Giáo án Chủ đề 10 cơ bản: tìm hiểu thêm về pus-Kin và ta-go

A. Mục tiêu bài học

- Giúp hs tìm hiểu sâu hơn về hai nhà thơ từ đó khắc sâu kiến thức qua các bài văn, thơ đã học

- Củng cố kiến thức , kĩ năng tìm hiểu một tỏc phẩm văn học

B. Phương tiện thực hiện

C. Phương pháp thực hiện:

Gv hướng dẫn hs tìm hiểu theo phương pháp gợin mở và nêu vấn đề tìm hiểu , thảo luạn và trả lưòi câu hỏi

 

doc14 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1513 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án Chủ đề 10 cơ bản: tìm hiểu thêm về pus-Kin và ta-go, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soạn: 20/03/09 Giảng: CHỦ ĐỀ 10 CB ( tiết 24+25) Tỡm hiểu thờm về Pus-kin và Ta-go Mục tiêu bài học Giúp hs tìm hiểu sâu hơn về hai nhà thơ từ đó khắc sâu kiến thức qua các bài văn, thơ đã học Củng cố kiến thức , kĩ năng tìm hiểu một tỏc phẩm văn học Phương tiện thực hiện Phương pháp thực hiện: Gv hướng dẫn hs tìm hiểu theo phương pháp gợin mở và nêu vấn đề tìm hiểu , thảo luạn và trả lưòi câu hỏi Tiến tình bài học Hoạt động của GV/HS Nội dung bài học Mẹ ụng thuộc dũng dừi của Abram Petrovich Gannibal, một người nụ lệ da đen của Pyotr Đại đế[1]. Nhờ thụng minh xuất chỳng và cú những đúng gúp lớn về quõn sự, hàng hải cho nước Nga, Gannibal đó được Pyotr Đại đế nhận làm con nuụi. Những thỏng ngày ờm đềm ở đõy về sau này được phản ảnh trong những bài thơ đầu tiờn của Puskin ("Thầy tu", 1813; "Bova", 1814; "Lời nhắn cho Yudin", 1815; "Giấc mơ", 1816). Thời gian theo học tại đõy ụng đó chứng kiến cuộc Chiến tranh vệ quốc 1812 của nước Nga chống lại quõn Phỏp của Napolộon I. ễng cú bài thơ nổi tiếng về chủ đề này - "Hồi ức về Hoàng Thụn” Bài thơ này đó được nhà phờ bỡnh văn học Nga nổi tiếng thời bấy giờ là Gavril Romanovich Derzhavin coi là một tỏc phẩm kiệt xuất và đó tụn vinh Pushkin, khi đú mới 16 tuổi, như một nhà thơ lớn của nước Nga. Sau khi tốt nghiệp Lyceum, Pushkin tớch cực tham gia vào cỏc hoạt động văn học nghệ thuật của giới quý tộc trớ thức trẻ tại Sankt-Peterburg, lỳc bấy giờ đang nỗ lực đấu tranh cho một cuộc cỏch mạng xoỏ bỏ chế độ nụng nụ tại Nga. Thời gian này ụng cho ra đời những bài thơ mang tớnh chớnh trị như "Gửi Chaadaev" 1818), "Gửi N, 1818), "Làng quờ" (1819)... Năm 1820 Pushkin cho in bản trường ca đầu tiờn của mỡnh - "Ruslan và Lyudmila: và ngay lập tức tạo được tiếng vang lớn về phong cỏch cũng như chủ đề, mặc dự cũng phải chịu sự cụng kớch dữ dội từ phớa chớnh quyền. Tuy nhiờn nhờ sự giỳp đỡ và ảnh hưởng của những người bạn (Nikolai Mikhailovich Karamzin, Pyotr Yakovlevich Chaadaev, Fyodor Nikolaevich Glinka), cuối cựng ụng chỉ phải chịu mức ỏn nhẹ hơn là bị trục xuất khỏi thủ đụ Sankt-Peterburg vụ thời hạn. Sau khi rời Sankt-Peterburg, Pushkin đó đi xuống miền nam nước Nga, tới Kavkaz và Krưm, Moldavia, Kiev. Trong thời gian này ụng vẫn tiếp tục cho ra đời những tỏc phẩm mới cú ảnh hưởng rất lớn tới văn học Nga thế kỷ 19, như "Người tự Kavkaz 1822), "Gavriiliada" 1821), "Anh em lũ cướp" 1822), "Đài phun nước Bakhchisarayskiy" 1824). Năm 1823, ở Kishinov, Pushkin bắt tay vào viết tiểu thuyết bằng thơ, kiệt tỏc "Evgeny Onegin"[3] Thỏng 7 năm 1824, với đơn xin õn xỏ, Pushkin được chớnh quyền cho phộp về ở khu trang trại Pskov tại vựng Mikhailovskoe dưới sự kiểm soỏt của gia đỡnh. Tại Mikhailovskoe ụng đó sang tỏc những tỏc phẩm lịch sử như vở kịch "Boris Godunov" 1825), "Với biển cả" , 1826), trường ca "Những người Digan" Năm 1825, trong lần sang thăm trang trại lỏng giềng, Pushkin đó gặp nàng Anna Kern, người tạo cho ụng cảm hứng để sỏng tỏc bài thơ nổi tiếng "Gửi K". Cuối năm 1825 đầu năm 1826 kết thỳc chương năm và sỏu của "Evgeny Onegin", mà lỳc đú Puskin coi là đoạn kết cho phần một của tỏc phẩm. Nhờ sự sủng ỏi của Sa hoàng Nikolai I, đầu năm 1834 chế độ quản thỳc đối với Pushkin được nới lỏng, tuy nhiờn cỏc tỏc phẩm thơ ca của ụng vẫn phải cú sự đồng ý của Sa hoàng mới được phỏt hành. Do vậy hoàn cảnh kinh tế của nhà thơ khụng được thuận lợi, Pushkin phải đăng ký vào một chức vụ thư lại trong viện biờn sử của Sa hoàng. Thời kỳ này, Puskin chuyển hướng sang viết văn xuụi. ễng sỏng tỏc truyện vừa như "Con đầm bớch" tiểu thuyết như "Dubrovski" , 1832-33), "Con gà trống vàng", "Người da đen của Pyotr Đại đế" (khụng hoàn thành)... Cựng với những người bạn, Pushkin đó thành lập tờ tạp chớ Người đương thời Nhiều tỏc giả nổi tiếng của Nga thời bấy giờ như Aleksandr Ivanovich Turgenev, N.V. Gogol, V.A. Zhukovski, P.A. Vyazemski đó ủng hộ bằng cỏch gửi những tỏc phẩm mới nhất của mỡnh tới cho tạp chớ này. Tuy nhiờn, độc giả Nga khi đú chưa quen với những bài viết mang tớnh phờ phỏn hiện thực sõu sắc đó khụng hưởng ứng tạp chớ Người đương thời. Số lượng độc giả quỏ ớt khiến ban biờn tập lõm vào tỡnh thế rất khú khăn, họ khụng cú đủ tiền để trang trải cho việc in ấn và thự lao cho cộng tỏc viờn. Hai số cuối của tạp chớ cú đến quỏ nửa là sỏng tỏc của Pushkin, phần lớn là để vụ danh. Tiểu thuyết "Người con gỏi viờn đại ỳy" chớnh là được in trờn tạp chớ này. Lần đầu tiờn Pu-skin gặp Na-ta-li-a vào thỏng 12 năm 1828 (khi ấy Pu-skin đó ở vào tuổi xấp xỉ ba mươi) tại một vũ hội ở Mỏt-xcơ-va. Ngay buổi gặp ban đầu, Pu-skin đó thật sự choỏng vỏng. Trong thư gửi mẹ vợ tương lai, ụng viết: "Khi tụi gặp nàng lần đầu tiờn ở giới thượng lưu người ta mới chỳ ý tới nhan sắc của nàng, cũn tụi thỡ yờu nàng, đầu úc tụi quay cuồng..." Thỏng tư năm 1829, để "kết thỳc thời trai trẻ và thoỏt ra khỏi tỡnh cảnh bất cứ cậu thanh niờn mới lớn nào cũng cú thể vỗ vai ụng mà rủ rờ nhập những hội ba lỏp", Pu-skin chớnh thức ngỏ lời cầu hụn với Na-ta-li-a. "Tụi xin cam đoan với nàng bằng lời hứa danh dự rằng tụi chỉ thuộc về nàng hoặc sẽ khụng bao giờ lấy vợ" - Pu-skin khẳng định quyết tõm của mỡnh bằng những lời như đinh đúng cột. Qua đời vào giữa lỳc sức sống và sức sỏng tạo đang độ phỏt triển dồi dào nhất, Puskin, đối với tất cả những học trũ và những người kế tục sau ụng - những bậc kiệt xuất của nền văn học vĩ đại do ụng đặt nền múng, kể cả chớnh Lộp Tụnxtụi, - đối với tất cả, dự họ cú sống lõu hơn ụng bao nhiờu năm thỏng đi nữa, vẫn mói mói là người anh cả và là người thụng minh nhất. Tất nhiờn, ngay cả hiện nay đối với tất cả chỳng ta ụng vẫn như thế và thậm chớ về mặt nào đú cũn hơn thế, vỡ rằng Puskin của thời đại chỳng ta lớn hơn Puskin mà cỏc thế hệ đi trước chỳng ta đó từng biết. V.G. Bờlinxki đó viết: "Puskin thuộc về những hiện tượng vĩnh viễn sống và vận động, khụng dừng lại ở thời điểm thần chết bắt gặp, mà vẫn tiếp tục phỏt triển trong ý thức của xó hội". Người sỏng lập và khai sinh nền văn học vĩ đại mà ý nghĩa thế giới của nú từ lõu đó trở thành hiển nhiờn và vững chắc, người nghệ sĩ mà thiờn tài sỏng tạo của mỡnh ngay cả những đối thủ cũng khụng thể đỏnh giỏ thấp - giờ đõy vẫn là nhà thơ được yờu thớch, kớnh trọng và mến phục nhất của một đất nước vĩ đại, nhiều dõn tộc. Con đường mựa đụng Puskin - 1826         Xuyờn qua sương mự gợn súng         Mặt trăng nhụ ra         Trăng buồn bó dội ỏnh sỏng.         Lờn cỏnh đồng u buồn         Trờn đường mựa đụng buồn tẻ         Xe tam mó vun vỳt lao đi,         Lục lạc đơn điệu         Mệt mỏi rung lờn          Cú gỡ vang lờn thõn thiết       Trong cỏc khỳc hỏt ngõn nga của xà ớch         Khi thỡ niềm vui rộn ró         Khi thỡ nỗi buồn tõm tỡnh…         Khụng một ỏnh lửa mỏi lều         Rừng sõu và tuyết… Ngược chiều tụi         Chỉ cú cột sọc chỉ đường         Chạy tới…     Chỏn ngỏn, buồn qua,… ngày mai, Nhina         Ngày mai, quay về với em yờu         Tụi sẽ lặng người bờn lũ sưởi,         Ngắm em khụng chỏn mắt.         Kim đồng hồ tớch tắc         Quay hết vũng đều đều của nú,         Và xua đỏm người tẻ ngắt         Nửa đờm, khụng rẽ chia ta.         Buồn quỏ Nhina đường tụi đi tẻ ngắt,         Bỏc xà ớch lặng lẽ thiu thiu,         Tiếng lục lạc đơn điệu,         Mặt trăng mờ sương     (Bản dịch nghĩa)         Xuyờn những làn sương gợn súng         Mảnh trăng mờ ảo chiếu qua,         Buồn rải ỏnh vàng lai lỏng         Lờn cỏnh đồng buồn dăng xa         Trờn đường mựa đụng vắng vẻ         Cỗ xe tam mó băng đi,         Nhạc ngựa đều đều buồn tẻ         Đều đều khắc khoải lũng quờ.         Bài ca của người xà ớch         Cú gỡ phảng phất thõn yờu         Như niềm vui mừng khụn xiết         Như nỗi buồn nặng đỡu hiu…         Khụng một mỏi lều, ỏnh lửa,         Tuyết trắng và rừng bao la…         Chỉ những cột dài cõy số         Bờn đường sừng sững chào ta.         ễi buồn đau, ụi cụ lẻ…         Trở về với em ngày mai,         Nhina, bờn lũ lửa đỏ,         Ngắm em, ngắm mói khụng thụi.         Kim đồng hồ kờu tớch tắc         Xoay đi những vũng nhịp nhàng,         Và xua lũ người tẻ ngắt         Để ta bờn nhau trong đờm.         Sầu lắm, Nhina, đường xa vắng,         Ngủ quờn bỏc xà ớch lặng im,         Nhạc ngựa đều đều buụng xa thẳm,         Sương mờ che lấp ỏnh trăng nghiờng.                                 (Thỳy Toàn dịch thơ) BÀI THƠ SỐ 28 Tago    1. Đụi mắt băn khoăn của em buồn    Đụi mắt em muốn nhỡn vào tõm tưởng của anh. Như trăng kia muốn vào sõu biển cả. Anh đó để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em,  Anh khụng giấu em một điều gỡ. Chớnh vỡ thế mà em khụng biết gỡ tất cả về anh. 2. Nếu đời anh chỉ là viờn ngọc,         anh sẽ đập nú ra làm trăm mảnh         và xõu thành một chuỗi         quàng vào cổ em.    Nếu đời anh chỉ là một đúa hoa         trũn trịa, dịu dàng và bộ bỏng,    anh sẽ hỏi nú ra đặt lờn mỏi túc em. 3. Nhưng em ơi, đời anh là một trỏi tim Nào ai biết chiều sõu và bến bờ của nú, Em là nữ hoàng của vương quốc đú Ấy thế mà em cú biết gỡ biờn giới của nú đõu. 4. Nếu trỏi tim anh là một phỳt giõy lạc thỳ Nú sẽ nở ra thành một nụ cười nhẹ nhừm Và em thấu suốt rất nhanh. Nếu trỏi tim anh chỉ là khổ đau Nú sẽ tan ra thành lệ trong Và lặng im phản chiếu nỗi niềm u ẩn. 5. Nhưng em ơi, trỏi tim anh lại là tỡnh yờu, Nỗi vui sướng khổ đau của nú là vụ biờn. Những đũi hỏi và sự giàu sang của nú là trường cửu Trỏi tim anh cũng ở gần em như chớnh đời em vậy Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nú đõu.                                                                 Đào Xuõn Quý dịch PUS-KIN A. TÁC GIẢ Aleksandr Sergeyevich (1799–1837) là đại thi hào, nhà văn, nhà viết kịch người Nga. ễng đó cú những đúng gúp to lớn trong việc phỏt triển ngụn ngữ văn học Nga hiện đại. ễng mất khi mới 37 tuổi nhưng đó để lại nhiều kiệt tỏc như "Evegny Onegin", "Người con gỏi viờn đại ỳy", "Con đầm bớch", "Boris Godunov"... ễng được coi là biểu tượng của dũng văn học lóng mạn và tả thực nước Nga thế kỷ 19. Thời thơ ấu Puskin sinh ngày 6 thỏng 6 năm 1799 (26 thỏng 5 theo lịch cũ) tại Moskva trong một gia đỡnh quý tộc Nga cú nguồn gốc từ thế kỷ 12. Thời thơ ấu, trong những thỏng hố, Puskin thường tới sống với bà ngoại tại ngụi làng nhỏ Zakharov, gần thành phố Zvenigorod, ngoại ụ Moskva. Thời niờn thiếu Sỏu tuổi, Pushkin được tuyển vào trường Lyceum Hoàng gia[2], tại Tsarskoe Selo (Hoàng Thụn, nay là thị trấn Pushkin) gần thủ đụ Sankt-Peterburg. Đi đày Bản viết tay của Pushkin Mựa xuõn 1820, do những bài thơ cỏch mạng, thống đốc Sankt-Peterburg, bỏ tước M. Miloradovich, đó quyết định đày Pushkin tới Sibir. Cuối năm 1825, thụng qua một số viờn chức cú thiện chớ, Pushkin đó được tiếp cận Sa hoàng Nikolai I để đệ đơn xin õn xỏ và được Sa hoàng chấp thuận. Tuy nhiờn sau thất bại của cuộc Cỏch mạng thỏng Chạp 1825 tại Sankt-Peterburg, chớnh quyền đó xem xột lại tất cả cỏc ấn phẩm chống đối chớnh quyền của Pushkin trước đú và quyết định buộc ụng bị quản thỳc tại gia và cú chớnh sỏch kiểm duyệt nghiờm khắc cỏc tỏc phẩm của nhà thơ. Pushkin đó chuyển về Moskva sống trong thời gian này. Năm 1831 được đỏnh dấu bởi một sự kiện rất quan trọng trong sự nghiệp của Pushkin, ụng đó cú buổi gặp gỡ với Nikolai Vasilevich Gogol, một nhà văn Nga nổi tiếng khỏc. Cả hai nhanh chúng trở thành bạn thõn và luụn hỗ trợ nhau trong hoạt động nghệ thuật. Puskin đó cú ảnh hưởng lớn tới những nhõn vật trong cỏc tỏc phẩm chõm biếm phờ phỏn hiện thực của Gogol. Cựng năm 1831, Pushkin kết hụn với người đẹp Natalia Goncharova, người đó đem lại cho ụng cảm hứng sỏng tỏc lớn lao. ễng hoàn tất chương "Bức thư của Onegin" trong tỏc phẩm "Evegeny Onegin" và cũng là chương kết của cụng trỡnh vĩ đại mà nhà thơ đó mất 8 năm để thực hiện. Trở lại Sankt-Peterburg Thỏng 11 năm 1833, Puskin trở lại Sankt-Peterburg, và cảm thấy cần phải cú những thay đổi lớn trong cuộc sống, ụng khụng muốn bị kỡm kẹp trong bốn bức tường do chế độ quản thỳc. Đấu sỳng Vợ của Puskin, Natalya Goncharova là một phụ nữ đẹp và quý phỏi vỡ vậy luụn cú rất nhiều người ỏi mộ, trong số đú cú cả Sa hoàng Nikolai I. Trong khi đú Puskin, do nguồn gốc chõu Phi của mỡnh, lại cú một bề ngoài khụng mấy bắt mắt. Điều này làm cho Puskin rất khú chịu và khụng ớt lần cảm thấy bực bội. Năm 1837, do những tin đồn thất thiệt về quan hệ ngoại tỡnh của vợ mỡnh với Georges d'Anthốs, một sỹ quan kỵ binh trong quõn đội Sa hoàng, Puskin đó thỏch đấu sỳng với viờn sĩ quan trẻ tuổi này. Cuộc đọ sỳng đó kết thỳc hết sức bi kịch khi cả hai đối thủ đều bị thương, nhưng Puskin đó bị trọng thương và qua đời hai ngày sau đú – ngày 10 thỏng 2 năm 1837 (29 thỏng 1 trong lịch Julian). Cũn lại gỡ cho em   Cũn lại gỡ cho em trong tờn gọi Sẽ chết đi như tiếng dội buồn thương Của ngọn súng vỗ bờ xa mũn mỏi Như rừng sõu tiếng vọng giữa đờm trường.   Cỏi tờn gọi trong những dũng lưu bỳt Để lại cho em dấu chết, tựa như Lời ai điếu giữa những viền hoạ tiết Mà lời văn nghe u ẩn, mịt mự.   Cỏi tờn gọi đó từ lõu quờn lóng Trong những cơn xỳc động mới cuồng điờn Chẳng hề gợi trong hồn em một thoỏng Hoài niệm xưa bao tha thiết ờm đềm.   Nhưng nếu gặp ngày õm thầm đau đớn Phỳt u buồn xin em hóy gọi tờn Và hóy núi: vẫn cũn đõy kỷ niệm Em vẫn cũn sống giữa một trỏi tim. Puskin là một hiện tượng đặc biệt và, cú thể, là một hiện tượng duy nhất của tinh thần Nga: đú là một người Nga mà nếu căn cứ vào trỡnh độ phỏt triển của tinh thần ụng thực sống đú, thỡ cú lẽ, phải hai trăm năm sau mới xuất hiện. Ở ụng thiờn nhiờn Nga, tõm hồn Nga, ngụn ngữ Nga, tớnh cỏch Nga được phản ỏnh qua sự trong sỏng, qua vẻ đẹp tinh khiết như một bức tranh sơn thủy được phản chiếu trờn bề mặt lồi của ống kớnh quang học. Nhicụlai Gụgụn Ở Puskin tiềm ẩn tất cả những hạt giống và mầm mống sau này phỏt triển thành cỏc loại hỡnh và thể loại nghệ thuật ở tất cả cỏc nghệ sĩ chỳng ta… Ivan Gụntsarốp B. TÁC PHẨM “Con đường mựa đụng” là nhà thơ trữ tỡnh nổi tiếng của Puskin, đó được phổ nhạc, trở thành ca khỳc lưu truyền rộng rói. Puskin viết bài thơ này vào mựa đụng năm 1826, khi ụng cũn bị quản thỳc tại miền quờ Mikhailụpxcụiờ, vựng quờ ngoại thuộc tõy Bắc Nga. Âm điệu trữ tỡnh chủ đạo của bài thơ là õm điệu buồn. Từ cảnh vật đến lũng người tỏa rộng và thấm sõu một nỗi buồn cụ đơn.     Bốn khổ thơ đầu là một khụng gian nghệ thuật phủ mở một lớp sương mự bao la, mờnh mụng. Ánh trăng dội ỏnh sỏng xuống cỏnh đồng khi mặt trăng nhụ ra, xuyờn qua màn sương mự gợn súng. Cảnh vật vắng lặng, bao la và buồn man mỏc:         “Xuyờn những làn sương gợn súng         Mảnh trăng mờ ảo chiếu qua,         Buồn rải ỏnh vàng lai lỏng         Lờn cỏnh đồng buồn dăng xa”.     Cỏi nhỡn mờnh mang về màn sương mờ, ỏnh trăng mờ và cỏnh đồng mờ xa. Hỡnh như nhà thơ đăm chiờu cảm nhận cảnh vật trong sự mơ màng và xỳc động. Nhỡn xa rồi nhỡn gần, nhõn vật trữ tỡnh lặng ngắm con đường mựa đụng vắng vẻ. Chỉ cú một cỗ xe tam mó băng đi về phớa trước, “xe vun vỳt lao đi”. Tiếng lục lạc đơn điệu, mệt mỏi rung lờn. Bao dặm đường xa đó vượt qua, người lữ hành khụng chỉ “buồn” mà cũn “mệt mỏi”. Tõm hồn như dịu lại trong tiếng hỏt “ngõn nga” của người xà ớch. Khỳc hỏt vang lờn “thõn thiết”, bài dõn ca Nga lỳc vui, lỳc buồn như đang xoa dịu bao nỗi buồn trong lũng nhà thơ:         “Khi thỡ niềm vui rộn ró         Khi thỡ nỗi buồn tõm tỡnh”…     Nhà thơ lấy õm thanh “vun vỳt” của chiếc xe lao đi, tiếng lục lạc, tiếng hỏt… để diễn tả cảnh vật và con đường mựa đụng giữa đờm khuya vụ cựng vắng vẻ, mờnh mụng và buồn. Nỗi lũng của người lữ khỏch cụ đơn và buồn khụng kể xiết!     Cảnh vật càng trở nờn cụ quạnh. Chiếc xe tam mó, người lữ hành… như đang bị bao võy bởi “rừng sõu và tuyết”. Chỉ cú, chỉ thấy những cột cõy số “hữu tỡnh mà vụ cảm” đang ngược chiều, chạy tới, khụng gian đó trải rộng lại trải rộng thờm ra. Con đường mựa đụng đó dài lại được kộo dài tưởng như vụ tận. Bao phủ cảnh vật là màu trắng của tuyết, màu đen sẫm của rừng. Cảnh sắc thiờn nhiờn mựa đụng nước Nga được miờu tả một cỏch tinh tế và chọn lọc nhằm tụ đậm nỗi buồn cụ đơn và lạnh lẽo của người lữ khỏch.         “Khụng một mỏi lều, ỏnh lửa,         Tuyết trắng và rừng bao la…         Chỉ những cột dài cõy số         Bờn đường sừng sững chào ta.”     Hai khổ thơ 5 và 6 núi lờn tõm trạng nhớ thương của người lữ khỏch. Bài hỏt của người xà ớch lỳc vui lỳc buồn cũng khụng thể xoa dịu bao nỗi buồn cụ đơn đầy ắp trong lũng chàng trai đang ngồi trờn cỗ xe tam mó lao vun vỳt trờn con đường mựa đụng giữa đờm khuya lạnh lẽo. Đú là hành trỡnh đi cày của nhà thơ. Con đường mựa đụng xa lắc đầy tuyết cũn mang ý nghĩa tượng trưng cho mọi thử thỏch gian khổ mà chàng trai quý tộc khao khỏt tự do đang nếm trải. Cõu thơ: “ễi đau buồn, ụi cụ lẻ…” núi lờn nỗi buồn cụ đơn của người đi đày. Nhưng khụng tuyệt vọng, khụng bi luỵ. Nhà thơ thầm gọi tờn người yờu. Hy vọng được trở về trong sum họp đầy hạnh phỳc. Hai tiếng “ngày mai… ngày mai…” trong nguyờn tỏc như một điệp õm của khỳc tõm tỡnh xụn xao. Hy vọng được trở về gặp lại người yờu. Trong tuyết lạnh mà nghĩ về lũ lửa đỏ, mỏi ấm hạnh phỳc gia đỡnh, trong chia li mà nghĩ đến đoàn tụ, trong xa vắng mà hy vọng trở về gặp Nhina - người yờu thương - đú là “nỗi buồn trong sỏng” như lời nhận xột của nhà phờ bỡnh văn học Biờlinxki.     Lũng người lữ hành dịu lại, man mỏc bõng khuõng:         “ễi buồn đau, ụi cụ lẻ…         Trở về với em ngày mai,         Nhina, bờn lũ lửa đỏ,         Ngắm em, ngắm mói khụng thụi.”     Rồi chàng chỡm trong mộng tưởng. “Ngắm em khụng chỏn mắt… Nửa đờm, khụng rẽ chia ta”. Phải chăng chiếc đồng hồ cổ và tiếng kờu “tớch tắc” của nú như một kỷ vật nhắc nhở bao hoài niệm thương yờu?     Khổ thơ cuối bài diễn tả sõu hơn tõm trạng người lữ hành, từ mơ tưởng trở về thực tại, với con đường mựa đụng lạnh lẽo, con đường đi đày với nỗi buồn xa vắng cụ đơn. Lại thỡ thầm nhắc tờn người yờu để cố xua đi một phần nào nỗi buồn cụ đơn: “Buồn quỏ, Nhina, đường tụi đi tẻ ngắt…”. Bỏc xà ớch đó thiu thiu ngủ trong lặng lẽ. Con đường mựa đụng càng về khuya càng trở nờn vắng vẻ, hiện lờn trong ỏnh trăng và sương mở. Tiếng lục lạc đơn điệu vẫn rung lờn như nhịp điệu của một bài ca buồn. Người lữ khỏch lặng lẽ ngắm mặt trăng nhũe đi trong màn sương. Lấy tiếng lục lạc và mặt trăng mờ sương là 2 nột vẽ tài hoa để tụ đậm nỗi buồn cụ đơn và sự vắng lặng của con đường mựa đụng một đờm tuyết lạnh. Đõy là khổ thơ dịch hay nhất của Thỳy Toàn:         “Sầu lắm, Nhina, đường xa vắng,         Ngủ quờn bỏc xà ớch lặng im,         Nhạc ngựa đều đều buụng xa thẳm,         Sương mờ che lấp ỏnh trăng nghiờng”     Trong bài thơ “Con đường mựa đụng” này, từ “buồn” xuất hiện với tần số rất cao. Cú trăng buồn và cỏnh đồng buồn. Cú con đường mựa đụng buồn tẻ và vắng lặng. Cú tõm hồn chỏn ngỏn buồn… buồn quỏ, buồn cụ đơn. Cú tiếng lục lạc đơn điệu buồn. Sự xuất hiện của những cột cõy số, rừng sõu và tuyết… càng làm cho nỗi buồn thờm phần cụ đơn và lạnh lẽo.     Cú điều, sự xuất hiện của bài dõn ca Nga qua tiếng hỏt của xà ớch và hỡnh ảnh Nhina, cụ gỏi Nga cựng với ngọn lửa lũ sưởi là những điểm tựa nõng đỡ tõm hồn người lữ khỏch một đờm trăng mờ sương trờn con đường mựa đụng tuyết trắng. Chất trữ tỡnh nồng nàn, chất thi vị đậm đà của bài thơ này được thể hiện một cỏch tài hoa qua cảnh sắc và õm thanh ấy.     Con đường mựa đụng là con đường lưu đày, là con đường li biệt. Người lữ hành - trong tõm tưởng - vẫn mang theo hỡnh ảnh người con gỏi Nga yờu thương, vẫn hy vọng ngày mai trở về, sum họp trong mỏi ấm hạnh phỳc. Cảm hứng đoàn tụ yờu thương và cảm hứng tự do tạo nờn sắc điệu thẩm mĩ trong ỏng thơ chứa chan thi vị RA-BIN-ĐRA-NAT TA-GO Tỏc giả     Ta-go (1861 - 1941) là đại thi hào của Ấn Độ. Năm 1913, Tago được tặng giải Nobel về văn chương với tập Thơ Dõng. ễng là “nhà nhõn đạo chủ nghĩa vĩ đại”, một nghệ sĩ toàn tài để lại một sự nghiệp văn nghệ đồ sộ.     - 52 tập thơ, tiờu biểu là cỏc tập thơ: Thơ Dõng (1913), Người làm vườn (1914), Mựa hỏi quả (1915), Trăng non (1915), Tặng phẩm của người yờu (1918), v.v…     - 42 vở kịch: Sự trả thự của tự nhiờn (1883), Vua và Hoàng hậu (1889),…     - 12 bộ tiểu thuyết: Gụra, Đắm thuyền,…     - Trờn 3000 bức họa cũn được lưu giữ trong cỏc bảo tảng mỹ thuật, hàng trăm ca khỳc và ngút 100 truyện ngắn. Phõn tớch bài thơ số 28     Sau tập Thơ Dõng được giải thưởng Nobel, năm 1914, Tago xuất bản tập thơ “Người làm vườn - tập thơ tỡnh, gồm 85 bài thơ, chỉ đỏnh số, khụng cú nhan đề. Bài thơ sơ 28 này rỳt trong tập “Người làm vườn”, được truyền tụng và ngợi ca là “một trong những bài thơ tỡnh hay nhất trờn thế giới”.     Toàn bài thơ vẫn là lời tỏ tỡnh của người con trai, của “anh”. Cũn người con gỏi chỉ “lắng nghe lời núi như ru” và qua “đụi mắt”, qua cỏi nhỡn “băn khoăn… buồn” - được núi đến mà thụi.     1. Sỏu cõu thơ đầu cho thấy một mối tỡnh đầu rất đẹp và thơ mộng. Cụ gỏi duyờn dỏng, ngỡ ngàng và “băn khoăn”. Vẻ đẹp dịu hiền được thể hiện qua đụi mắt và cỏi nhỡn chan chứa yờu thương: “muốn nhỡn vào tõm tưởng của anh”. Rụt rố và thăm dũ.     Tỡnh yờu đến, “Thần Ái tỡnh đó gừ cửa trỏi tim” nhưng em vào đó hay, đó biết gỡ nhiều về anh. Em là ỏnh trăng, anh là mặt biển (trong xanh) - Hai hỡnh ảnh so sỏnh này diễn tả rất hay một tỡnh yờu trong sỏng chõn thành, dào dạt và sự khao khỏt yờu thương. Cụ gỏi cú đụi mắt huyền mới cú cỏi nhỡn lung linh của ỏnh trăng kia. Và chàng trai cú tỡnh yờu nồng nàn, chõn thành, trong sỏng thỡ ỏnh trăng kia mới cú thể soi vào tận đỏy biển cả. Hỡnh ảnh ỏnh trăng và biển cả đó thể hiện tài tỡnh men say ỏi tỡnh: niềm khao khỏt hạnh phỳc và sự hũa hợp tõm hồn lứa đụi trong “cỏi thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Lời tỏ tỡnh nồng nàn yờu thương, đàng hoàng và tin cậy. Tỡnh yờu đõu chỉ là “tỡm kiếm” mà cũn là “phỏt hiện” những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tõm hồn, trong tớnh cỏch người tỡnh của em. Như một lời nhắc khẽ mà rung động:         “…Đụi mắt em muốn nhỡn vào tõm tưởng của anh.         Như trăng kia muốn vào sõu biển cả.         Anh đó để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em,         Anh khụng giấu em một điều gỡ.         Chớnh vỡ thế mà em khụng biết gỡ tất cả về anh.”     2. Bảy dũng thơ tiếp theo là lời tỏ tỡnh rất đẹp. Sử dụng hỡnh ảnh ẩn dụ về “ngọc”, về “hoa” và giả định: “nếu… anh sẽ…” để biểu lộ một tỡnh yờu nồng chỏy, mónh liệt và dõng hiến. Cú gỡ quý hơn ngọc, giỏ trị bằng ngọc? Nếu đời anh là viờn ngọc thỡ anh sẽ đập vỡ làm trăm mảnh, xõu thàn chuỗi quàng vào cổ em yờu. Cú gỡ đẹp và thơm bằng hoa? Nếu đời anh chỉ là bụng hoa nhỏ bộ, trũn xinh, thơm tho, anh sẽ ngắt nú ra cài lờn mỏi túc em. Cỏc động từ: “đập ra”, “xõu thành”, “quàng vào”, “ngắt ra”, “cài lờn” - diễn tả một “tấm lũng”, một cử chỉ trõn trọng và dõng hiến trong tỡnh yờu. Tago viết bài thơ này cỏch chỳng ta ngày nay ngút một thế kỷ mà hỡnh ảnh thơ vẫn mới mẻ, thỳ vị vụ cựng:         “Nếu đời anh chỉ là viờn ngọc,         anh sẽ đập nú ra làm trăm mảnh         và xõu thành một chuỗi         quàng vào cổ em.         Nếu đời anh chỉ là một đúa hoa         trũn trịa, dịu dàng và bộ bỏng,         anh sẽ hỏi nú ra đặt lờn mỏi túc em.”     Lời thơ dịch khỏ sỏt và hay. Cú điều trong nguyờn tỏc chữ “cài” (cài lờn mỏi túc em), dịch giả đó chuyển thành “đặt lờn mỏi túc em”, là cho lời thơ thụ, làm giảm đi phong cỏch tao nhó, phong tỡnh của chàng trai!     3. Đoạn thơ thứ ba, chàng trai khẳng định tỡnh yờu của mỡnh qua hỡnh ảnh so sỏnh: “Trỏi tim”. Ba tiếng “Nhưng em ơi!” vang lờn thiết tha, đắm say. Lời tỏ tỡnh được nõng lờn một tầm cao mới, một chiều sõu thăm thẳm. Tỡnh yờu ấy sõu sắc và mờnh mụng. Em là thần tượng, là nữ hoàng đang ngự trị vương quốc tỡnh yờu - đời anh. Là một lời nhắc khẽ em yờu! Nhẹ nhàng và tế nhị. Gần mà xa, xa mà gần biết trõn trọng và phỏt hiện mọi phẩm chất cao quý tiềm ẩn trong tõm tỡnh người yờu. Lời tỏ tỡnh sang trọng quỏ, chứng tỏ chàng trai cú một trỏi tim rất nhõn văn! Cả đời anh, tõm hồn anh, tỡnh yờu của anh đó thuộc về em:         “Nhưng em ơi, đời anh là một trỏi tim         Nào ai biết chiều sõu và bến bờ của nú,         Em là nữ hoàng của vương quốc đú         Ấy thế mà em cú biết gỡ biờn giới của nú đõu!”     Đầu bài thơ, thi sĩ đó dựng hỡnh ảnh “biển cả”, đến khổ thơ này, ụng lại tạo ra những khỏi niệm bổ sung: “bến bờ”, “vương quốc”, “biờn giới” - tạo ra một hệ thống ngụn ngữ diễn tả một khụng gian nghệ thuật để núi lờn niềm tự hào của người con trai cú một tỡnh yờu trong sỏng mờnh mụng.     4. Tỡnh yờu khụng thể tầm thường và đơn giản. Đõu chỉ là “một phỳt giõy lạc thỳ” để làm “nở ra thành một nụ cười nhẹ nhừm”, tầm thường, thoảng qua! Tỡnh yờu cũng khụng phải là sự hốn hạ, van xin, cầu mong một sự “ban ơn”, một sự yếu mềm. Giọt lệ trong, nỗi thương đau, nỗi sầu u ẩn mà người con trai mang lại trong mỗi cuộc tỡnh chỉ là sự hốn hạ mà thụi. Mà đõu chỉ là lĩnh vực tỡnh yờu, mọi sự quỳ lạy, van xin trong ứng xử đều hốn hạ, đỏng khinh. Đoạn t

File đính kèm:

  • docchủ đề 10. CB PUS-KIN VÀ TA-GO.doc