO (1981) thì môi trường của con người bao gồm toàn bộ hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình (tập quán, niềm tin...), trong đó con người sống và lao động, họ khai thác các tài nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm thoả mãn nhu cầu cho cuộc sống sinh hoạt của mình. Nhìn chung môi trường sống của con người là tất cả các nhân tố môi trường tự nhiên và môi trường xã hội: - Môi trường tự nhiên: là các nhân tố thiên nhiên như vật lí, hoá học, sinh học; nó tồn tại và vận động theo quy luật của tự nhiên, nhưng cũng ít nhiều chịu sự tác động của con người như: năng lượng mặt trời, đại dương, sông núi, không khí, động vật, thực vật... Môi trường tự nhiên cung cấp cho con người nguồn tài nguyên thiên nhiên như: không khí, đất, nước và các khoáng sản để con người sinh tồn và phát triển. - Môi trường xã hội: là các mối quan hệ giữa con người với con người. Đó là các luật lệ, các phong tục tập quán... Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo những khuôn khổ nhất định đảm bảo cho cuộc sống sinh tồn và ngày một văn minh. Ngoài ra, cần phải phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo: bao gồm tất cả các nhân tố do con người tạo nên hoặc cải biến nó như: các phương tiện, công cụ, máy móc, thiết bị, nhà ở, công viên... nhằm phục vụ cho nhu cầu cuộc sống và trong lao động sản xuất của mình. b. Thành phần môi trường Thành phần môi trường của Trái Đất: bao gồm thạch quyển, thuỷ quyển, khí quyển, sinh quyển. * Thạch quyển Thạch quyển là lớp vỏ cứng ngoài của Trái Đất, có cấu tạo hình thái rất phức tạp, có thành phần không đồng nhất, có bề dày thay đổi theo những vị trí địa lí khác nhau từ 0km đến 100km. Các nguyên tố hoá học trong đất tồn tại dưới dạng tổ hợp phức tạp của các chất khoáng, chất hữu cơ, không khí và nước. Hàm lượng các nguyên tố hoá học của đất không cố định, biến đổi phụ thuộc vào quá trình hình thành đất. * Thuỷ quyển Thuỷ quyển (nước) là yếu tố chủ yếu của hệ sinh thái, là nhu cầu cơ bản của mọi sự sống trên trái đất và cần thiết cho các hoạt động kinh tế, xã hội của loài người. Thuỷ quyển bao gồm tất cả các dạng nguồn nước có trên Trái Đất như: đại dương, biển, hồ, sông, suối, các nguồn chứa băng đá ở hai cực Trái Đất và các nguồn nước ngầm. Khối lượng thuỷ quyển ước tính vào khoảng 1,38.1021kg (tương đương 0,03% tổng khối lượng Trái Đất). * Khí quyển Khí quyển là lớp khí bao quanh bề mặt Trái Đất, có khối lượng 5,2.10 18kg, nhỏ hơn 0,0001% trọng lượng Trái Đất. Khí quyển là một hỗn hợp các khí: nitơ (78,09%), ôxy (khoảng 20,94%), cacbondioxit (khoảng 0,03%), hơi nước (khoảng 0,1-5%) và nhiều khí khác... Khí quyển có tác dụng duy trì và bảo vệ sự sống trên Trái Đất, ngăn chặn các tia tử ngoại gần đi vào Trái Đất. Khí quyển có vai trò quan trọng trong việc giữ cân bằng nhiệt lượng của Trái Đất thông qua quá trình hấp thụ tia tử ngoại từ Mặt Trời chiếu xuống và tia nhiệt từ mặt đất phản xạ lên. Khí quyển là nguồn cung cấp O2 và CO2 cần thiết cho sự sống trên Trái Đất, cung cấp nitơ cho quá trình cố định đạm ở thực vật hay sản xuất phân đạm, hoá chất cho ngành công, nông nghiệp. Khí quyển còn tham gia vào quá trình tuần hoàn nước. Có rất nhiều nguồn gây ô nhiễm không khí như: núi lửa, cháy rừng, sấm chớp, quá trình phân huỷ các xác chết động thực vật, khí thải các khu công nghiệp... * Sinh quyển Sinh quyển là toàn bộ các dạng vật sống tồn tại ở bên trong, bên trên và phía trên Trái Đất, trong đó có các cơ thể sống và các hệ sinh thái hoạt động. Đây là một hệ thống động và rất phức tạp. Nơi sinh sống của sinh vật trong sinh quyển gồm môi trường cạn (địa quyển), môi trường không khí hoặc môi trường thuỷ quyển. Đại bộ phận các sinh vật không sinh sống ở những địa hình quá cao, càng lên cao số loài càng giảm, ở độ cao 1km có rất ít các loài sinh vật, ở độ cao 10 - 15km chỉ quan sát được một số loài vi khuẩn, bào tử nấm, nói chung sinh vật không thể phân bố vượt ra khỏi tầng ozon. Khác với khí quyển, địa quyển và thuỷ quyển, sinh quyển không có giới hạn rõ rệt vì nó nằm trong cả ba thành phần của môi trường kể trên và không hoàn toàn liên tục, vì sự sống chỉ tồn tại và phát triển trong những điều kiện nhất định. 1.2. Tài nguyên thiên thiên a. Khái niệm Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất nguyên khai được hình thành và tồn tại trong tự nhiên mà con người có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu trong cuộc sống. b. Con người với tài nguyên và môi trường Con người khai thác tài nguyên với mục đích để sản xuất hàng hoá phục vụ nhu cầu của cuộc sống. Dân số ngày một tăng và chất lượng cuộc sống con người luôn cải thiện, cho nên các công cụ và phương thức sản xuất luôn được cải tiến để khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên được nhiều hơn. Vì thế dẫn đến suy thoái môi trường ngày một gia tăng. Như vậy, trong quá trình tiến hoá, con người là trung tâm mối quan hệ của tài nguyên, môi trường và phát triển. Giáo dục nhận thức về tài nguyên thiên nhiên cho cộng đồng và tạo kĩ năng khai thác, sử dụng tài nguyên cho con người; giữ vai trò quyết định trong phát triển bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Nhu cầu tiêu dùng và phát triển Tài nguyên thiên nhiên Con người Công cụ và phương thức sản xuất Sinh thái và môi trường Hình 1: Mối quan hệ giữa con người, môi trường và tài nguyên thiên nhiên c. Phân loại tài nguyên thiên nhiên Thường người ta kể đến một số tài nguyên thiên nhiên sau: tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên sinh học, tài nguyên cảnh quan... Ngày nay có nhiều phương pháp phân loại tài nguyên thiên nhiên khác nhau. Sự phân loại chỉ có tính chất tương đối, do tài nguyên, thiên nhiên có tính đa dạng được sử dụng với những mục đích khác nhau. Trong khoa học môi trường, tài nguyên thường được phân thành hai loại: tài nguyên tái tạo được và tài nguyên không tái tạo được. * Tài nguyên không tái tạo được Tài nguyên không tái tạo được là tài nguyên tồn tại một cách hữu hạn, sẽ bị mất đi hoặc bị biến đổi không còn giữ lại tính chất ban đầu sau quá trình sử dụng. Đó là các loại khoáng sản, nhiên liệu khoáng, các thông tin di truyền trong sinh vật quý hiếm. * Tài nguyên tái tạo được Tài nguyên tái tạo được là tài nguyên được cung cấp hầu như liên tục và vô tận của tự nhiên như năng lượng mặt trời, gió, nước và sinh khối. 1.3. Khái niệm về hệ sinh thái Hệ sinh thái là đồng tổ hợp một quần xã sinh vật với môi trường vật lí xung quanh nơi quần xã đó tồn tại, trong đó các sinh vật, môi trường tương tác với nhau để tạo thành chu trình vật chất và sự chuyển hoá của năng lượng. Nói cách khác, hệ sinh thái bao gồm các loài sinh vật sống ở một vùng địa lí tác động qua lại với nhau và với môi trường xung quanh, tạo nên các chuỗi, lưới thức ăn và các chu trình sinh địa hoá. Quần xã sinh vật Môi trường xung quanh Năng lượng mặt trời Hệ sinh thái + + = 1.4. Môi trường và phát triển, phát triển bền vững a. Môi trường và phát triển Phát triển là xu hướng tất yếu khách quan của mỗi cá nhân và toàn xã hội, nhằm không ngừng cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người. Kế hoạch công tác môi trường là một nội dung quan trọng của công tác kế hoạch hoá sự phát triển kinh tế đất nước nhằm cải thiện chất lượng sống của con người. Mục đích của sự phát triển là đáp ứng các nhu cầu trong cuộc sống con người. Phát triển là xu thế tất yếu của mọi xã hội, là quy luật của tiến hoá thiên nhiên, vì vậy chúng ta không thể kìm hãm sự phát triển của xã hội loài người mà phải tìm con đường phát triển thích hợp để giải quyết các mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển. Môi trường là tổng hợp các điều kiện sống của con người, còn phát triển là quá trình sử dụng và cải thiện các điều kiện đó. Môi trường là địa bàn, là đối tượng của phát triển. Phát triển là nguyên nhân của mọi biến đổi đối với môi trường. Giữa môi trường và phát triển có mối quan hệ hữu cơ với nhau. b. Phát triển bền vững Mọi sinh vật tồn tại trên Trái Đất bị chi phối bởi bốn kiểu môi trường: môi trường địa quyển, môi trường thuỷ quyển, môi trường khí quyển và môi trường các sinh vật khác. Những năm gần đây, nhiệm vụ bảo vệ môi trường được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm trong xu thế tiến tới quá trình phát triển bền vững. Vấn đề môi trường không chỉ bó hẹp trong mỗi quốc gia riêng lẻ mà nó trở thành vấn đề toàn cầu, đặc biệt là từ Hội nghị của Liên hợp quốc về con người, môi trường ở Stockholm năm 1972 và tổ chức Môi trường quốc tế đã công bố chiến lược bảo vệ toàn cầu năm 1980. Chiến lược này đã nhấn mạnh: bảo vệ không đối lập với phát triển, bảo vệ bao gồm bảo tồn và sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên nhằm mục đích tạo cho con người có cuộc sống hạnh phúc không chỉ cho thế hệ hôm nay mà cho cả thế hệ mai sau. Chiến lược bảo vệ toàn cầu khẳng định: loài người tồn tại như bộ một phận của thiên nhiên, loài người sẽ không tồn tại hay sẽ không có tương lai nếu thiên nhiên không được bảo vệ, mặt khác thiên nhiên sẽ không được bảo vệ nếu không được phát triển để giảm bớt nghèo nàn và bất hạnh của bao người nghèo đói trên Trái Đất. Muốn phát triển thì phải bảo vệ và bảo vệ để phát triển, đó là đặc tính phụ thuộc lẫn nhau giữa và phát triển bảo vệ và được gọi bằng thuật ngữ sự phát triển bền vững. Vậy khái niệm phát triển bền vững là gì? Năm 1987, trong báo cáo Tương lai chung của chúng ta của Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc, “phát triển bền vững” được định nghĩa “là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Hội nghị thượng đỉnh Trái Đất về Môi trường tổ chức ở Rio (1992) đã xác định: “Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí và hài hoà giữa ba mặt củ

File đính kèm:

  • docGiao duc moi truong thong qua day hoc hoa hoc otruong pho thong.doc
Giáo án liên quan