Sáng kiến kinh nghiệ - Tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn GDCD

PHẦN I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1. Cơ sở lí luận của đề tài

 Thuật ngữ Kĩ năng sống bắt đầu xuất hiện từ những năm 1995-1996, thông qua Dự án “Giáo dục kỹ năng sống để bảo vệ sức khoẻ và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường” do Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và Hội Chữ thập đỏ Việt Nam thực hiện. Từ đó đến nay, nhiều cơ quan tổ chức trong nước và quốc tế đã tiến hành giáo dục kĩ năng sống gắn với các vấn đề xã hội như phòng chống ma tuý, mại dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em, phòng chống tai nạn thương tích, tai nạn bom mìn, bảo vệ môi trường . Giáo dục phổ thông nước ta những năm vừa qua đã được đổi mới cả về mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học gắn với bốn trụ cột giáo dục của thế kỉ XXI: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình, học để cùng chung sống, mà thực chất là một cách tiếp cận kĩ năng sống. Đặc biệt, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh đã được xác định là một trong năm nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013.

 

doc22 trang | Chia sẻ: thanhthanh29 | Lượt xem: 553 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệ - Tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn GDCD, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận của đề tài Thuật ngữ Kĩ năng sống bắt đầu xuất hiện từ những năm 1995-1996, thông qua Dự án “Giáo dục kỹ năng sống để bảo vệ sức khoẻ và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường” do Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và Hội Chữ thập đỏ Việt Nam thực hiện. Từ đó đến nay, nhiều cơ quan tổ chức trong nước và quốc tế đã tiến hành giáo dục kĩ năng sống gắn với các vấn đề xã hội như phòng chống ma tuý, mại dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em, phòng chống tai nạn thương tích, tai nạn bom mìn, bảo vệ môi trường. Giáo dục phổ thông nước ta những năm vừa qua đã được đổi mới cả về mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học gắn với bốn trụ cột giáo dục của thế kỉ XXI: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình, học để cùng chung sống, mà thực chất là một cách tiếp cận kĩ năng sống. Đặc biệt, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh đã được xác định là một trong năm nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013. 2. Cơ sở thực tiễn của đề tài. Thời gian qua, dư luận xã hội đang lên án mạnh mẽ những hành vi bạo lực trong học sinh. Mọi người chưa hết bàng hoàng khi chứng kiến cảnh những nữ học sinh đánh nhau, trong khi có rất nhiều học sinh khác chỉ đứng nhìn mà không hề can ngăn, thì lại xảy ra chuyện hai học sinh ngoan hiền của một tỉnh phía Nam chỉ vì một mâu thuẫn rất nhỏ, một người đã dùng dao đâm chết bạn. Thanh niên bây giờ cũng không đồng nhất. Bên cạnh một bộ phận rất có chí tiến thủ, có lối sống tốt, luôn “miễn dịch” trước cám dỗ của xã hội thì một bộ phận có quan niệm rất cởi mở về tình bạn, tình yêu, họ yêu sớm và “sống thử”... Câu chuyện về giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh là yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay. 3. Tính cấp thiết của đề tài. Theo kết quả điều tra gần đây của Viện nghiên cứu và phát triển giáo dục Việt Nam cho thấy: càng học lên cao thì số học sinh, sinh viên vi phạm đạo đức càng tăng lên. Năm 2007, số liệu khác của ủy ban Dân số – Kế hoạch hóa gia đình đã báo động: mỗi năm cả nước có hơn 1,5 triệu vụ nạo phá thai, trong đó tuổi vị thành niên chiếm trên 35% (trong đó khoảng 20% là học sinh, sinh viên). Học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường THCS, THPT có rất nhiều thay đổi về mặt thể chất, tinh thần, rất ham tìm tòi, khám phá cái mới và thích thể hiện mình. Phương pháp giáo dục phù hợp, sự quan tâm thường xuyên và kịp thời, môi trường trong gia đình và xã hội tốt chính là điều kiện quan trọng để các em phát triển toàn diện về nhân cách. Bởi vậy, giáo dục kỹ năng sống, góp phần xây dựng đạo đức, lối sống cho học sinh phổ thông... là một nhiệm vụ chung của toàn xã hội, và đi đầu là các trường học. 4. Mục đích nghiên cứu của đề tài. Từ năm học 2010-2011, Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh sẽ được lồng ghép vào nội dung của một số môn học, trong đó có môn GDCD. Nhằm chuẩn bị bước đầu cho công tác lồng ghép, cá nhân tôi chọn đã bước đầu triển khai nhiệm vụ. Sau một năm thực hiện, tôi xin được báo cáo kinh nghiệm của mình với tinh thần góp phần cùng đội ngũ giáo viên giảng dạy GDCD toàn tỉnh thực hiện tốt công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. 5. Đối tượng nghiên cứu của đề tài. - Các kĩ năng sống cơ bản cần được tích hợp giáo dục cho học sinh thông qua môn GDCD bậc THPT; - Quá trình nhận thức và thay đổi hành vi của học sinh khối 10 trường THPT Nguyễn Chí Thanh. 6. Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Thực nghiệm khoa học, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá vấn đề. 7. Phạm vi của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu công tác tích hợp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua nội dung môn học GDCD 10. PHẦN II. NỘI DUNG CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ KĨ NĂNG SỐNG 1. Khái niệm Kĩ năng sống: Để trả lời cho câu hỏi Kĩ năng sống là gì? Đã có nhiều quan niệm khác nhau được đưa ra. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), kĩ năng sống là khả năng để có hành vi thích ứng (adaptive) và tích cực (positive), giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hành ngày. Theo UNICEF, kĩ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kĩ năng. Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), kĩ năng sống gắn với bốn trụ cột của giáo dục, đó là : Học để biết (Learning to know) gồm các kĩ năng tư duy như tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả... ; Học làm người (Learning to be) gồm các kĩ năng cá nhân như : Ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin, ... ; Học để sống với người khác (Learning to live together) gồm các kĩ năng xã hội như giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông... ; Học để làm (Learning to do) gồm các kĩ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như kĩ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm... Phân tích các quan niệm trên cho thấy: quan niệm của WHO nhấn mạnh đến khả năng của cá nhân có thể duy trì trạng thái tinh thần và biết thích nghi tích cực khi tương tác với người khác và với môi trường của mình. Quan niệm này mang tính khái quát nhưng chưa thể hiện rõ các kĩ năng cụ thể, mặc dù khi phân tích sâu thì thấy tương đối gần với nội hàm kĩ năng sống theo quan niệm của UNESCO. Quan niệm của UNESCO là quan niệm rất chi tiết, cụ thể, có nhấn mạnh thêm kĩ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ. Còn quan niệm của UNICEF nhấn mạnh kĩ năng không hình thành, tồn tại một cách độc lập mà hình thành, tồn tại trong mối tương tác mật thiết có sự cân bằng với kiến thức và thái độ. Kĩ năng mà mỗi người có được phần lớn cũng nhờ có kiến thức (ví dụ : muốn có kĩ năng thương lượng phải biết nội dung thương lượng). Việc đề cập thái độ cũng là một góc nhìn hữu ích vì thái độ có tác động mạnh mẽ đến kĩ năng (ví dụ thái độ kì thị khó làm cho một người thực hiện tốt kĩ năng biết thể hiện sự tôn trọng với người khác...). Từ những quan niệm trên đây, có thể thấy kĩ năng sống bao gồm một loạt các kĩ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kĩ năng sống là kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc có hiệu quả. Nói cách khác, Kĩ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Đó là những khả năng tâm lí xã hội của mỗi cá nhân thể hiện trong hành vi thích nghi tích cực để xử trí một cách hiệu quả các đòi hỏi và thử thách của cuộc sống thường ngày. - Kĩ năng sống vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội. Kĩ năng sống mang tính cá nhân vì đó là khả năng của cá nhân. Kĩ năng sống mang tính xã hội vì trong mỗi một giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội, ở mỗi vùng, miền, gia đình, cộng đồng, dân tộc lại đòi hỏi mỗi cá nhân có những kĩ năng sống thích hợp. 2. Phân loại Kĩ năng sống: Dựa trên cơ sở phân tích kinh nghiệm quốc tế và thực trạng giáo dục kĩ năng sống ở Việt Nam, có thể đề xuất nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong các trường phổ thông bao gồm 21 kĩ năng, được chia thành các loại sau: - Các kỹ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm: kỹ năng tự nhận thức, kĩ năng xác định giá trị, kỹ năng kiên định, kỹ năng đương đầu với cảm xúc, kỹ năng đương đầu với căng thẳng, kĩ năng đặt mục tiêu. - Các kỹ năng nhận biết và sống với người khác, bao gồm: kỹ năng quan hệ tương tác liên nhân cách, kỹ năng cảm thông với người khác, kỹ năng đứng vững trước áp lực tiêu cực của người khác, kỹ năng thương lượng, kỹ năng giao tiếp có hiệu quả. - Các kỹ năng ra quyết định có hiệu quả, bao gồm: kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng giải quyết vấn đề 3. Tầm quan trọng của kĩ năng sống : Kĩ năng sống có tầm quan trọng rất lớn đối với cuộc sống của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Bởi lẽ: - Cuộc sống là một bức tranh đa dạng, sinh động nhưng cũng đầy thách thức, phức tạp. Để tồn tại trong thế giới ngày nay và đương đầu một cách có hiệu quả với hàng loạt những vấn đề gặp phải, mỗi người cần có bản lĩnh, có những kĩ năng riêng để xử trí với những đòi hỏi và thử thách hàng ngày.. - Kĩ năng sống là những khả năng tâm lí xã hội, rất cần thiết với mỗi người, có tác dụng tích cực với gia đình và xã hội, là một trong những yếu tố quan trọng giúp cho cuộc sống của mỗi cá nhân được thuận lợi, vượt qua được những khó khăn, thử thách trong cuộc sống; giúp cho cuộc sống của gia đình êm ấm, hạnh phúc; giúp cho xã hội an toàn, văn minh. - Các hành vi ứng xử tích cực hiệu quả chỉ có thể hình thành kĩ năng khi được rèn luyện thường xuyên. - Mỗi người cần hiểu biết, rèn luyện và vận dụng được các kỹ năng sống để khẳng định được chính mình và có thể quan hệ hiệu quả với người khác, vượt qua khó khăn, thành công hơn trong cuộc sống, góp phần xây dựng gia đình và xã hội. CHƯƠNG II. GIỚI THIỆU MỘT SỐ KĨ NĂNG SỐNG CẦN ĐƯỢC GIÁO DỤC CHO HỌC SINH Trong phạm vi đề tài này, tôi xin đề cập đến 7 kĩ năng. Cụ thể: 1. Kĩ năng tự nhận thức - Mỗi cá nhân cần nhận biết và hiểu rõ bản thân, nhận biết được những mặt mạnh và mặt yếu của mình để tự đánh giá về mình. Khi các cá nhân nhận thức được khả năng của mình họ sẽ biết sử dụng một cách có hiệu quả và có khả năng lựa chọn những gì phù hợp với những điều kiện của bản thân, với xã hội mà họ đang sống. - Sự tự nhận thức được năng lực của bản thân và vị trí của mình trong cộng đồng dẫn đến lòng tự trọng, tự tin. - Việc rèn luyện khả năng tự nhận thức, thúc đẩy và phát triển lòng tự tin, tự trọng là cần thiết trong việc giáo dục kĩ năng sống. 2. Kĩ năng xác định giá trị - Giá trị là những chuẩn mực về đạo đức, niềm tin, chính kiến, thái độ của mỗi người, mỗi nhóm người, mỗi xã hội. Giá trị được thay đổi qua mỗi giai đoạn trưởng thành của cuộc đời, qua kinh nghiệm sống và chịu ảnh hưởng của một nền giáo dục, một chế độ xã hội nhất định. - Kỹ năng xác định giá trị là khả năng xác định những đức tính, niềm tin, chính kiến của bản thân mà mình cho là quan trọng, đúng đắn, giúp cho ta hành động theo phương hướng đó. Do đó giá trị ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của mỗi người. - Chúng ta cần xác định những giá trị của mình và tôn trọng những giá trị của người khác. 3. Kĩ năng giao tiếp - Giao tiếp là mối quan hệ, sự tiếp xúc giữa con người với con người, thể hiện sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về những thông tin, về cảm xúc, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. - Mối quan hệ giao tiếp giữa con người với con người có thể xảy ra với các hình thức khác nhau: + Giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân + Giao tiếp giữa cá nhân với nhóm, cá nhân với cộng đồng + Giao tiếp giữa nhóm với nhóm, giữa nhóm với cộng đồng - Có 2 loại giao tiếp: Giao tiếp bằng lời, giao tiếp không dùng lời (bằng cử chỉ, nét mặt, điệu bộ, ánh mắt, nụ cười) Truyền và nhận thông tin là một phần quan trọng của kỹ năng giao tiếp. Để truyền thông tin được chính xác, người truyền tin phải nói rõ ràng, dùng từ ngữ phù hợp với đối tượng nghe. Muốn thu nhận được thông tin chính xác người nhận thông tin phải chú ý lắng nghe để hiểu rõ vấn đề. Mỗi người cần biết lắng nghe tích cực, tôn trọng ý kiến của người khác, lựa chọn cách nói cho phù hợp với người nghe. - Kỹ năng giao tiếp với mọi người là một trong những kỹ năng quan trọng trong cuộc sống, vì nó có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, nó giúp cho con người ta thành công hơn trong cuộc sống, làm cho gia đình hạnh phúc, xã hội an toàn. - Giao tiếp vừa là điều kiện quan trọng, vừa là hoạt động để con người hoàn thiện nhân cách của mình. Giao tiếp với đồng nghiệp, với bạn bè, với mọi người, giao tiếp trong lao động, học tập... là điều kiện giúp con người có dịp học hỏi, rút kinh nghiệm, hoàn thiện dần nhân cách của mình. - Muốn giao tiếp có hiệu quả cần phải lắng nghe tích cực và phản hồi tích cực, nghĩa là phải chú ý để hiểu và ghi nhớ thông tin, sử dụng lời nói có hiệu quả, thông tin phản hồi nhanh và chính xác. Giao tiếp hiệu quả còn đòi hỏi sự chân thành, cảm thông chia sẻ với người mình giao tiếp, nhất là khi họ gặp khó khăn, hoạn nạn; cần luôn vui vẻ, hoà nhã, chân thành, cầu thị trong giao tiếp. - Khả năng giao tiếp của mỗi người được hình thành trong một quá trình rèn luyện qua kinh nghiệm của bản thân và qua việc học hỏi người khác trong tình huống cụ thể của cuộc sống. Bởi vậy trong quá trình giáo dục, người giáo viên cần chú ý rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học sinh. 4. Kĩ năng hợp tác: - Sự hợp tác giúp moi người bổ sung hỗ trợ cho nhau tạo nên sức mạnh trí tuệ, tinh thần và thể chất vượt qua khó khăn, đem lại chất lượng hiệu quả cao trong công việc. - Để hợp tác hiệu quả: + Tôn trọng mục đích hoạt động,quyết định chung + Biết giao tiếp, đoàn kết, cảm thông,chia sẻ, hỗ trợ + Nỗ lực phát huy năng lực, sở trường của bản thân + Cùng đồng cam cộng khổ và có trách nhiệm với kết quả chung 5. Kĩ năng ra quyết định: Mỗi ngày, mỗi người đều phải ra nhiều quyết định, có những quyết định tương đối đơn giản và có thể không ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ, định hướng cuộc sống nhưng cũng có những quyết định nghiêm túc liên quan đến các mối quan hệ, tương lai cuộc đời ... Trong một tình huống thường có nhiều sự lựa chọn để giải quyết. Người ta phải lựa chọn để đề ra một quyết định nhưng đồng thời cũng phải ý thức được các tình huống có thể xảy ra do sự lựa chọn của mình. Do vậy, điều quan trọng cần làm là phải lường được những hậu quả trước khi ra quyết định để quyết định của mình là hợp lý nhất:   * Chọn giải pháp cho mỗi tình huống: Giải pháp Tình huống Giải pháp 1 Giải pháp 2 Giải pháp 3 Giải pháp 4 Tình huống 1 -         Lợi -         Hại Tình huống 2 -         Lợi -         Hại * Các bước ra quyết định: (1)- Xác định vấn đề (2)- Thu thập thông tin (3)- Liệt kê các giải pháp để lựa chọn   (4)- Lựa chọn giải pháp (5)- Ra quyết định (6)- Hành động (7)- Kiểm định lại kết quả của quyết định   6. Kĩ năng kiên định   - Trong cuộc sống, mỗi người đều có thể gặp những tình huống đòi hỏi phải ra quyết định để yêu cầu người khác làm một điều gì đó cho mình hoặc bản thân phải nhận lời hay từ chối một điều nào đó mà người khác yêu cầu. Tuy nhiên không phải ai cũng có thể thực hiện được những điều ấy một cách dễ dàng.   - Kỹ năng kiên định là kỹ năng thực hiện bằng được những gì mình muốn hoặc biết cách từ chối bằng được những gì mình không muốn với sự tôn trọng có xem xét tới nhu cầu và quyền của người khác với nhu cầu và quyền của mình một cách hài hoà, đúng mực. Kiên định là sự cân bằng, dung hoà giữa tính hiếu thắng, vị kỷ và tính phục tùng, phụ thuộc. - Kỹ năng kiên định rất cần trong cuộc sống. Kỹ năng kiên định sẽ giúp ta thực hiện được những ước mơ, hoài bão. Người có kỹ năng kiên định chẳng những sẽ tự bảo vệ được bản thân mà còn chống lại được những áp lực tiêu cực của bạn bè, đồng lứa, tránh được những điều xấu cho mình và gia đình. Người không có kỹ năng kiên định sẽ bị mất tự chủ, bị xúc phạm, bản thân luôn bị phụ thuộc hoặc luôn cảm thấy tức giận và thất vọng.   - Tuy vậy, cũng cần phân biệt được hiếu thắng, phục tùng và kiên định. + Hiếu thắng: Luôn chỉ nghĩ đến quyền và nhu cầu của bản thân mình, không tính đến quyền và nhu cầu của người khác. Họ luôn muốn mọi người phải phục tùng mình bất kể điều đó đúng hay sai. + Phục tùng: Thể hiện sự phụ thuộc bị động tới mức coi quyền và nhu cầu của người khác là trên hết, quên đi quyền và nhu cầu của mình bất kể điều đó là hợp lí. + Kiên định: là kỹ năng thực hiện bằng được những gì mà mình muốn hoặc từ chối những gì mình không muốn với sự tôn trọng, có xem xét tới nhu cầu và quyền của người khác với nhu cầu và quyền của mình một cách đúng mực.   7. Kĩ năng đặt mục tiêu:   - Mục tiêu là cái đích mà chúng ta muốn đạt tới, muốn thực hiện ở mỗi một giai đoạn, mỗi một công việc. Mục tiêu có thể là sự hiểu biết (muốn biết về một cái gì đó), có thể là một hành vi (muốn làm được cái gì đó) hay có thể là một sự thay đổi về thái độ. - Kỹ năng đặt mục tiêu là khả năng của con người trong việc đề ra những cái đích có thể thực hiện được cho một vấn đề nào đó của cuộc sống như một sự hiểu biết, một việc làm cụ thể hay một thái độ nào đó. Kỹ năng đặt mục tiêu sẽ giúp chúng ta sống có mục đích, có kế hoạch và có khả năng thực hiện được mục tiêu của mình. Nếu phân loại theo thời gian thực hiện thì có ba loại mục tiêu là: Mục tiêu ngắn hạn (là mục tiêu trong một khoảng thời gian gần, như một ngày, một tuần), mục tiêu trung hạn (là mục tiêu trong một khoảng thời gian xa hơn, như một tháng hoặc vài tháng) và mục tiêu dài hạn (là mục tiêu cho một giai đoạn dài hơn như một năm hoặc vài năm). - Để một mục tiêu có thể thực hiện được, cần đảm bảo các yêu cầu sau: + Mục tiêu đặt ra cần phải cụ thể. + Mục tiêu đó cần phải trả lời những câu hỏi: Ai sẽ thực hiện? thực hiện cái gì? vào lúc nào? trong bao lâu? các điều kiện đảm bảo để đạt mục tiêu? + Mục tiêu đặt ra phải thực tế và có thể thực hiện được (tính khả thi). Không nên đặt ra những mục tiêu quá khó và phải biết đề ra những bước phải làm để thực hiện được mục tiêu. Ví dụ: Xác định xem cần phải đạt tới cái gì, thay đổi cái gì? Có cách gì để đạt tới mục tiêu đó? Khi thực hiện mục tiêu sẽ gặp những thuận lợi và khó khăn nào? Ai là người có thể hỗ trợ, giúp đỡ? Những công việc cần làm để thực hiện được mục tiêu? Thời điểm hoàn thành mục tiêu? + Mỗi mục tiêu đặt ra đều phải có các hành động để đạt muc tiêu đó. Hành động dù lớn hay nhỏ đều cần suy nghĩ: làm như vậy để đạt cái gì? Có lợi không? Nếu hành động không đem lại lợi ích gì cho bản thân, gia đình, cơ quan, bạn bè thì hãy tự kiềm chế và kiểm tra lại mình để điều chỉnh cho phù hợp. Và diều quan trọng là phải có quyết tâm thực hiện, đôi khi cần có sự cam kết. CHƯƠNG III. GIỚI THIỆU MỘT SỐ NỘI DUNG TÍCH HỢP KĨ NĂNG SỐNG TRONG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC CÔNG DÂN 10. I. Khả năng, mục tiêu giáo dục kĩ năng sống trong môn GDCD ở trường THPT 1. Khả năng giáo dục kĩ năng sống trong môn GDCD ở trường THPT : - Có thể giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong tất cả các bài học mà không cần phải đưa thêm các thông tin kiến thức và tăng thời gian tiết học. Tuy nhiên, tuỳ từng bài học khác nhau, giáo viên có thể lựa chọn số lượng và loại kĩ năng sống cho phù hợp. - Việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở môn GDCD tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành kĩ năng sống và tăng cường hứng thú học tập cho học sinh - Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn gắn nội dung với vấn đề của địa phương, của đất nước, của lứa tuổi học sinh sẽ giúp các em hình thành khả năng thích ứng, biết cách ứng phó trước những tình huống khó khăn 2. Mục tiêu giáo dục Kĩ năng sống trong môn GDCD ở trường THPT - Giúp các em biết sống và ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ với mọi người xung quanh, với cộng đồng, đất nước, nhân loại và môi trường tự nhiên; - Giúp các em biết sống tích cực chủ động, lành mạnhtránh được nguy cơ ảnh hưởng xấu, trở thành người học sinh tích cực, người công dân tốt II. Giới thiệu một số địa chỉ tích hợp Giáo dục kĩ năng sống cụ thể trong chương trình GDCD lớp 10. 1 Tích hợp giáo dục kĩ năng kiên định: Mục 2b, bài 4, chương trình GDCD 10. Mục 2b – Mâu thuẫn chỉ được giải quyết bằng đấu tranh - chỉ rõ: “Mâu thuẫn chỉ được giải quyết bằng sự đấu tranh giữa các mặt đối lập, không phải bằng con đường điều hoà mâu thuẫn. Do vậy trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cần phải biết phân tích những mâu thuẫn trong nhận thức, trong rèn luyện. Phải biết phân biệt đâu là đúng, đâu là sai, cái gì là tiến bộ, cái gì là lạc hậu để nâng cao nhận thức khoa học, phát triển nhân cách. Biện pháp để giải quyết mâu thuẫn trong cuộc sống tập thể là phải tiến hành phê bình và tự phê bình, tránh thái độ xuê xoa, “dĩ hoà vi quý”, không dám đấu tranh chống lại cái lạc hậu, tiêu cực”. Khi giảng vấn đề trên, ta nên đặt ra tình huống có vấn đề để học sinh cùng tranh luận. Ví dụ: trong khi cả nước đang vận động thực hiện tiết kiệm trong cưới xin lễ hội thì ở một số địa phương vẫn còn đặt nặng thách cưới và “sum suê” cỗ bàn, do vậy, không ít cặp vợ chồng trẻ đã vướng phải nợ nần sau ngày cưới. Là một thanh niên, ta nên làm gì để cuộc vận động của Trung ương đi vào được đời sống tại địa phương đó? Dĩ nhiên quá trình tranh luận sẽ có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng điểm đến cuối cùng cần đạt là: Khẳng định cuộc vận động của Trung ương là đúng, là tiến bộ, cần thực hiện; thách cưới và đòi hỏi “sum suê” cỗ bàn nay đã lạc hậu; cuộc vận động sẽ gặp rất nhiều khó khăn đi vào đời sống địa phương, nhưng không phải vì thế mà không thực hiện. Cần phải kiên định. 2. Tích hợp giáo dục Kĩ năng ra quyết định. Mục 1b, bài 1, chương trình GDCD 10 Mục 1b - Thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm – trong đó có bàn về khái niệm Thế giới quan và vai trò của nó: “Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm và niềm tin định hướng hoạt động của con người trong cuộc sống”. Nếu thế giới quan tiến bộ, khoa học thì con người sẽ có hoạt động tốt và ngược lại, nếu thế giới quan lạc hậu, phản khoa học thì hành động của con người sẽ u mê, mù quáng... Để học sinh thống nhất vấn đề trên, ta có thể đặt ra tình huống: Giả sử trong nhà em có một người đau rất nặng, để cứu chữa, gia đình nên làm gì? Quá trình thảo luận học sinh sẽ đưa ra các phương án có thể xảy ra trong gia đình là: đưa đến chữa tại bệnh viện; mời thầy mo về cúng bái... Từ kết quả đó, giáo viên cho học sinh lựa chọn phương pháp, thực hiện các bước ra quyết định cho mỗi phương án: Xác định vấn đề; Thu thập thông tin; Liệt kê các giải pháp để lựa chọn; Lựa chọn giải pháp; Ra quyết định; Hành động; Kiểm định lại kết quả. Cuối cùng, dĩ nhiên phương án “đưa đến chữa tại bệnh viện” sẽ được chọn là phương án tối ưu vì đó là cách chữa bệnh khoa học, tiến bộ... Đó chính là “Kĩ năng ra quyết định”. 3. Tích hợp giáo dục Kĩ năng tự nhận thức Mục 1, bài 16, chương trình GDCD 10. Mục 1 - Thế nào là tự nhận thức về bản thân - khẳng định: “Tự nhận thức về bản thân là biết nhìn nhận, đánh giá về khả năng, thái độ, hành vi, việc làm, điểm mạnh, điểm yếu của bản thân. Đó là một kĩ năng sống rất cơ bản của mỗi người. Có hiểu đúng về mình, con người mới có thể có những quyết định, những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với khả năng của bản thân, mới giao tiếp, ứng xử phù hợp với người khác. Đánh giá quá cao hặc quá thấp về bản thân đều có thể dẫn con người đến những sai lầm, thất bại trong cuộc sống. Tự nhận thức đúng về bản thân không phải là điều dễ dàng, mà cần phải qua rèn luyện”. Khi giảng vấn đề này, giáo viên có thể cho học sinh đối thoại như: (1) Dự định sau khi tốt nghiệp THPT, em sẽ học tiếp ngành gì? Vì sao chọn ngành đó? (2) Tại sao nhân dân ta có câu: “Khiêm tốn bao nhiêu chẳng đủ, tự cao một chút chẳng thừa”? Chắc chắn kết quả chúng ta sẽ thu gặt được ở vấn đề (1) là: “em chọn ngành đó vì em thấy năng lực của mình chỉ có thể vươn tới đó...”, vấn đề (2) là: ở đời, đức tính quý nhất là sự khiêm tốn, nhưng khiêm tốn không có nghĩa là tự ti, khi cần cũng phải biết đấu tranh (tự cao một chút) để bảo vệ cái đúng của mình... Đó chính là giáo dục kĩ năng tự nhận thức. 4. Tích hợp giáo dục Kĩ năng hợp tác Mục 2c, bài 13, chương trình GDCD 10. Mục 2c, bài 13 - Hợp tác – đã đưa ra chuẩn kiến thức cần trang bị cho học sinh là: - Về khái niệm: Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung. - Về Ý nghĩa, hợp tác sẽ: + Tạo nên sức mạnh tinh thần và thể chất. + Đem lại chất lượng và hiệu quả cao. + Hợp tác là phẩm chất quan trọng của người lao động mới. - Biểu hiện của hợp tác: + Cùng bàn bạc + Phối hợp nhịp nhàng + Hiểu biết về nhiệm vụ của nhau. + Sẵn sàng giúp đỡ chia sẻ. - Vể nguyên tắc: tự nguyện, bình đẳng, hai bên cùng có lợi. - Các loại hợp tác: + Hợp tác song phương, đa phương. + Hợp tác từng lĩnh vực hoặc toàn diện. + Hợp tác giữa các cá nhân, các nhóm, các cộng đồng, dân tộc, quốc gia. - Trách nhiệm của học sinh: Học sinh cần: + Cùng nhau bàn bạc, phân công, xây dựng kế hoạch cụ thể. + Nghiêm túc thực hiện. + Phối hợp nhịp nhàng, chia sẻ sáng kiến, hỗ trợ giúp đỡ nhau. + Đánh giá, rút kinh nghiệm. Để khắc sâu những nội dung trên, giáo viên cho học sinh thực hiện một trò chơi nhỏ với số lượng theo cặp. Quá trình chơi để hoàn thành tốt công việc đòi hỏi cần phải có sự phối hợp giữa hai người. Ví dụ như một người gợi ý về một đồ vật, một từ nào đó để người kia trả lời, nếu từ nào phạm quy không được tính điểm. Sau 2 phút, cặp nào thực hiện được nhiều từ đáp án sẽ thắng lợi... Qua hình thức trên, vừa rèn luyện kĩ năng hợp tác, vừa rèn luyện kĩ năng lắng nghe, kĩ năng diễn đạt, kĩ năng phản hồi tích cực... cho học sinh. 5. Tích hợp giáo dục Kĩ năng xác định giá trị Mục 1c, bài 12, chương trình GDCD 10 Mục 1c, bài 12 - một số điều nên tránh trong tình yêu nam nữ - đã đưa ra 3 điều nên tránh là: (1) Yêu đương quá sớm, (2) Yêu nhiều

File đính kèm:

  • docSKKN(1).doc
Giáo án liên quan