Ngữ văn 7 - Phương pháp dạy thơ đường

Trong chương trình ngữ văn 7. Thơ đường là một bộ phận khá quan trọng.

- Đó là những tác phẩm xuất sắc có đủ sức vượt qua thử thách của gió bụi thời gian mà đến với chúng ta hôm nay là tiếng nói của một lớp người đã sống cách chúng ta hàng nghìn năm ở một đất nước xa lạ (Trung Quốc). Từ phong tục tập quán, sinh hoạt đến nếp sống nếp nghĩ, nếp cảm đều khác với thế hệ hôm nay.

 Mặt khác thơ Đường là thành tựu rực rỡ nhất của văn học đời Đường

( từ thế kỷ VII đến thế kỷ X) là một trong những thành tựu tiêu biểu nhất của văn học Trung Quốc, là đỉnh cao của thơ cổ điển Trung Quốc, đồng thời là một thành tựu đột xuất của thi ca nhân loại. Cho đến nay các nhà sưu tầm và nghiên cứu còn lưu lại được gần 50.000 bài thơ của hơn 2000 nhà thơ Đường. Thơ Đường vừa độc đáo, vừa có tính cổ điển. Họ mang màu sắc Trung Quốc rõ nét đồng thời lại thể hiện một cach đầy đủ tập trung những đặc điểm của thể loại thơ. Đối với lịch sử văn học, thơ Đường ra đời trước nền văn học trung đại Việt Nam gần ba thế kỷ.

 Đối với bạn đọc Việt Nam, nhất là học simh trung học cơ sở, thơ Đường là những sản phẩm tinh thần vừa xa, vừa xưa. Nhưng học thơ Đường không phải chỉ là chiêm ngưỡng những “ cổ vật” mà chúng ta vẫn hiểu được tiếng nói của người xưa và vẫn rung cảm, thấm thía được những tâm hồn cao đẹp. Bởi thế nắm được thi pháp thơ Đường ta cũng có điều kiện để lý giải nhiều hiện tượng của thi pháp thơ cổ điển Việt Nam.

 

doc12 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 3816 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ngữ văn 7 - Phương pháp dạy thơ đường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A/ Lý do chọn đề tài : Trong chương trình ngữ văn 7. Thơ đường là một bộ phận khá quan trọng. - Đó là những tác phẩm xuất sắc có đủ sức vượt qua thử thách của gió bụi thời gian mà đến với chúng ta hôm nay là tiếng nói của một lớp người đã sống cách chúng ta hàng nghìn năm ở một đất nước xa lạ (Trung Quốc). Từ phong tục tập quán, sinh hoạt đến nếp sống nếp nghĩ, nếp cảm đều khác với thế hệ hôm nay. Mặt khác thơ Đường là thành tựu rực rỡ nhất của văn học đời Đường ( từ thế kỷ VII đến thế kỷ X) là một trong những thành tựu tiêu biểu nhất của văn học Trung Quốc, là đỉnh cao của thơ cổ điển Trung Quốc, đồng thời là một thành tựu đột xuất của thi ca nhân loại. Cho đến nay các nhà sưu tầm và nghiên cứu còn lưu lại được gần 50.000 bài thơ của hơn 2000 nhà thơ Đường. Thơ Đường vừa độc đáo, vừa có tính cổ điển. Họ mang màu sắc Trung Quốc rõ nét đồng thời lại thể hiện một cach đầy đủ tập trung những đặc điểm của thể loại thơ. Đối với lịch sử văn học, thơ Đường ra đời trước nền văn học trung đại Việt Nam gần ba thế kỷ. Đối với bạn đọc Việt Nam, nhất là học simh trung học cơ sở, thơ Đường là những sản phẩm tinh thần vừa xa, vừa xưa. Nhưng học thơ Đường không phải chỉ là chiêm ngưỡng những “ cổ vật” mà chúng ta vẫn hiểu được tiếng nói của người xưa và vẫn rung cảm, thấm thía được những tâm hồn cao đẹp. Bởi thế nắm được thi pháp thơ Đường ta cũng có điều kiện để lý giải nhiều hiện tượng của thi pháp thơ cổ điển Việt Nam. Từ chữ Hán, thi pháp thơ Đường cho đến cảm hứng thi tứ, cảnh và người trong thơ… vấn đề đặt ra là: Dạy thơ Đường như thế nào cho đối tượng học sinh lớp 7 (trước đây học ở lớp 9)? Hơn thế nữa, tôi luôn băn khoăn, luôn phấn đấu để làm sao trong mỗi tiết học, học sinh chúng ta được: Hoạt động nhiều hơn Thực hành nhiều hơn Thảo luận nhiều hơn Suy nghĩ nhiều hơn Chính vì những lý do trên thôi thúc tôi đi sâu tìm hiểu vận dụng thi pháp thơ Đường để dạy bài : “ Xa ngắm thác núi Lư” theo hướng tích hợp – tích cực. B/ Thực trạng : Trong chương trình Ngữ văn 7 hiện hành bài thơ “ Xa ngắm thác núi Lư” được dạy ở tiết 34 ( Ngữ văn 7- tập 1) Trong phần câu hỏi: Đọc – hiểu văn bản sách giáo khoa, người ta chỉ đưa ra 5 câu hỏi: 1. Căn cứ vào đầu đề bài thơ và câu thứ hai xác định vị trí đứng ngắm thác nước của tác giả? Vị trí đó có lợi như thế nào? 2.Câu thơ thứ nhất tả cái gì và tả như thế nào? Hình ảnh được miêu tả tring câu này đã tạo nền cho việc miêu tả ở 3 câu sau như thế nào? 3. Nêu lên những vẽ đẹp khác nhau của thác đã được Lý Bạch phát hiện và miêu tả ba câu tiếp theo. 4. Qua đặc điểm cảnh vật được miêu tả có thể thấy những nét gì trong tâm hồn và tính cách nhà thơ. 5. Về hai cách hiểu câu thứ hai, cách hiểu ở bản dịch nghĩa và cách hiểu trong chú thích (2) em thích cách hiểu nào hơn? vì sao? Trong sách giáo viên và sách thiết kế bài giảng Ngữ văn cũng từ những câu hỏi trên đưa ra các gợi ý giải đáp. Tôi cho rằng các phương pháp đổi mới hiện nay, dạy học theo hướng “ tích hợp” thì cách khai thác trên chưa thật thỏa đáng. Chính vì thế điều tôi muốn nói ở đây là nội dung khai thác và phương pháp khai thác bài thơ. C/ Hướng bổ sung : I/ Về phương pháp : Với cơ chế sách giáo khoa trước đây thơ Đường đã được dạy một cách độc lập tách biệt với tiếng việt, tập làm văn. Nay hoàn toàn khác Tiếng Việt. Tập làm văn đều dùng chất liệu thơ Đường không chỉ khắc họa kiến thức mà còn làm đề luyện tập. Cần tận dụng thế thuận lợi đó. 1. Trước hết giáo viên yêu cầu học sinh đọc tác phẩm ( hoặc giáo viên đọc mẫu). Chú ý đọc cả phiên âm dịch nghĩa và dịch thơ, việc đọc tác phẩm giúp các em có tâm thế học, vừa cảm nhận âm hưởng chung của toàn bài. Không nên ngại đọc phiên âm vì sợ học sinh không hiểu. Đúng là có những chữ Hán vượt khỏi sự hiểu biết của học sinh nhưng việc đọc phiên âm giúp học sinh có cách cảm nhận riêng mà phần dịch thơ không thể thay thế được. 2. Tiến hành giải nghĩa. Thực ra sách giáo khoa đã giải nghĩa một cách cơ bản nhưng với từ khó hoặc những từ dễ nhầm lẫn, giáo viên có thể lấy thêm ví dụ để học sinh hiểu. Trên cơ sở giải nghĩa từ, tiến tới nêu lên một cách khái quát của các câu thơ để từ đó học sinh hiểu được nội dung của tác phẩm. Riêng về phần dịch thơ, nên lưu ý các em là để giữ được nguyên nghĩa và âm hưởng của nguyên tắc là rất khó. Vì thế, không phải câu dịch nào cũng đạt tới mức “ mười phân vẹn mười”. 3. Tổ chức tiến hành khai thác trên cơ sở câu hỏi đã được trình bày ở sách giáo khoa, nhưng trong phép phân tích thơ Đường cách mở baì, kết bài và cách dùng các “ chữ mắt” (nhãn từ) các từ có tính chất chìa khóa, là rất quan trọng.Cách kết bài của bài thơ “xa ngắm thác núi Lư” rất hay, cần lưu ý học sinh thưởng thức được dư vị của chúng,trong bài này “chữ mắt” là 5 động từ “vọng”, “Sinh”, “Quải”, “Lạc”, “Nghi”. Chỉ có phân tích một cách sâu sắc những từ chìa khóa ấy mới làm nổi bật được cái thần của bài thơ. Ngoài ra trong thơ Đường vừa có đôi thanh ( bằng đối với trắc theo yêu cầu của niêm luật) vừa có đối ý. Phân tích thơ ohải bám vào chữ nghĩa, thanh âm, nhịp điệu vì nó hết sức súc tích, cô đọng . - Thông qua việc cảm nhận vẻ đẹp của tác phẩm, thấy được nét độc đáo trong tâm hồn và phong cách nghệ thuật của nhà thơ Lý Bạch. II/ Về nội dung : 1. Tác giả, tác phẩm: Lý Bạch (701-762) tự Thái Bạch hiệu thanh liên cư sĩ, quê quán ở Thành Kỷ – Lũng Tây( nay là Thiên Thủy Cẩm Túc). Một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất đời Đường. Ông được người đời mến mộ, gọi là Thi tiên- ông tiên làm thơ. Thơ Lý Bạch là thơ của một tâm hồn phóng khoáng, đày hùng tâm, tráng chí giàu tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu tự do và đất nước, coi thường công danh coi trọng tình bằng hữu, sống hào hiệp, nghĩa khí . Lý Bạch để lại trên 1000 bài thơ với phong cách lãng mạn bay bỗng, tràn đầy cảm xúc và tưởng tượng, khắc học thành công những hình tượng kỳ vĩ, hào hùng. Lý Bạch đi nhiều , hầu như các danh lam thắng cảnh trên đất nước Trung Hoa bao la, ông đều đặt chân tới và làm thơ “Xa ngắm thác núi Lư” là một trong những bài thơ tả cảnh tuyệt bút của ông. 2. Tìm hiểu, cảm thụ bài thơ (đọc hiểu văn bản). a) Xác định điểm nhìn của nhà thơ( vị trí đứng ngắm thác nước của tác giả ). Giáo viên cho học sinh biết các nhà thơ cổ phương Đông thường nhìn cảnh vật thiên nhiên từ xa dễ miêu tả (một nét của thi pháp của thơ Đường). Sau đó vận dụng vào bài thơ của Lý Bạch để trả lời các câu hỏi : * Bức tranh núi Lư được nhìn từ đâu ? những từ ngữ nào cho chúng ta biết rõ điều đó? - Vọng: ngắm - Dao: xa ðĐứng ở xa để ngắm * Theo em cách nhìn ấy có lợi thế như thế nào? có phải là cách nhìn tối ưu không? Giáo viên chốt: Đây là cách nhìn tối ưu vì nó bao quát được vẽ đẹp toàn cảnh, làm nỗi bật được sắc thái hùng vĩ của núi Lư Sơn. b)Tạo nền cho bức tranh thơ. “Nhật chiếu hương lô sinh tử yên“ ( Nắng rọi hương lô khói tỏa bay) Thơ Đường thường “mượn khách để tả chữ” nhằm tạo nền cho bức tranh thiên nhiên định miêu tả ở bài thơ này cũng vậy. * Trong thơ Lý Bạch hương lộ được khám phá ở sự tác động qua lại của các hiện tượng vũ trụ. Hãy cho biết: Tác giả có tả ngay thác nước ở câu thơ đầu hay không? Nhà thơ đã mượn cái gì dể tả thác nước? Nhật Nắng Chiếu Hương Lô Sinh tử yên Khói tía bay Rọi Hương Lô bay Nhật – chủ ngữ với 2 vị ngữ chiếu Hương Lô và sinh tử yên ( 2 động từ chiếu và sinh ) ðQuan hệ về ý nghĩa trong câu thơ là quan hệ nhân quả chủ thể xuyên suốt là mặt trời. Mặt trời chiếu Hương Lô (vế 1) Cho nên sinh làn khói tía (vế 2) * Qua sự miêu tả đó đã giúp người đọc hình dung ra cảnh ngọn núi Hương Lô như thế nào? ð ánh sáng mặt trời xuất hiện trên núi Hương Lô, tỏa ra một màu sắc rực rỡ, kỳ ảo. ð Phác ra cái phóng nén của vẻ đẹp toàn cảnh thác núi Lư. * Có nhận xét gì về câu thơ dịch : - Trong câu thơ dịch về cấu tạo chuyển thành cụm chủ vị “ khói tía - bay”, chủ thể là khói tía khiến cho mọi quan hệ nhân quả nói trên đã bị xóa bỏ, không khí huyền ảo đã bị xua tan. c) 3 vẽ đẹp khác nhau của thác nước: * 3 câu thơ sau nói lên điều gì? ð Vẽ đẹp của thác nước. * Trên nên cảnh núi rực rỡ hùng vĩ đó, một thác nước hiện ra khác nào một dòng sông treo trước mặt. Lời thơ nào ( ở bản phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ) tạo hình ảnh này? Dao khan bộc bố quải tiền xuyên. Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước. Xa trông dòng thác trước sông này. * Dựa vào nghĩa của từ “ quải” “ tiền xuyên” được sách giáo khoa chú thích - Hãy phân tích vẽ đẹp của thác nước. - Vẽ đẹp của thác nước được tập trung ở từ “ quải”. Thác không chảy mà được treo trên dòng sông phía trước ( “ tiên xuyên” ) như một giải lụa trắng rủ xuống . Chữ quải (treo) đã biến cái động thành tĩnh do cảm nhận nhìn từ xa về dòng thác. Đỉnh núi khói tía mịt mù, chân núi dòng sông tuôn chảy, khoảng giữa là thác nước treo cao như giải lụa. ðThác như giải lụa trắng rũ xuống yên lặng và bất động được treo giữa khoảng cách vách núi và dòng sông. * Còn bản dịch em có nhận xét gì? - Bản dịch thơ lược bớt chữ treo dịch: Trước sông này. ðLàm mất đi vẻ đẹp tráng lệ khó tạo ra cái ảo giác về giải Ngân Hà ở câu cuối. * Câu 3 tả nước ở phương diện nào? - Tả độ cao, chiều dài, tốc độ của dòng nước. “ Phi lưu trúc há tam thiên xích” (Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước) * Chữ nào trong bài thơ này viết với sự táo bạo của trí tưởng tượng? ðPhi nghĩa là bay. * Tác dụng chi tiết của ngôn từ này? ð Gợi tả sức sống mảnh liệt của thác nước. ð Cảnh vật lại từ tỉnh chuyển sang động nhờ 2 động từ “phi”( bay ) “ trực bá” ( đỗ thẳng đứng ): Thác chảy như bay đỗ thẳng xuống từ ba nghìn thước tạo nên một vẽ đẹp thật hùng vĩ có trong thơ . * Cảnh tượng mảnh liệt và kỳ ảo kích thích trí tưởng tượng của nhà thơ, để ông viết tiếp lời thơ hếy sức ấn tượng. Đó là lời thơ nào? - Nghị thị Ngân Hà lạc cửa thiên - Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây - Tưởng giải Ngân Hà tuột khỏi mây. * Chữ được dùng táo bạo nhất trong lời thơ này là chữ nào? Chữ lạc, nghĩa là “ rơi xuống” ðTính gợi hình, gợi cảm cao, mới mẽ * Em cảm nhận nết đẹp nào từ câu thơ? ð Đây là vẽ đẹp huyền ảo của thác nước được nhà thơ tái hiện thật tài tình trong 2 động từ “ nghi” (ngỡ là) “ lạc” (rơi xuống) và hình ảnh Ngân Hà: Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây. ð Khiến dòng thác trở nên hùng vĩ một cách huyền ảo. * Theo em để tạo được cảnh thiên nhiên sinh động như thế, tác giả cần có năng lực miêu tả nào? - Tài quan sát - Trí tưởng tượng phong phú. ð Kết hợp một cách tài tình cái ảo với cái chân, cái hình và cái thần trong bút pháp miêu tả của nhà thơ để nâng vẽ đẹp của thác nước lên đến đỉnh cao tuyệt diệu. * Trong kết cấu của một bài thơ tứ tuyệt, bốn câu thơ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, qua phân tích bài thơ này từ câu thơ đâù làm nền để 3 câu thơ sau tả thác nước, vậy kết cấu bài thơ triển khai theo hướng nào? kết cấu ấy nhằm làm nổi bật điều gì? Giáo viên giúp học sinh cảm nhận kết cấu 1-3 qua sơ đồ sau: Vẻ đẹp tráng lệ Vẻ đẹp Hùng vĩ Vẻ đẹp Huyền ảo Tĩnh Động Hư ảo Thác nước treo như giải lụa Thác nước đổ thẳng đứng Tưởng dải Ngân Hà rơi xuống Nền (ngọn Hương Lô rực rỡ, kỳ ảo) (Quải) Phi lưu (trực há) (Nghi) đạc d) Tình cảm của nhà thơ trước thác núi lư. * Tìm trong văn bản các ngôn từ chỉ sự có mặt của nhà thơ nơi thác núi Lư? - Vọng ( ngắm) - Dạo khan ( xa nhìn, xa trông) - Nghi (ngờ, tưởng) * Các hành động ngắm, trông, tưởng ở đây mang ý nghĩa ( nhìn, nghĩ, thấy) Thông thường hay mang ý nghĩa nào trrước những vẻ đẹp của thiên nhiên? - ý nghĩa thưởng ngoạn. * Nếu đó là một hoạt động thưởng ngoạn thì đó là sự thưởng ngoạn như thế nào? - Say mê khám phá những vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên. * Người ta chỉ thưởng ngoạn khi yêu quý thiên nhiên, nhưng ở đây là một niềm yêu quý thiên nhiên đến mức nào? - Đắm say, mãnh liệt. * Từ đó em hiểu gì về vẻ đẹp tâm hồn và tính cách nhà thơ Lý Bạch. ðTâm hồn nhạy cảm, thiết tha với những vẻ đẹp rực rở, tráng lệ, phi thường của thiên nhiên. - Tính cách mãnh liệt hào phóng. 2. ý nghĩa văn bản. * Những nội dung nỗi bật nào được phản ánh trong văn bản ngắm Thác Núi Lư? - Cảnh tượng thiên nhiên tráng lệ, huyền ảo. - Tình người say đắm với thiên nhiên. * Cách tả cảnh, tả tình của nhà thơ Lý Bạch có gì đặc sắc để chúng ta học tập khi làm văn miêu tả và biểu cảm? ( Thảo luận nhóm để trả lời) - Tả cảnh bằng trí tượng tượng mãnh liệt, táo bạo, tạo ra các hình ảnh thơ phi thường. - Thông qua tả cảnh để ngụ tình. * Từ văn bản này, em hiểu gì về mối quan hệ giữa cảnh và tình trong thơ cổ? - Tình gắn bó với cảnh. - Trong cảnh có tình, trong tình có cảnh. Giáo viên chốt: Như vậy có một chổ đứng để ngắm nhìn thác núi Lư ở góc độ nên thơ ấy, chọn một thời điểm để nhận ra vẻ lộng lẫy ấy của thác núi Lư, chỉ có Lý Bạch. Có một cảm xúc lãng mạn như thế trước vẻ đẹp hùng vĩ của thác núi Lư chỉ có Lý Bạch. Vẻ đẹp của bài thơ vì thơ đã sống mãi cùng với tên tuổi của vị “ tiên thi” được cả loài người yêu mến. Luyện tập: Trò chơi ô chữ Em hãy điền những từ còn thiếu trong mỗi câu thơ đã học ở chương trình Ngữ văn 7 vào ô chữ hàng ngang được đánh số tương ứng. Em sẽ tìm được một từ hàng dọc. Hãy cho biết từ hàng dọc là gì? 1. Nhật chiếu Hương ..... sinh tử yên Dao khan bộc bố quải tiền xuyên 2. Sàng tiền minh nguyệt quang Nghị ...... địa thượng sương (1) (3) (4) (2) (5) (6) 3. Nước ..... thẳng xuống ba nghìn thước Tưởng dãy ngân hà tuột khỏi mây Thuyền...... đậu bến cô tô Nữa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn sơn 5. Gặp nhau mà chẳng biết nhau Trẻ cười hỏi.....từ đâu đến làng Tháng tám, thu cao, gió thét già Cuộn mất ba lớp......nhà ta. á L ô H T A Y I H H N A R K (1) (3) (4) (2) i B ạ C H T (5) (6) Đáp án b) Dòng nào là dòng dịch nghĩa cho câu thơ sau: Phi lưu trực phá há tam thiên xích Mặt trời chiếu núi Hương Lô sinh làn khói tía Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước. Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước. Ngỡ là sông ngân rơi từ chín tầng mây. c) Dòng nào có nghĩa là “ Dòng sông phía trước” A. Tử yên B. Tiền xuyên C. Tam thiên D. Cửu thiên d) Vẻ đẹp của bức tranh núi Lư là: A. Hiền hòa, thơ mộng B. Tráng lệ, kỳ ảo C. Hùng vĩ, tĩnh lặng D. Êm đềm, thần tiên e) Tìm một số từ Hán Việt có chứa những yếu tố sau: A. Nhật: B. Tiền C. Thiên D. Tiên D/ Bài học kinh nghiệm: Từ thực tế giảng dạy trên tôi rút ra được những kinh nghiệm sau: 1. Thực chất của phương pháp mới cũng chính là phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh, vấn đề là ở chổ giáo viên biết gợi mở; Tạo tình huống để học sinh thực sự tự học, tự làm việc, tự khám phá tìm hiểu tác phẩm. Lúc đầu tưởng các em lớp 7 học thơ Đường rất khó nhưng qua thực tế, thấy các em không những học được mà còn học rất hào hứng vì qua thơ Đường các em đã rút ra được khá nhiều điều bổ ích. 2. Để làm được điều đó giáo viên phải nắm vững thi pháp thơ Đường, phải xây dựng hệ thống câu hỏi, dẫn dắt hợp lý để phát huy được trí tuệ và năng lực cảm thụ của học sinh. 3. Giáo viên nên tin tưởng vào học sinh, giành cho học sinh một vị trí xứng đáng trong giờ học để học sinh thấy được vai trò làm chủ của mình và từ đó sẽ có thói quen tích cực, sáng tạo trong học tập. Giảng dạy văn nói chung, giảng dạy thơ Đường nói riêng quả là một điều không dễ. Hiểu cho đúng tác phẩm đã là khó, hiểu để dạy cho các em cùng hiểu càng khó hơn. Trên đây chỉ là những thử nghiệm nhỏ của bản thân bước đầu áp dụng cho một tác phẩm văn học cụ thể theo hướng tích hợp. Có thể suy nghĩ của tôi không tránh khỏi chủ quan khiếm khuyết. Rất mong được sự góp ý của quý thầy cô, các anh chị đi trước và bạn bè đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! . Từ cải tiến phương pháp dạy học Ngữ Văn theo hướng tích cực tích hợp đến giảng dạy “ Xa ngắm thác núi Lu” của Lý Bạch ******************************

File đính kèm:

  • docPP day tho duong .doc