Một số phương pháp bồi dưỡng – Phát huy tính tích cực học toán có hiệu quả cho học sinh lớp 6 trường THCS Pắc Ta

1.Mục tiêu đào tạo của nhà trường phổ thông Việt Nam.

Mục mục tiêu đào tạo của nhà trường phổ thông việt nam là hình thành những cơ sở ban đầu và trọng yếu của con người mới phát triển toàn diện phù hợp với yêu cầu,điều kiện và hoàn cảnh của đất nước việt nam.Mục tiêu này xuất phát từ chính sách chung về giáo dục và đào tạo ,được thể hiện trong các văn kiện đại hội Đảng:

“Mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí,đào tạo nhân lực,bồi dưỡng nhân tài,hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề,có năng lực thực hành,tự chủ,năng động sáng tạo,có đạo đức cách mạng,tinh thần yêu nước,yêu chủ nghĩa xã hội” (Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,Đảng cộng sản Việt Nam) “Nâng cao mặt bằng dân trí,bảo đảm những tri thức cần thiết để mọi người gia nhập cuộc sống xã hội và kinh tế theo kịp tiến trình đổi mới và phát triển đất nước.Đào tạo bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,Đảng Cộng Sản Việt Nam)

 

doc18 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1042 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số phương pháp bồi dưỡng – Phát huy tính tích cực học toán có hiệu quả cho học sinh lớp 6 trường THCS Pắc Ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phòng giáo dục và đào tạo than uyên Trường THCS Pắc Ta --------˜&™-------- ? & một số phương pháp bồi dưỡng – phát huy tính tích cực học toán có hiệu quả cho học sinh lớp 6 Trường THCS Pắc Ta Họ và tên: Nguyễn Văn Minh Chức vụ: Giáo viên Thực hiện tại: Trường THCS Pắc Ta Năm học : 2007-2008 Than Uyên,Tháng 10 năm 2007 phần mở đầu I-lí do chọn đề tài. 1.Mục tiêu đào tạo của nhà trường phổ thông Việt Nam. Mục mục tiêu đào tạo của nhà trường phổ thông việt nam là hình thành những cơ sở ban đầu và trọng yếu của con người mới phát triển toàn diện phù hợp với yêu cầu,điều kiện và hoàn cảnh của đất nước việt nam.Mục tiêu này xuất phát từ chính sách chung về giáo dục và đào tạo ,được thể hiện trong các văn kiện đại hội Đảng: “Mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí,đào tạo nhân lực,bồi dưỡng nhân tài,hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề,có năng lực thực hành,tự chủ,năng động sáng tạo,có đạo đức cách mạng,tinh thần yêu nước,yêu chủ nghĩa xã hội” (Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,Đảng cộng sản Việt Nam) “Nâng cao mặt bằng dân trí,bảo đảm những tri thức cần thiết để mọi người gia nhập cuộc sống xã hội và kinh tế theo kịp tiến trình đổi mới và phát triển đất nước.Đào tạo bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,Đảng Cộng Sản Việt Nam) 2.Mục tiêu đào tạo của Trường THCS Pắc Ta. Mục tiêu đào tạo của Trường THCS Pắc Ta là chuẩn bị cho học sinh sau khi học hết cấp ra trường có thể thích ứng nhanh chóng với sự phát triển của kinh tế xã hội ở địa phương.Cụ thể là học sinh phải được trang bị kiến thức để có hiểu biết về tổ quốc về cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam,về nghĩa vụ và quyền lợi công dân về tinh thần làm chủ và nếp sống văn minh về nền văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của các dân tộc thiểu số về những cuộc vận động lớn của đảng và nhà nước đang tiến hành ở miền núi và vùng dân tộc...Học sinh phải được chuẩn bị kiến thức các môn học ở các lớp như học sinh ở các trường phổ thông trong cả nước.Học sinh phải được rèn luyện thông qua các hoạt động trong và ngoài nhà trường để sau khi ra trường có thể tham gia tổ chức và điều khiển các hoạt động cải tạo và xây dựng xã hội trong cộng đồng dân tộc ở địa phương.Để đạt được mục tiêu trên trong quá trình giáo dục nhà trường phải thực hiện đầy đủ các nội dung giáo dục:Đức-Trí-Thể-Mĩ và lao động hướng nghiệp trong đó việc bồi dưỡng và phát huy tính tích cực học tập của học sinh để nâng cao kết quả là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Trong những năm học qua Trường THCS Pắc Ta huyện Than Uyên đã thực hiện các công tác khá tốt.Chất lượng học sinh ngày được nâng cao.Tuy bước đầu đổi mới học sinh đầu cấp,học sinh mới tuyển nề nếp học tập,phương pháp học tập các em chưa cập nhật được do vậy chất lượng học tập nói chung chưa đạt được kết quả như mong muốn. 3.Kết luận. Trên cơ sở phân tích những lí do khách quan và chủ quan như đã nêu trên tôi mạnh dạn lựa chọn chuyên đề “Một số Phương pháp bồi dưỡng,phát huy tính tích cực học toán có kết quả cho học sinh lớp 6 Trường THCS Pắc Ta huyện Than Uyên” II-mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu cơ sở khoa học của việc bồi dưỡng,phát huy tính tích cực học toán có kết quả của học sinh lớp 6 ở Trường THCS Pắc Ta. III-nhiệm vụ nghiên cứu. *Việc bồi dưỡng,phát huy tính tích cực học toán của học sinh THCS phải được thực hiện theo ba nhiệm vụ sau. -Xác đinh mục đích của việc Bồi dưỡng,phát huy tính tích cực học toán của học sinh lớp 6 +Như chúng ta đã biết,PPDH môn toán lấy đối tượng nghiên cứu,là quá trình dạy học môn toán.ở đây có một điều phải nhấn mạnh,đó là :tính quy định của xã hội đối với quá trình dạy học là một quy luật mà người ta đã nhận thức được.Nói rõ hơn:Quá trình dạy học môn toán phải nhằm mục đích đào tạo con người mà xã hội cần.Nhận thức được vấn đề này,các nhà nghiên cứu lí luận dạy họcmôn toán xem việc xác định mục đích dạy học môn toán là nhiệm vụ hàng đầu.Nó bao gồm việc nghiên cứu các yêu cầu của xã hội đối với sự nghiệp đào tạo con người của trường phổ thông,nghiên cứu tính đặc thù và tiềm năng của toán học trong việc đào luyện con người và cũng nghiên cứu đặc điểm tâm lí của chính con người học sinh Việt Nam. +Có nhiều cấp độ nghiên cứu mục đích dạy học môn toán:Nghiên cứu mục đích dạy học môn toán nói chung,nghiên cứu mục đích dạy học một phân môn (việc Bồi dưỡng,phát huy tính tích cực học toán của học sinh lớp 6),hoặc nghiên cứu mục đích dạy học một nội dung nào đó(chẳng hạn mục đích dạy học các hệ thống số).Và ở cấp độ cụ thể hơn,nghiên cứu mục đích dạy học một khái niệm(định nghĩa),một sự kiện (định lí) trong một giờ lên lớp. +Trong quá trình phát triển,xã hội luôn đề ra những yêu cầu mới cho sự nghiệp đào tạo con người.Vì vậy mục đích dạy học môn toán cũng không ngừng được bổ sung,đổi mới để đáp ứng sự đòi hỏi đó của xã hội.Mặt khác,với tư cách là một khoa học,PPDH môn toán cũng góp phần dự báo cho xã hội những điều nhìn thấy trước một cách khoa học,khi nó thu lượm được các thông tin vượt lên trước và phát biểu những giả thuyết về đối tượng nghiện cứu của mình. -Xác định nội dung dạy học môn toán ở trường phổ thông. Sự thống nhất biện chứng giữa mục đích,nội dung và phương pháp dạy học cũng là một quy luật mà người ta đã nhận thức được.Vì vậy,việc việc trả lời câu hỏi:Dạy học môn toán để làm gì?(mục đích),tát yếu dẫn đến việc trả lời các câu hỏi có liên quan mật thiết với nó:Dạy học những gì trong khao học toán ?(nội dung)và,và dạy học môn toán như thế nào?(phương pháp).Việc trả lời câu hỏi:Dạy học những gì trong khoa học toán học? cũng có các cấp độ khác nhau.Để cấu tạo môn toán ở trường phổ thông,người ta phải làm một phép biến đổi sư phạm,biến tri thức khoa học toán học thành tri thức để dạy học (còn gọi là tri thức giáo khoa).Phép biến đổi này được thực hiện bởi nhà nghiên cứu,bởi hội đồng bộ môn,bởi các tác giả sách giáo khoa.Tuy nhiên,tri thức giáo khoa mới chỉ là một dạng “bán thành phần”,nó mới chỉ là tri thức để dạy học mà chưa phải là tri thức dạy học (người giáo viên không thể lấy nguyên nội dung sách giáo khoa làm bài soạn của mình).Vì vậy ,phải dùng một phép biến đổi thứ hai,biến tri thức giáo khoa thành tri thức dạy học.Phép biến đổi này được thực hiện bởi giáo viên.ở đây,người giáo viên phải,chẳng hạn,hoạt động hoá nội dung sách giáo khoa,phải hoàn cảnh hoá tri thức giáo khoa,soạn thảo tình huống dạy học một tri thức,tổ chức môi trường dạy học ... Sơ đồ dưới đây biểu thị các cấp độ nghiên cứu nội dung dạy học và phép biến đổi sư phạm(bđsp) mà PPDH toán đảm nhận nhiệm vụ nghiên cứu: Tri thức khoa học Phép bđsp1 Tri thức để dạy học Phép bđsp 2 Tri thức dạy học -Nghiên cứu phương pháp dạy học môn toán. +Phương pháp dạy học là những cách thức hoạt động và ứng xử của thầy để gây nên những hoạt động và giao lưu cần thiết của trò trong quá trình dạy học.Phương pháp dạy học có tính khái quát,nó có thể áp dụng vào những trường hợp cụ thể khác nhau.Ta phải phân biệt bản thân phương pháp dạy học với những hành động dạy học phù hợp với phương pháp.Một cách nghiên cứu phương pháp dạy học theo nghĩa này là việc nghiên cứu các vấn đề sau đây.Các chức năng điều khiển quá trình dạy học,các con đường nhận thức(quy nạp,diễn dịch),các hình thức hoạt động bên ngoài của thầy và trò,các hình thức tổ chức dạy học,các phương tiện dạy học,các tình huống dạy học điển hình. +Do sự chi phối của quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa dạy và học mà việc nghiên cứu phương pháp dạy ắt phải gắn liền với việc nghiện cứu phương pháp học.Đối tượng của hoạt động dạy chính là hoạt động học.Mục đích của hoạt động dạy là gây nên hoạt động học với đúng nghĩa của nó.Điều này cho thấy việc nghiên cứu phương pháp học tập của học sinh quan trọng như thế nào. *Đề xuất một số phương pháp bồi dưỡng-phát huy tính tích cực học toán có kết quả của học sinh lớp 6 ở Trường THCS Pắc Ta IV-Đối tượng nghiên cứu. -Đối tượng nghiên cứu của PP bồi dưỡng – phát huy tính tích cực học toán của học sinh lớp 6 Trường THCS Pắc Ta là quá trình dạy học môn toán,về thực chất là quá trình giáo dục thông qua việc dạy học môn toán. -Để hiểu rõ về quá trình dạy học môn toán,trước hết ta hãy trả lời câu hỏi.Học toán là gì và thế nào là dạy toán ở trường phổ thông ? +Đứng trên quan điểm hoạt động hoá nội dung dạy học,ta thấy mỗi nội dung dạy học đều liên hệ mật thiết với những hoạt động nhất định.Đó là những hoạt động đã được tiến hành trong quá trình hình thành và vận dụng nội dung đó.Những thành phần tâm lí cơ bản của hoạt động là:động cơ,thao tác,nội dung và kết quả.Động cơ là lí do thực hiện một hoạt động nào đó.Một hoạt động được cấu thành bởi nhiều hoạt động thành phần(còn được gọi là các thao tác).Việc phân tách một hoạt động thành những hoạt động thành phần bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện một hoạt động phức hợp.Nội dung là tri thức cần thiết cho việc tiến hành một hoạt động.Kết quả là tri thức đọng lại trong chủ thể sau hoạt động.Học một nội dung học toán nào đó (một đối tượng,một sự kiện hay một phương pháp toán học cụ thể) là sự tạo lại nó,sự vận dụng nó bằng cách thực hiện những hoạt động liên hệ với chính nó.Dạy một nội dung toán học là khai thác,lựa chọn những hoạt động tiềm tàng trong nội dung này.Từ đó tổ chức,điều khiển học sinh thực hiện những hoạt động này trên cơ sở bảo đảm những thành phần tâm lí cơ bản của hoạt động. +Dưới đây chúng ta sẽ đứng trên quan điểm của lí thuyết tình huống để trả lời câu hỏi:Học toán là gì và thế nào là dạy toán ?Học sinh, sau khi chiếm lĩnh được một tri thức nào đó,thường lưu giữ tri thức này dưới dạng một mô hình dự trữ để hoạt động.Khi học sinh được đặt trong một môi trường phải tiến hành hoạt động,có hai khả năng có thể sảy ra:Nếu những mô hình dự trữ này,khi được mang áp dụng vào đối tượng trong môi trường đã giúp chủ thể thích ứng được với môi trường (giải quyết được một vấn đề,giải được một bài toán,thực hiện được một yêu cầu hành động).Khi đó ta nói chủ thể đã thực hiện sự đồng hoá.Trong trường hợp ngược lại,khi các mô hình dự trữ được áp dụng thử vào đối tượng gặp trong môi trường mà vẫn không có sự thích ứng với môi trường.Lúc này ta nói :Môi trường đã tạo nên chủ thể sự mất cân bằng và cũng lúc này,xuất hiện những tác động ngược lại của đối tượng lên chủ thể,buộc chủ thể phải sản sinh ra một mô hình hoạt động mới,tương ứng với một kiến thức mới:kiến thức về một đối tượng mới (khái niệm),một sự kiện mới (định lí) hoặc một phương pháp mới.Đến đây ta nói:có sự điều tiết của chủ thể và chính bằng sự điều tiết này,chủ thể đã thiết lập lại sự cân bằng.Bây giờ,chúng ta có thể trả lời câu hỏi:Học là gì ? Học là sự thích ứng (bao gồm đồng hoá và điều tiết) đối với một môi trường sản sinh ra những mâu thuẫn,những khó khăn,những sự mất cân bằng.Một cách tương ứng,dạy một nội dung toán học nào đó là gợi lên trong học sinh sự thích ứng mong muốn nói trên bằng cách lựa chọn thích đáng những tình huống,tổ chức môi trường toán học,để trong sự tương tác với môi trường,học sinh sản sinh ra kiến thức cần học. +Một cách nhìn khác về hoạt động học và hoạt động dạy cho rằng:Học là một quá trình sử lí thông tin bao gồm :Đưa thông tin vào,ghi nhớ thông tin,biến đổi thông tin,đưa thông tin ra và điều phối .Dạy là sự điều khiển quá trình xử lí thông tin nói trên,nhưng vì quá trình xử lí thông tin ở đây do người khác thực hiện (mà không phải máy móc),vì vậy sự điều khiển quá trình này phải bảo đảm các yêu cầu sau đây: Thông tin đưa vào phải được học sinh tiếp nhận để ghi nhớ và biến đổi. Thông tin đưa vào phải chính xác,và với khối lượng lớn nhất có thể được. Kiểm soát được quá trình biến đổi thông tin,uốn nắn kịp thời các sai sót. -Chúng ta đã điểm qua các cách nhìn khác nhau đối với hoạt động học toán và dạy toán. Với cách nhìn nào ta cũng thấy cái chung sau đây:Học toán là một hoạt động trong đó chủ thể là học sinh và đối tượng là tri thức toán học.Dạy toán là một hoạt động trong đó chủ thể là thầy giáo và đối tượng là hoạt động học toán của học sinh.Việc cho rằng đối tượng của hoạt động dạy là tri thức (khi trả lời câu hỏi dạy cái gì ?) hoặc là học sinh (khi trả lời câu hỏi dạy ai ?) đều là cách hiểu phiến diện về hoạt động dạy.Một quá trình dạy học trước hết bao gồm ba yếu tố:giáo viên,học sinh và tri thức,cùng với hai hoạt động :học và dạy mà ta có thể biểu diễn bởi sơ đồ dưới đây: Giáo viên Dạy Học sinh Tri thức Học -Khi quá trình dạy học vận hành tức là các hoạt động dạy và học bắt đầu tiến hành (giáo viên đưa ra một yêu cầu hành động,một câu hỏi hay đặt một vấn đề…)học sinh thực hiện yêu cầu hành động,phát biẻu về cách giải quyết vấn đề,dự đoán một sự kiện,…ta thấy rõ hơn sự xuất hiện của một yếu tố nữa của quá trình dạy học,đó là:môi trường .Môi trường ở đây bao gồm :môi trường kiến thức,môi trường vật liệu,môi trường xã hội. +Môi trường kiến thức liên quan đến những kiến thức cũ sẽ được học sinh huy động để xây dựng kiến thức mới và kể cả những kiến thức mới được xây dựng trng quá trình dạy học.Chẳng hạn,những câu hỏi của giáo viên,những phát biểu của học sinh ở lớp bằng lời (hoặc bằng chữ viết trên bảng)có chứa thông tin môn học được các học sinh trong lớp ghi nhận thông qua nghe (hoặc nhìn) để xây dựng kiến thức mới trong quá trình dạy học là những thành phần cấu thành môi trường kiến thức. +Môi trường vật chất liên quan đến những dụng cụ để chạy và học thông thường (thước thẳng,com pa,êke,thước đo góc,…)và các dụng cụ chuyên dụng được tạo ra để dạy học những nội dung cụ thể. +Môi trường xã hội liên quan đến tập thể học sinh được tổ chức để dạy học một tri thức,cùng với sự giao lưu giữa các học sinh.Sự bàn bạc,tranh luận có tác dụng thúc đẩy sự suy nghĩ của mỗi học sinh trong việc tìm cách giải quyết một vấn đề chẳng hạn,là những thành phần tạo nên môi trường xã hội.Môi trường theo sự mô tả trên đây là cái đối mặt với học sinh và môi trường sẽ làm nẩy nở trong các em kiến thức mà thầy giáo định dạy.Xu hướng dạy học hiện đại muốn tổ chức môi trường sao cho,tập thể học sinh hoạt động trong môi trường này giống như sự hoạt động của một cộng đồng các nhà khoa học,họ đang cộng sức giải quyết một vấn đề mà cả cộng đồng quan tâm. Nhờ việc đưa thêm yếu tố môi trường vào quá trình dạy học,chúng ta có sơ đồ sau đây,cụ thể hoá các hoạt động học và dạy nêu ở sơ đồ trên. Giáo viên (2) (1) Môi trường (5) Học sinh (3) (4) Tri thức Kiến thức Giáo viên tổ chức một môi trường để dạy học một tri thức (mũi tên (1)),sao cho xuất hiện sự tương tác giữa học sinh và môi trường (mũi tên (2)),sự tương tác này sẽ làm nảy sinh kiến thức mới (mũi tên (3)) chẳng hạn một dự đoán về một sự kiến toán học,sự tạo ra một đối tượng toán học mới...Giáo viên giúp học sinh biến kiến thức mới ấy (của riêng học sinh) thành tri thức (của nền vâưn hoá chung) bằng cách chẳng hạn,trình bày những sự kiện,những đối tượng mới dưới dạng những định lí,định nghĩa toán học (mũi tên (4) và (5)). Tóm lại,đối tượng nghiên cứu của Phương pháp bồi dưỡng – phát huy tính tích cực học toán có hiệu quả của học sinh lớp 6 Trường THCS Pắc Ta là quá trình dạy học môn toán,trong đó phải kể đến hại hoạt động dạy và học,cùng với các yếu tố của giáo viên,học sinh,tri thức,môi trường mà chúng ta vừa mô tả ở trên. V-phương pháp nghiên cứu. 1.Phương pháp nghiên cứu lí luận. a.Cơ sở lí luận -Nghiên cứu lí luận bảo đảm cho người nghiên cứu có một cơ sở tri thức vững chắc,nhãn quan đủ rộng về khoa học này để tiến hành nghiện cứu nói chung và cho phép người nghiên cứu xác định được khuôn khổ lí thuyết của đề tài nghiên cứu cụ thể sẽ tiến hành.ở đây ta nghiên cứu đề tài:Phương pháp bồi dưỡng-phát huy tính tích cực học toán có hiệu quả của học sinh lớp 6...Từ đó người nghiên cứu xác định được những khái niệm có tính chất công cụ,xác định được phương pháp nghiên cứu tương ứng sẽ sử dụng trong đề tài nghiên cứu cụ thể của mình. -Nghiên cứu lí luận đối với khoa học này còn có nghĩa là nghiên cứu các văn kiện của Đảng và Nhà nước về giáo dục,đào tạo để thấy yêu cầu của xã hội đối với nhiệm vụ giáo dục,đào tạo,từ đó vận dụng vào phương pháp bồi dưỡng-phát huy tính tích cực học toán có hiệu quả của học sinh Trường THCS Pắc Ta huyện Than Uyên-Lai Châu. -Nghiên cứu lí luận đối với PPDH môn toán là làm việc với một kho tàng tri thức của khoa học PPDH môn toán (trong nước và thế giới),là tiếp xúc với những kết quả nghiên cứu mới nhất,song đây không phải là sự đồng hoá những tri thức ấy.Nghiên cứu lí luận bao gồm sự phân tích,tổng hợp,so sánh,khái quát để tìm ra cái mới,và kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác để hình thành giả thuyết khoa học. b.Cơ sở thực tiễn -Nghiên cứu luật giáo dục (NXB chính trị quốc gia 1998) -Văn bản số 2590/GD-ĐT ngày 14/08/1997 -Chỉ thị nhiệm vụ năm học của bộ GD-ĐT -Các văn bản hướng dẫn thực hiện chuyên môn của phòng GD-ĐT Than Uyên-sở GD-ĐT Lai Châu. -Nghị quyết chi bộ,nghị quyết đại hội công nhân viên chức của Trường THCS Pắc Ta huyện Than Uyên. 2.phương pháp quan sát. a.Cơ sở lí luận -Phương pháp quan sát sư phạm là phương pháp tri giác có mục đích một hiện tượng giáo dục nào đó để thu lượm những số liệu,tài liệu,sự kiện cụ thể đặc trưng cho quá trình diễn biến của hiện tượng.Quan sát bao giờ cũng được tiến hành dưới sự chi phối của một quan điểm,một lí thuyết.Việc nghiên cứu lí luận giúp nhà nghiên cứu xác định mục đích,nội dung phương pháp quan sát,giải thích và đánh giá kết quả quan sát được (mũi tên (2)).Kết quả quan sát cũng giúp nhà nghiên cứu đề xuất giả thuyết hoặc điều chỉnh,bổ sung giả thuyết đã có (mũi tên (3)). b.Cơ sở thực tiễn -Những năm học gần đây nhà trường có nhiều chuyên đề áp dụng nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.Nhưng chuyên đề thực hiện phát huy khả năng học toán cho học sinh còn hạn chế dẫn đến chất lương chung của môn toán chưa ca,chưa có sự đi vào chiều sâu,chất lượng mũi nhọn chưa đạt được như mong muốn. -Trong tập thể ban giám hiệu nhiều lần họp bàn biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học đều thống nhất động viên khích lệ tập thể giáo viên bằng mọi biện pháp để phát huy tính tích cực học tập của học sinh. -Học sinh phấn khởi tham gia xây dựng bài,tỏ ra thích học toán khi thầy thực nghiệm một số phương pháp. *Qua các phương pháp nghiên cứu trên đây cho thấy nếu thầy tích cực đổi mới phương pháp dạy học phù hợp đa dạng hóa các hình thức dạy học,hướng dẫn học,tăng cường kiểm tra đúc rút kinh nghiệm,bổ xung kịp thời phù hợp thì chắc chắn học sinh sẽ tích cực học tập,say sưa học tập và như thế kết quả dạy và học chắc chắn tốt. 3.Tổng kết kinh nghiệm. a.Cơ sở lí luận Việc tích luỹ các sự kiện có liên quan giữ vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu một đề tài.ở đây những sự kiện này lại là những kinh nghiệm đã được đúc kết từ thực tiễn,vì vậy phương pháp tổng kết kinh nghiệm là một phương pháp mang tính thực tiễn cao.Tuy nhiên phương pháp tổng kết kinh nghiệm phải được tiến hành bởi sự soi sáng của lí luận,trong đó các kinh nghiệm thu lượm được phải qua sàng lọc,sự giải thíc,sự sắp xếp lại và cái mới,cái bản chất chung của các sự kiện được nẩy ra từ đấy (mũi tên (4)). F. Bacon (1561-1626),nhà triết học Anh,người mở ra phương pháp thực nghiệm,coi việc tích luỹ kinh nghiệm thuần tuý là cách làm của loài kiến: “Chúng tự hài lòng với việc thu nhặt và làm việc theo thói quen của chúng”.ông coi việc lí luận thuần tuý là cách làm của loài nhện: “Chúng dệt nên những tấm mạng từ chất liệu riêng của chúng”,và ông coi việc kết hợp tích luỹ sự kiện và nghiên cứu lí luận là cách làm của loài ong: “Chúng thu lượm những chất liệu từ hoa vườn đồng nội,chúng chuyển hoá chất liệu này bằng một tính năng riêng của chúng”. *Tổng kết kinh nghiệm theo cách trên đây cũng giúp ta đề xuất giả thuyết,hoặc điều chỉnh,củng cố một giả thuyết đã có (mũi tên (5)). b.Cơ sở thực tiễn -Đối với kinh nghiệm cũ sau khi thu lượm phải qua sàng lọc,sắp xếp,giải thích lại. -Đối với kinh nghiệm mới sau khi thu lượm được phải qua giải thích,sàng lọc,sắp xếp,chứng minh lại rồi bổ sung vào kinh nghiệm cũ ta sẽ được một kinh nghiệm mới có hiệu quả hơn và sẽ đem vào áp dụng ở năm học tiếp theo. *Từ những phân tích trên sẽ rút ra được những kinh nghiệm dùng để áp dụng cho phương pháp bồi dưỡng- phát huy tính tích cực học toán cho học sinh lớp 6 Trường THCS Pắc Ta có hiệu quả cho nhiều năm sau và mỗi năm chôi qua kết quả đó lại được nâng cao hơn lên một bậc. 4.Thực nghiệm giáo dục. a.Cơ sở lí luận “Thực nghiệm giáo dục cho phép nhà nghiên cứu tạo nên những tác động sư phạm,từ đó xác định và đánh giá kết quả của những tác động này.Đặc trưng của của thực nghiệm giáo dục là nó không diễn ra một cách tự phát mà là dưới sự điều khiển của nhà nghiên cứu.Nhà nghiên cứu tổ chức quá trình giáo dục một cách có ý thức,có mục đích,có kế hoạch,tự giác thiết lập và thay đổi những điều kiện thực nghiệm cho phù hợp với mục đích nghiên cứu của mình”. Nhà nghiên cứu tổ chức thực nghiệm giáo dục để kiểm tra giả thuyết khoa học của mình (mũi tên (6)).Việc tổ chức thực nghiệm này được tiến hành dưới sự hướng dẫn của lí luận;đó là vấn đề mục đích,nội dung,phương pháp thực nghiệm,phân tích,giải thích kết quả thực nghiệm (mũi tên (7)).Thực nghiệm giáo dục cho phép nhà nghiên cứu một lần nữa,củng cố,điều chỉnh,thêm,bớt các điều kiện của giả thuyết khoa học,cũng có thể bác bỏ giả thuyết (mũi tên (8)).Thực nghiệm giáo dục là một phương pháp nghiên cứu hiệu lực song tiến hành rất công phu:Thực nghiệm được tiến hành trên mẫu chọn lọc,rồi mở rộng,rồi lặp đi lặp lại nhiều lần.Giả thuyết khoa học được chấp nhận sau những thực nghiệm như vậy là một đóng góp vào kho tàng lí luận của khoa học này(mũi tên (9)). b.Cơ sở thực tiễn Học sinh Trường THCS Pắc Ta là học sinh vùng 3 nên điều kiện kinh tế của từng hộ gia đình rất khó khăn,thời lượng học thêm của các em do đó mà cũng bị ảnh hưởng rất lớn.Vì vậy để thực hiện được các buổi thực nghiệm đối với đề tài “Phương pháp bồi dưỡng-phát huy tính tích cực học toán có hiệu quả của học sinh lớp 6” vào các buổi chiều là rất ít.Do đó phải được thực hiện lâu dài và tích luỹ,bổ sung,thay đổi theo từng năm học. phần nội dung ----------------------------------------------- Chương I cơ sở khoa học của việc bồi dưỡng – phát huy tính tích cực học toán cho học sinh thcs --------------------- I-cơ sở lí luận của việc bồi dưỡng – phát huy tính tích cực học toán cho học sinh -Bồi dưỡng khả năng học toán cho học sinh là một việc rất quan trọng và rất cần thiết vì nó góp phần tạo cho con người việt nam phát triển toàn diện.Để làm được việc này phải làm cho các em say mê học toán.Việc này chỉ đạt được kết quả cao khi thầy giáo biết động viên khích lệ các em trong học tập,biết tạo điều kiện để các em tự bộc lộ được khả năng của mình và say sưa tham gia xây dựng bài,tích cực tự giác,tự học tư rèn luyện.Do vậy trong mỗi nhà trường phải có kế hoạch để giáo viên đầu tư thời gian nghiên cứu tự học,tự bồi dưỡng kiến thức và phương pháp đáp ứng yêu cầu cải cách giáo dục góp phần nâng cao chất lượng dạy và học ở trường. II-cơ sở thực tiễn Phát huy tính tích cực học tập cho học sinh nói chung và tích cực học toán nói riêng là một việc rất khó khăn,nhưng rất quan trọng và rất cần thiết.Trong những năm học qua Trường THCS Pắc Ta huyện Than Uyên đã thực hiện công tác này – BGH quan tâm xây dựng kế hoạch chỉ đạo tuy nhiên khi thực hiện cũng gặp nhiều khó khăn:Thầy thì mặt này mặt khác còn hạn chế,học sinh thì không say sưa học,không chủ động tích cực học tập,còn hạn chế dựa dẫm... Tóm lại -Do cách thức phương pháp tổ chức ,do điều kiện thực tế của Thầy – Trò nên thực hiện công tác này còn gặp nhiều khó khăn hiệu quả thấp -Do phối hợp giữa các giáo viên chưa hợp lí,việc áp dụng đổi mới phương pháp chưa thường xuyên,chưa đồng đều dẫn đến việc chưa phát huy hết khả năng của học sinh trong quá trình học tập dẫn đến kết quả còn nhiều hạn chế. iii-một số vấn đề đặt ra trong việc bồi dưỡng – phát huy tính tích cực học toán cho học sinh lớp 6 Trường THCS Pắc Ta huyện Than Uyên -Trên cơ sở phân tích thực hiện thực trạng việc phát huy tính tích cực học toán của sinh tôi nhận thấy có 3 vấn đề đặt ra cho việc bồi dưỡng phát huy tính tích cực cho học sinh lớp 6 Trường THCS Pắc Ta là: 1.Phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học 2.Cần đa dạng hoá nội dung,hình thức bồi dưỡng 3.Tăng cường hiệu lực của việc kiểm tra đánh giá học sinh Ba vấn đề trên xẽ được phan tích,lí giải cụ thể ở chương II Chương II Một số phương pháp bồi dưỡng – phát huy tính tích cực học toán có hiệu quả cho học sinh lớp 6 Trường THCS Pắc Ta huyện than uyên ----------- I- tích cực đổi mới phương pháp dạy học để bồi dưỡng,phát huy tính tích cực học toán cho học sinh -Đổi mới phương pháp dạy học ứng dụng vào thực tế để giảng dạy để nâng cao chất lượng học sinh là việc làm khó khăn phức tạp nhưng lại là vấn đề cốt lõi của việc dạy học đó là đòn bẩy nâng cao chất lượng và vậy phải thực hiện nghiêm túc có khoa học theo giáo t

File đính kèm:

  • docSang kien kinh nghiem cho vung kho khan nhu tinh Lai Chau.doc
Giáo án liên quan