Ôn tập Ngữ Văn 12, Học kỳ II (Cơ bản)

A. TÌM HIỂU CHUNG

1. Tác giả:

* Tô Hoài sinh 1920 quê gốc ở tỉnh Hà Tây.

* Trước cách mạng Tháng tam ông viết về hai đề tai chủ yếu: đề tài loài vật và những người dân nghèo, thợ thủ công ở vùng quê.

* Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm báo, hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc.

* Ông sáng tác nhiều thể loại, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục.

* Sáng tác của ông thể hiện vốn hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực đời sống, đặc biệt là phong tục, sinh hoạt đời thường.

* Lối kể chuyện tự nhiên, sinh động, cách miêu tả giàu chất tạo hình, ngôn ngữ phong phú, đậm tính khẩu ngữ.

* Ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

* Tác phẩm chính: Dế mèn phiêu lưu kí, Truyện Tây Bắc, Miền Tây.

 

2.Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề:

2.1. Hoàn cảnh sáng tác:

Truyện là kết quả chuyến đi của Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Trong chuyến đi dài 8 tháng ấy, Tô Hoài đã sống và gắn bó với đồng bào các dân tộc thiểu số và nó đã giúp ông hiểu sâu hơn về cuộc sống của con người miền núi.

Truyện được in trong tập Truyện Tây Bắc, và được giải nhất của Hội văn nghệ Việt Nam (1954 – 1955).

2.2. Chủ đề:

Tố cáo tội ác của bọn phong kiến, thực dân; thể hiện số phận đau khổ của người dân lao động miền núi; phản ánh con đường giải phóng và ca ngợi vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của họ.

 

doc93 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1156 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Ôn tập Ngữ Văn 12, Học kỳ II (Cơ bản), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1: VĂN HỌC VIỆT NAM VỢ CHỒNG A PHỦ Tô Hoài A. TÌM HIỂU CHUNG 1. Tác giả: * Tô Hoài sinh 1920 quê gốc ở tỉnh Hà Tây. * Trước cách mạng Tháng tam ông viết về hai đề tai chủ yếu: đề tài loài vật và những người dân nghèo, thợ thủ công ở vùng quê. * Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm báo, hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc. * Ông sáng tác nhiều thể loại, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục. * Sáng tác của ông thể hiện vốn hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực đời sống, đặc biệt là phong tục, sinh hoạt đời thường. * Lối kể chuyện tự nhiên, sinh động, cách miêu tả giàu chất tạo hình, ngôn ngữ phong phú, đậm tính khẩu ngữ. * Ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. * Tác phẩm chính: Dế mèn phiêu lưu kí, Truyện Tây Bắc, Miền Tây... 2.Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề: 2.1. Hoàn cảnh sáng tác: Truyện là kết quả chuyến đi của Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Trong chuyến đi dài 8 tháng ấy, Tô Hoài đã sống và gắn bó với đồng bào các dân tộc thiểu số và nó đã giúp ông hiểu sâu hơn về cuộc sống của con người miền núi. Truyện được in trong tập Truyện Tây Bắc, và được giải nhất của Hội văn nghệ Việt Nam (1954 – 1955). 2.2. Chủ đề: Tố cáo tội ác của bọn phong kiến, thực dân; thể hiện số phận đau khổ của người dân lao động miền núi; phản ánh con đường giải phóng và ca ngợi vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của họ. 3. Giá trị nội dung và nghệ thuật: 3.1. Giá trị nội dung: Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là câu chuyện về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc, không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối nên đã vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự do. 3.2. Nghệ thuật: Tác phẩm khắc họa chân thực những nét riêng về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn người dân các dân tộc thiểu số bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ. B. PHÂN TÍCH 1. Nhân vật Mị + Số phận bất hạnh: Con dâu gạt nợ. - Đoạn mở đầu: • Cách mở đầu: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra…” : giọng kể trầm giống với cách mở đầu trong cổ tích, chuẩn bị không khí cổ tích cho mẫu nhân vật cổ tích xuất hiện, tạo tâm thế cho người đọc tiếp nhận một motip quen thuộc. • Không gian: “ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa” > xuất hiện cùng thế giới đồ vật nặng chì, câm lặng, gợi mở:  Vị trí người ở của nhân vật.  Hình ảnh tảng đá dường như là một đồng dạng của cô gái – câm nín, ngậm khối u uất khó cất lời, bất động, không sinh khí, không sẻ chia. • Tư thế: “cúi mặt, mặt buồn rười rượi” với nhịp điệu mòn mỏi, thường xuyên, lặp lại vô hồn - “lúc nào cũng vậy” . • Đối lập: hình ảnh một cô gái lẻ loi, đơn độc, u trầm, buồn khổ - cảnh tấp nập, giàu sang nhà thống lí. Nhận xét: o Phác hoạ hình ảnh người con gái câm lặng như chìm lẫn vào thế giới đồ vật vô tri, không cảm giác. o Hé lộ cuộc sống tủi cực, cảnh ngộ éo le của nhân vật. o Cách dẫn dắt khéo léo: điểm nhìn từ xa, bên ngoài tiến gần hơn vào bên trong để thâm nhập nhân vật; tạo ra mâu thuẫn ở lời kể để vén bức màn bí mật về một phận người (hỏi ra mới rõ,… cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra). - Thân phận con dâu gạt nợ: Câu chuyện Mị về làm dâu: •  Lý do: bố lấy mẹ không đủ tiền cưới, phải vay nhà thống lí, tận khi già mà chưa trả hết nợ. Mẹ chết > thống lí đòi lấy Mị làm con dâu để xoá nợ > mối nợ truyền kiếp, dai dẳng, khó thoát > bóng của kiếp sống nô lệ, cùng khổ đổ lên người dân nghèo qua thế hệ này đến thế hệ khác. Câu nói từ bên trong của bố Mị “không thể nào khác được” giống như một dấu triện đóng lên thân phận nô lệ của Mị. • Phản ứng: đề nghị bố lao động trả nợ chứ quyết không muốn bị bán cho nhà giàu: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu” > cho thấy:  Lựa chọn tỉnh táo: thà sống vất vả, nghèo khổ mà tự do còn hơn sống trong giàu sang mà chịu đoạ đày nô lệ.  Khát vọng tự do mãnh liệt và niềm tin trong sang, hồn nhiên của tuổi trẻ. • Bị nhà thống lí lừa bắt đi > thái độ, hành động: “hàng mấy tháng, đêm nào cũng khóc”, ăn lá ngón tự tử > nhận thức sâu sắc tình cảnh quẫn bách của bản thân: sống cũng như chết > phản ứng tiêu cực của lòng yêu sống và khát vọng tự do. • Dần dần:  Cha chết. Mị không còn nghĩ tới cái chết > nghịch lí đầy bi kịch: mất đi khả năng phản ứng với cuộc sống phi nhân tính > thực chất: chỉ sống đời sống vật chất, còn tinh thần và tâm hồn đã chết > nhẫn nhục, cam chịu, vô hồn.  Thời gian: “lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau”: phép đối, cách đếm thời gian chậm rãi, đều đặn > khoảng thời gian đủ để vô hồn hoá con người, nhấn con người vào câm lặng. •  Lí giải về thái độ của Mị: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. • Tưởng: mình cũng là: con trâu, con ngựa. • So sánh:  “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày” > bị bóc lột sức lao động tàn nhẫ  Lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa • Tê liệt khả năng phản ứng với cuộc sống vô nghĩa > phản ứng của con người không còn cảm thấy ý nghĩa cuộc đời, cam chịu sống mảnh đời khuất lấp, quên lãng, như cái cây, tảng đá, đồ vật trong không gian nhà thống lí > nghịch lí: vị trí: con dâu (quyền thế, đáng trọng), thân thế: con nợ, người ở (rẻ rúng, coi thường) • Căn buồng - không gian sống của Mị: kín mít, có một chiếc cửa sửa lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng > tối tăm, bức bối, lạnh lẽo, đầy âm khí > biểu tượng ám gợi về địa ngục trần gian, tù túng, ngột ngạt, nơi cầm tù tuổi thanh xuân của con người, biến Mị từ một cô gái trẻ trung phơi phới thành một con người vô cảm, cam chịu.> không gian phi nhân tính. Tiểu kết: Miêu tả cuộc sống làm dâu, nhà văn khám phá một mảng hiện thực mới: cuộc sống, số phận đau khổ của người lao động miền núi - những con người bị cường quyền, thần quyền, cái nghèo, những áp chế về tinh thần đẩy vào tình trạng sống vô nghĩa, vô cảm. + Sự thức tỉnh và hồi sinh khát vọng sống trong Mị (đêm tình mùa xuân) - Khung cảnh: • Bức tranh mùa xuân:  Cỏ gianh vàng ửng > tươi vui, đầy sức sống, ánh sáng > đối lập với không gian sống tăm tối của Mị.  Mỏm núi: váy hoa xoè như con bướm sặc sỡ > đầy màu sắc, phấn chấn, náo nức.  Đám trẻ: cười ầm.  Tiếng sáo: thiết tha bồi hồi.  Thiên nhiên rực rỡ màu sắc, náo nức âm thanh > sự hiện diện của một thế giới căng tràn nhựa sống. • Đêm tình mùa xuân:  Trong nhà: mọi người nhảy đồng, hát  Bên ngoài: tiếng sáo gọi bạn yêu lơ lửng ngoài đường > chi tiết trở đi trở lại như một ám ảnh, mời gọi, vương vấn, khơi gợi kí ức và khát vọng yêu, sống trong Mị.  Nội dung tiếng sáo: “Mày có con trai con gái rồi/ Mày đi làm nương/ Ta không có con trai con gái/ Ta đi tìm người yêu” > tiếng sáo mang khát vọng đôi lứa, khát vọng sống.  Không - thời gian rạo rực khát vọng, thôi thúc con người tìm đến với men say tình yêu, men say sự sống. - Diễn biến tâm trạng: • Uống ừng ực > u uất, mất cảm giác, không sống trong thực tại, mà lặn vào vô thức, như nuốt cả bao nhiêu đau khổ. • Phơi phới trở lại > có cảm xúc (nhận ra tiếng sáo) • Còn rất trẻ > Ý thức về bản thân trở lại. • Muốn chết: khi cảm xúc, ý thức trở về là lúc Mị muốn chết > phi lí mà logic: ý thức tình trạng sống không bằng chết > giải thoát. • Do tiếng sáo > quên cái chết > xắn miếng mỡ khêu lại đèn, lấy váy, quấn tóc .  Khát vọng được sống được yêu trở lại, kéo theo hành động: muốn được thấy ánh sang, muốn làm đẹp, ý thức về sự tồn sinh của. - Sự vùi dập phũ phàng: bị A Sử trói > khát vọng vừa hồi sinh đã bị vùi dập > tuy nhiên nó đã được nhóm lên để chuẩn bị rực cháy trong hành động cứu A Phủ và cứu mình.  Tiểu kết: Qua nhân vật Mị, nhà văn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc và mới mẻ: - Tố cáo thế lực thống trị, cường quyền, thần quyền đã liên kết để cày đạp tước đoạt quyền sống  cảu những con người đáng ra phải được hạnh phúc nhất. - Đồng cảm sâu sắc với số phận con người nghèo khổ miền núi trước cách mạng. - Khám phá, phát hiện vẻ đẹp, phẩm chất người lao động, đặc biệt là khát vọng sống tự do. - Cuộc gặp gỡ giữa Mị và A Phủ (hành động cởi trói cho A Phủ của Mị). + Lúc đầu, Mị thản nhiên: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. - Cảnh bị trói đến chết không phải là hiếm hoi ở nhà thống lí. - Mị đã chịu đựng quá nhiều đau khổ về thể xác lẫn tinh thần, trơ lì cảm xúc, tê liệt khả năng cảm thông, chia sẻ với cảnh ngộ khốn cùng của người khác. - Cuộc sống bao năm làm con rùa lầm lũi xó cửa khiến Mị quen cam chịu, nhẫn nhục, sức ì, quán tính quá lớn. + Tuy nhiên, nhà văn gài một chi tiết báo hiệu sự phản kháng của Mị: Bị A Sử đánh, đêm sau Mị vẫn ra sưởi > gan lì, bướng bỉnh. + Hôm sau: - Lé mắt trông sang > cái nhìn hờ hững, vô hồn. - Thấy: một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại > chi tiết duy nhất trong đoạn trích thiên về phản ánh nội tâm A Phủ (A Phủ gần như được xây dựng đơn giản hơn Mị: nhân vật của số phận và hành động) > nước mắt ở một thanh niên bản lĩnh, gan góc, yêu đời,  mạnh mẽ diễn tả sâu xót nỗi đau, sự tủi cực, tình cảnh khốn cùng (có lẽ A Phủ cũng đang hình dung mình sẽ bị trói cho đến chết). - Đánh thức hồi ức đau thương, tuyệt vọng trong quá khứ của Mị > thương mình. - Độc thoại nội tâm: đồng cảm với A Phủ, với những người cùng cảnh ngộ > bất bình > tình thương trỗi dậy. - Giả định: A Phủ trốn > Mị bị trói đứng, phải chết trên cái cọc ấy > không sợ: thương A Phủ quên thân > vị tha chiến thắng vị kỉ.  Tô Hoài đã cắt nghĩa logic hành động của Mị: Mị ý thức tình trạng không còn gì để mất của mình sâu sắc. - Hành động: rút dao, cắt dây trói cứu A Phủ - A Phủ: khuỵu xuống > quật sức vùng lên, chạy > sức mạnh của khát vọng sống tự do. - Mị: sợ, chạy theo A Phủ > hành động tự cứu mình  Nhận xét: • Hành động tự cứu mình của Mị là hành động có tính chất tự phát, nhưng cội nguồn sâu sa của nó là khát vọng sống mãnh liệt. • Hành động làm thay đổi vị thế hai con người: nô lệ, cam chịu > tự do, nổi loạn. • Hai nhân vật gặp gỡ nhau trong đau thương, cùng đường, nhờ khát vọng tự do mà vùng lên tự thay đổi cuộc đời. 2. Nhân vật A Phủ + Sự xuất hiện. - Khung cảnh: đêm tình mùa xuân. - Sự kiện: A Phủ đánh A Sử + Phẩm chất: - Gan bướng, thẳng thắn, gan góc. • Không chịu ở cánh đồng thấp > trốn lên núi. •  Đánh A Sử - con trai thống lí vì A Sử gây sự mà không suy nghĩ gì tới hậu quả. • Khi bị đánh: quỳ chịu đòn, im như tượng đá  > gan góc, sức chịu đựng khác thường. - Thể chất dồi dào: khỏe, chạy nhanh như ngựa. - Biết làm mọi việc: đúc lưỡi cày, đục cuốc, đi săn bò tót rất bạo > thanh niên chăm chỉ, chịu khó, tháo vát.  Nhân vật mang vẻ đẹp khoẻ khoắn, cá tính, bản lĩnh,Ø gan góc, tiềm ẩn sức sống, sức mạnh phản kháng, chống bạo tàn của thanh niên lao động miền núi. + Số phận: bất hạnh: - Lai lịch: mồ côi, phải đi làm thuê cuốc mướn từ năm 10 tuổi > motip nhân vật mồ côi bất hạnh trong cổ tích. - Khó có được hạnh phúc giản dị của một người con trai trưởng thành: không thể lấy nổi vợ. - A Phủ ở trừ nợ • Nguyên nhân: đánh A Sử > bị bắt, bị đánh đập dã man (mặt sưng, đuôi mắt giập chảy máu, hai đầu gối sưng bạnh như mặt hổ phù) > cúng ma, bị cho vay nợ để nộp phạt, khao làng > không có tiền trả, phải ở nợ > cuộc đời từ đây bị cột chặt trong vòng riết xoắn của kiếp trừ nợ.  Gặp gỡ với số phận con dâu gạt nợ của Mị > bổ xung cho hình tượng những người lao động: vì nghèo mà chịu đời nô lệ. • Bị bóc lột sức lao động tàn tệ: Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng > câu văn liệt kê > con người làm việc cơ học, như một cỗ  máy, triền  miên, ngày qua ngày, tháng nối tháng, năm tiếp năm, mòn mỏi. • Bị trừng phạt vì làm mất bò của chủ > tự mình lấy dây mây cột mình theo lệnh của thống lí > hiện thực oái oăm > diễn tả sâu sắc, thấm thía tình cảnh tủi cực, ngang trái của kiếp đời nô lệ > cuộc gặp gỡ tự nhiên giữa Mị và A Phủ. C. CỦNG CỐ KIẾN THỨC 1. Đề gợi ý: Đề 1: Phân tích nhân vật Mị. Đề 2: Phân tích nhân vật A Phủ. Đề 3: Phân tích giá trị nhân đạo mới mẻ độc đáo của tác phẩm. Đề 4: Phân tích đêm tình mùa xuân. Đề 5: So sánh nhân hình tượng người phụ nữ trong hai tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt". 2. Gợi ý giải đề Đề 1: Nhân vật Mị + Tổng quát: - Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm. - Vị trí, ý nghĩa hình tượng nhân Mị trong việc biểu hiện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. + Phân tích: - Số phận bất hạnh • Mở đầu •  Cuộc sống con dâu gạt nợ - Sự hồi sinh khát vọng sống và khát vọng tự do. + Đánh giá: - Vai trò, ý nghĩa hình tượng với giá trị tác phẩm: giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mới mẻ, độc đáo. - Đặc sắc nghệ thuật xây dựng hình tượng. So sánh với hình tượng các nhân vật ngưòi phụ nữ khác trong văn học. Đề 2: Nhân vật A Phủ + Tổng quát: - Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm. - Vị trí, ý nghĩa hình tượng nhân A Phủ trong việc biểu hiện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. + Phân tích: - Số phận bất hạnh - Phẩm chất: + Đánh giá: - Vai trò, ý nghĩa hình tượng với giá trị tác phẩm: giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mới mẻ, độc đáo. - Đặc sắc nghệ thuật xây dựng hình tượng Đề 3: Giá trị nhân đạo mới mẻ độc đáo. + Phân tích dựa vào 3 luận điểm. - Tố cáo thế lực thống trị, cường quyền, thần quyền đã liên kết để tước đoạt quyền sống của những con người đáng ra phải được hạnh phúc nhất. - Đồng cảm sâu sắc với số phận con người nghèo khổ miền núi trước cách mạng. - Khám phá, phát hiện vẻ đẹp, phẩm chất người lao động, đặc biệt là khát vọng sống tự do. + Ở mỗi luận điểm: phân tích ở cả hai nhân vật, có sự đối chiếu, liên hệ khéo léo với các nhân vật đồng dạng khác trong văn học. Đề 4: Phân tích đêm tình mùa xuân Dựa vào phần kiến thức cơ bản, phân tích diễn biến tâm trạng của Mị, qua đó thấy được: + Khát vọng sống và khát vọng tự do mãnh liệt. + Nghệ thuật miêu tả nội tâm tinh tế. Đề 5: So sánh nhân hình tượng người phụ nữ trong hai tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt”. + So sánh dựa trên các đặc điểm chủ yếu - Số phận - Phẩm chất. + Qua so sánh thấy được đặc trưng thi pháp văn học kháng chiến đồng thời làm rõ nét riêng trong giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của hai tác phẩm D.THAM KHẢO 1. VỢ CHỒNG A PHỦ Những thân phận trâu ngựa, những tâm hồn đẹp đẽ và cảm hứng nhân văn của văn học cách mạng Trần Đình Sử Vợ chồng A Phủ là tác phẩm trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài, được giải nhất tiểu thuyết, giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Vợ chồng A Phủ được sáng tác vào khoảng 1952-1953, là kết quả của cuộc thâm nhập đời sống vào các dân tộc Thái, Dao, Hmông, Mường trên các vùng cao Tây Bắc đất nước. Trước và sau khi sáng tác truyện này, Tô Hoài đã và vẫn giữ một tình cảm sâu nặng với đồng bào miền núi. Ông từng sống chung với họ, ông học một ít tiếng Thái, Hmông để giao tiếp, từng đo tay kết làm anh em với một số người, từng nhận một người con Hmông làm con nuôi, từng là bạn thân của nhiều cán bộ lãnh đạo người miền núi. Có thể nói Vợ chồng A Phủ cũng như các truyện khác trong Truyện Tây Bắc là kết tinh của vốn sống, vốn hiểu biết và nhất là tình yêu thương, lòng kính trọng của nhà văn đối với người dân miền núi Tây Bắc nước ta. Vợ chồng A Phủ và cả tập Truyện Tây Bắc có một vị trí chắc chắn trong văn học đương đại Việt Nam. Nó mở rộng đề tài văn học sang những vùng núi hẻo lánh chưa được nhà văn đào xới. Nó nhìn nhận con người miền núi với một tình cảm trân trọng, yêu thương, gần gũi. Và chủ yếu là truyện ngắn đã xây dựng được những hình tượng sống động làm người đọc nhớ mãi. Tác phẩm đã được nhà văn chuyển thể và dựng thành phim. Bản thân truyện Vợ chồng A Phủ đã được viết đi viết lại mấy lần. Văn bản hiện nay là kết quả của lần viết thứ ba, khác nhiều so với lần đầu tiên. Tuy vậy tác giả vẫn thấy thành công chưa đều. “Phần sau truyện còn lỏng lẻo so với phần trước”. Phần sau là phần kể vợ chồng A Phủ sau khi đến Phiềng Sa, Tô Hoài vẫn mong được viết lại. Trong kịch phim Vợ chồng A Phủ ông đã viết hay hơn, được nhà văn Nguyễn Tuân khen. Nhưng câu chuyện viết lại không phải là chuyện dễ dàng. Trong tập Truyện ngắn Việt Nam 1945-1985 (Nxb Văn học, Hà Nội, 1985), khi tuyển truyện này, tác giả đã cắt bỏ phần sau và truyện kết thúc ở đoạn hai người đã bỏ xa Hồng Ngài tới Phiềng Sa. Câu “Hai người nhận là vợ chồng. Mà thật thì A Phủ và Mị đã thành vợ chồng” đã khép lại câu chuyện. Chủ đề của truyện Vợ chồng A Phủ, theo lời Tô Hoài phát biểu vào năm 1960 là: “Nông dân các dân tộc Tây Bắc bao năm gian khổ chống đế quốc và bọn chúa đất. Cuộc đấu tranh giai cấp, riêng ở Tây Bắc, mang một sắc thái đặc biệt. Nhìn lướt qua nơi thế lực phong kiến còn đương kéo lùi đất nước lại hàng trăm năm trước”, nhưng “các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng. Họ đã thức tỉnh. Cán bộ của Đảng tới đâu thì các dân tộc đứng lên tới đấy, trước nhất là những người trẻ tuổi. Họ thật đẹp và yêu đời… còn một phút sống vẫn còn chờ đợi, vẫn mong, vẫn tin một ngày bình yên, yên vui của tình yêu và của đất nước”. Hơn 40 năm sau, khoảng năm 1994, Tô Hoài lại nhấn mạnh đến số phận đắng cay của người phụ nữ miền núi, ngoài việc lao động cực nhọc, còn bị mê tín, thần quyền cầm tù trong tinh thần. Nhưng tình yêu và tuổi trẻ đã chiến thắng tù ngục phong kiến và thần quyền. Cuộc kháng chiến của các dân tộc đã đưa học lên con đường chiến đấu bảo vệ hạnh phúc của chính họ. Tác giả đặc biệt lưu ý tới vẻ đẹp của tuổi trẻ và tình yêu của họ, vẻ đẹp của tâm hồn Mị trong giờ khắc cắt dây cứu thoát cho A Phủ và cho chính mình. Có thể coi đó là những gợi ý để đi sâu phân tích nội dung và nghệ thuật tác phẩm. 1. Những thân phận trâu ngựa nơi địa ngục trần gian Mở đầu tác phẩm, tác giả giới thiệu ngay với người đọc hình ảnh của Mị, một cô gái, con dâu thống lí, mặt buồn rười rượi: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” – Đó là nét mặt muôn thuở của cô dâu trừ nợ, một sản phẩm của chế độ bóc lột nợ lãi miền núi. Bố mẹ Mị vay tiền của thống lí để làm đám cưới, mỗi năm trả lãi một nương ngô. Mười mấy năm, bố mẹ đẻ ra Mị, Mị đã lớn, rồi mẹ Mị đã chết, bố Mị già yếu mà vẫn không trả hết nợ! Nhà thống lí bắt Mị về làm dâu gán nợ. Sau này A Phủ cũng bị buộc vay nợ nộp phạt và phải ở nợ. “Bao giờ có tiền thì cho về, chưa có tiền thì phải ở làm con trâu con ngựa” cho thống lí. Đời này, “đời con, đời cháu, bao giờ hết nợ thì thôi”. Như vậy là người ở nợ sẽ trở thành trâu ngựa đời đời, không mong gì thoát ra được! Hai từ “trâu ngựa” trong miệng thống lí Pá Tra nói ra hoàn toàn không phải là nói theo nghĩa bóng, mà là theo nghĩa đen. Mị về làm dâu chỉ có vùi vào việc cả đêm lẫn ngày. Quanh năm suốt tháng, lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt… Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Chồng Mị không xem Mị là người, “chẳng năm nào cho Mị đi chơi Tết”. Khi thấy Mị muốn đi chơi, A Sử liền bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống, nó quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi tắt đèn, khép cửa buồng lại. Hắn trói vợ cũng như thắt cái dây lưng, tắt đèn khép cửa, dửng dưng, lạnh lùng, không suy nghĩ, không xúc động! Đoạn sau, khi Mị bóp thuốc cho A Sử, mệt quá thiếp đi, A Sử tàn nhẫn “đạp chân vào mặt Mị”. Nhà Pá Tra đã có lần trói đứng một người con dâu cho đến chết. Đến lượt A Phủ cũng bị trói đứng như vậy! Có thể nói đó là một tục lệ đã mất hết nhân tính. Củng cố cho tục lệ ấy là tư tưởng mê tín dị đoan. Cướp vợ về, trình ma, cho người vay nợ, cũng trình ma. Một thế lực vô hình trói buộc và hù doạ người dân lao động miền núi, làm cho họ sợ hãi, cam chịu, nằm im trong kìm kẹp. Cảnh tiếng nhạc sinh tiền cúng ma rập rờn, cảnh Pá Tra đốt hương lầm rầm khấn ma về nhận mặt người vay nợ vàng tăng thêm không khí khủng khiếp nơi miền núi âm u, ma thiêng nước độc. Tác giả đã khắc hoạ được sâu sắc cảnh địa ngục trần gian, nơi giam hãm những người dân lao động vô tội. Đó là một bản cáo trạng đối với chế độ phong kiến miền núi man rợ, cấu kết với thực dân Pháp. Theo Tô Hoài trong Cát bụi chân ai cho biết, từ năm 1918, người Mèo (Hmông) ở Đông Dương trực thuộc chính phủ Pháp mà đại diện là quan công sứ đầu tỉnh. Người Mèo đặt ra thống lí, thống soái cai trị tự quản. Đó là những chức quan đặt ra từ thời Pháp để kìm kẹp nhân dân. Không có cách mạng không thể giải phóng cho những con người vô tội ấy. Bị cáo trong bản cáo trạng ấy là A Sử và Pá Tra – cha hắn. Cho vay nặng lãi, coi mạng người như cỏ rác, lợi dụng mê tín thần quyền, cấu kết với quan Tây, cha con Pá Tra là những kẻ hiện thân cho cái ác, cho thế lực phản động. Nhà văn khắc họa không nhiều, nhưng chỉ vài nét mà người đọc không quên được bộ mặt tàn nhẫn, mất hết tính người của chúng. 2. Nhân vật Mị: Mị là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của truyện Vợ chồng A Phủ . Mị là hiện thân cho tuổi trẻ miền núi bị vùi dập và đã vùng lên tự giải thoát cho mình. Mị là linh hồn của truyện Vợ chồng A Phủ. Mở đầu tác phẩm, Tô Hoài giới thiệu Mị là một cô gái lúc nào, làm gì cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Đó là hình bóng của con người bị chà đạp và tuyệt vọng. Nhưng Mị là ai, những ai đứng ngoài hoặc làm khách của nhà thống lí thì không thể hiểu được. Phải là người nghèo ở Hồng Ngài, những người cùng số phận với Mị mới hiểu Mị. Đời Mị trong tác phẩm có thể chia làm bốn đoạn: Đoạn trước khi làm dâu, đoạn mới về làm dâu, đoạn làm dâu đã quen và đoạn cứu A Phủ rồi bỏ trốn cùng A Phủ. Ta hãy phân tích nhân vật Mị theo bốn chặng đường đời đó. a) Trước khi bị bắt về làm dâu trừ nợ, Mị là người con gái hạnh phúc. Cô yêu đời, thổi kèn lá cũng hay như thổi sáo. Cô đã trải qua những đêm tình mùa xuân say mê. “Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Mị lại có khát vọng tự do, muốn làm chủ đời mình. Khi nhà Pá Tra muốn lấy cô về trừ nợ, bố Mị chưa kịp có ý kiến gì, thì Mị đã nói ngay: “Con làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. b) Khi bị cướp về làm dâu, bị trình ma nhà thống lí, Mị đã đau đớn, uất ức. “Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Cô không thể chấp nhận thân phận làm nô lệ cho nhà giàu. Cô hái lá ngón (thứ lá độc), hai mắt đỏ hoe, về chào bố để đi chết. Nhưng cô chết thì bố phải trả nợ, mà bố thì đã quá già yếu rồi. Cô không thể chết. “Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón xuống đất”. Mị khóc cho đời mình, cho số phận mình. Mị ném nắm lá ngón như ném cái khát vọng được giải thoát cho riêng mình! Từ đây, Mị sẽ không nghĩ về mình nữa, cô chỉ sống làm trâu ngựa để trả nợ cho bố mà thôi! c) Mấy năm sau, khi bố Mị chết, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì “Mị quen cái khổ rồi”. “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa,… con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Mị không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau… mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: “Tết xong thì hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa đi nương bẻ bắp, và dù hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi”. Đời Mị chỉ còn là việc và việc nối tiếp nhau, con người Mị rút lại chỉ là cái công cụ, là con vật để sai khiến. Cha con Pá Tra cũng không coi Mị là người. A Sử không tết nào cho Mị đi chơi. Thấy Mị muốn đi chơi thì A Sử chẳng nói chẳng rằng đem một thúng sợi đay lại trói đứng cô vào cột, xong rồi khép cửa ra đi. Người nhà thấy Mị bị trói đứng cô vào cột, xong rồi khép cửa ra đi. Người nhà thấy Mị bị trói đứng như thế suốt đêm cũng không ai hỏi. Thế mà liền đấy, vừa mới được cởi trói thì cô phải đi hái lá thuốc về xoa bóp cho chồng, nhỡ mệt thiếp đi thì A Sử liền lấy chân đạp vào mặt Mị! Thật không ở đâu mạng sống con người, nhân cách con người bị coi rẻ đến như thế! Cũng không ở đâu con người lại tự coi rẻ mình một cách tuyệt vọng như thế! Mị cam chịu thân phận của con rùa nuôi trong xó cửa, chỉ biết ngồi trong cái buồng con kín mít trông ra cái cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng, “đến bao giờ chết thì thôi”. Nhưng đó chỉ là một phần trong con người của Mị. Chỗ sâu sắc của tác giả, tấm lòng nhân đạo của tác giả không chỉ biểu hiện ở tình cảm xót thương Mị, ở việc tố cáo thói tục phi nhân tính của tầng lớp thống trị, mà còn thể hiện ở việc nhìn ra con người bên trong của Mị và đặt trọn niềm thương yêu vào đó. Như trên đã nói Mị có một tuổi trẻ hạnh phúc, có một tính cách muốn làm chủ đời mình. Tính cách ấy không bao giờ chết, nó chỉ tạm thời bị nén xuống để khi có dịp lại bùng lên. Dịp ấy là một mùa xuân Tết đến, mấy năm sau, khi đầu núi có tiếng sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiến

File đính kèm:

  • docON TAP.doc