Sổ tay phương pháp giảng dạy và đánh giá

Như chúng ta đã biết, mỗi một phương pháp giảng dạy dù cổ điển hay

hiện đại đều nhấn mạnh lên một khía cạnh nào đó của cơchếdạy-học

hoặc nhấn mạnh lên mặt nào đó thuộc vềvai trò của người thầy. Chúng

tôi cho rằng, cho dù các phương pháp thểhiện hiệu quảnhưthếnào thì

nó vẫn tồn tại một vài khía cạnh mà người học và người dạy chưa khai

thác hết. Chính vì thếmà không có một phương pháp giảng dạy nào

được cho là lý tưởng. Mỗi một phương pháp đều có ưu điểm của nó do

vậy người thầy nên xây dựng cho mình một phương pháp riêng phù hợp

với mục tiêu, bản chất của vấn đềcần trao đổi, phù hợp với thành phần

nhóm lớp học, các nguồn lực, công cụdạy-học sẵn có và cuối cùng là

phù hợp với sởthích của mình.

Theo chúng tôi, phương pháp giảng dạy được gọi là tích cực nếu hội tụ

được các yếu tốsau:

- Thểhiện rõ vai trò của nguồn thông tin và các nguồn lực sẵn có

- Thểhiện rõ được động cơhọc tập của người học khi bắt đầu môn

học

- Thểhiện rõ được bản chất và mức độkiến thức cần huy động

- Thểhiện rõ được vai trò của người học, người dạy, vai trò của các

mối tương tác trong quá trình học

- Thểhiện được kết quảmong đợi của người học

pdf71 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1492 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sổ tay phương pháp giảng dạy và đánh giá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đổi mới phương pháp giảng dạy và đánh giá là nhiệm vụ thường xuyên đối với mọi cán bộ giảng dạy. Để thực hiện tốt điều này, việc trang bị những kiến thức cơ bản và cập nhật về các phương pháp giảng dạy và đánh giá là rất cần thiết. Ban biên tập Wesite trường xin giới thiệu nội dung cuốn “ Sổ tay phương pháp giảng dạy và đánh giá” do TS Lê Văn Hào - Trường Đại học Nha Trang chủ biên để quý thầy cô đọc tham khảo. Nguồn: Webssite Đại học Nha Trang 3 MỤC LỤC A. PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 1. CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH CỰC .......................................7 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP.......................................22 3. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC DỰA TRÊN VẤN ĐỀ ....................................27 4. SỬ DỤNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG GIẢNG DẠY ĐẠI HỌC..........................................................................................................31 5. DẠY HỌC VỚI CÁC NHÓM NHỎ ...............................................................34 6. DẠY LỚP ĐÔNG SINH VIÊN: NHỮNG KINH NGHIỆM TỐT...............40 7. TÓM TẮT MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VÀ HƯỚNG DẪN TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................45 B. PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ 8. KHÁI NIỆM, MỤC ĐÍCH, VÀ YÊU CẦU CỦA ĐÁNH GIÁ HỌC TẬP...51 9. CÁC HÌNH THỨC TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN................................57 10. ĐẶT CÂU HỎI TRONG GIẢNG DẠY .........................................................66 11. XÂY DỰNG CÂU HỎI TỰ LUẬN.................................................................69 4 A. PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY “Giáo dục không nhằm mục tiêu nhồi nhét kiến thức mà là thắp sáng niềm tin” (Education is not the filling of a pail, but the lighting of a fire) - W. B. Yeats - 5 CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH CỰC I. THẾ NÀO LÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH CỰC? Như chúng ta đã biết, mỗi một phương pháp giảng dạy dù cổ điển hay hiện đại đều nhấn mạnh lên một khía cạnh nào đó của cơ chế dạy-học hoặc nhấn mạnh lên mặt nào đó thuộc về vai trò của người thầy. Chúng tôi cho rằng, cho dù các phương pháp thể hiện hiệu quả như thế nào thì nó vẫn tồn tại một vài khía cạnh mà người học và người dạy chưa khai thác hết. Chính vì thế mà không có một phương pháp giảng dạy nào được cho là lý tưởng. Mỗi một phương pháp đều có ưu điểm của nó do vậy người thầy nên xây dựng cho mình một phương pháp riêng phù hợp với mục tiêu, bản chất của vấn đề cần trao đổi, phù hợp với thành phần nhóm lớp học, các nguồn lực, công cụ dạy-học sẵn có và cuối cùng là phù hợp với sở thích của mình. Theo chúng tôi, phương pháp giảng dạy được gọi là tích cực nếu hội tụ được các yếu tố sau: - Thể hiện rõ vai trò của nguồn thông tin và các nguồn lực sẵn có - Thể hiện rõ được động cơ học tập của người học khi bắt đầu môn học - Thể hiện rõ được bản chất và mức độ kiến thức cần huy động - Thể hiện rõ được vai trò của người học, người dạy, vai trò của các mối tương tác trong quá trình học - Thể hiện được kết quả mong đợi của người học II. MỘT VÀI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH CỰC Một số phương pháp giảng dạy được giới thiệu trong phần này gồm: - Dạy học dựa trên vấn đề - Dạy học theo nhóm - Dạy học thông qua làm đồ án môn học 6 1. Phương pháp dạy học dựa trên vấn đề Phương pháp này có thể được xem như một cách xây dựng tổng thể một đề cương giảng dạy hoặc là một trong những cách được người dạy áp dụng để xây dựng đề cương giảng dạy cho một môn học. Phương pháp này xuất hiện vào năm 1970 tại trường Đại học Hamilton-Canada, sau đó được phát triển nhanh chóng tại Trường Đại học Maastricht-Hà Lan. Phương pháp này ra đời và được áp dụng rộng rãi dựa trên những lập luận sau: - Sự phát triển như vũ bão của KHCN trong những thập niên gần đây, trái ngược với nó là khả năng không thể dạy hết cho người học mọi điều. - Kiến thức của người học thì ngày càng hao mòn từ năm này qua năm khác, cộng thêm là sự chêch lệch giữa kiến thức thực tế và kiến thức thu được từ nhà trường. - Việc giảng dạy còn quá nặng về lý thuyết, còn quá coi trọng vai trò của người dạy, chưa sát thực và chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế. - Tính chất thụ động trong học tập của người học so với vai trò truyền tải của người dạy còn cao khi mà số lượng người học trong một lớp ngày càng tăng. - Hoạt động nhận thức còn ở mức độ thấp so với yêu cầu của thực tế (ví dụ như khả năng đọc và khai thác một cuốn sách hoặc một công trình nghiên cứu). - Sự nghèo nàn về phương thức đánh giá người học, việc đánh giá còn quá nặng về kiểm tra khả năng học thuộc. Chính vì những lý do trên mà phương pháp dạy học dựa trên việc giải quyết vấn đề xuất phát từ tình huống thực tế của cuộc sống, thực tế nghề nghiệp được xây dựng dựa trên những yêu cầu sau: - Phải có một tình huống cụ thể cho phép ta đặt ra được một vấn đề. 7 - Các nguồn lực (trợ giảng, người hướng dẫn, tài liệu, cơ sở dữ liệu….) đều được giới thiệu tới người học và sẵn sàng phục vụ người học. - Các hoạt động phải được người học triển khai như đặt vấn đề, quan sát, phân tích, nghiên cứu, đánh giá, tư duy,… - Kiến thức cần được người học tổng hợp trong một thể thống nhất (chứ không mang tính liệt kê), điều đó cũng có nghĩa là việc giải quyết vấn đề dựa trên cách nhìn nhận đa dạng và chứng tỏ được mối quan hệ giữa các kiến thức cần huy động. - Phải có khoảng cách thời gian giữa giai đoạn làm việc trong nhóm và giai đoạn làm việc độc lập mang tính cá nhân. - Các hình thức đánh giá phải đa dạng cho phép chúng ta có thể điều chỉnh và kiểm tra quá trình sao cho không chệch mục tiêu đã đề ra. Để đảm bảo mọi hoạt động có thể bao phủ được toàn bộ các yêu cầu trên, Trường Đại học Rijkuniversiteit Limbourg tại Maastricht đã đề ra các bước tiến hành như sau: Bước 1: Làm rõ các thuật ngữ và khái niệm liên quan Bước 2: Xác định rõ vấn đề đặt ra Bước 3: Phân tích vấn đề Bước 4: Lập ra danh mục các chú thích có thể Bước 5: Đưa ra mục tiêu nghiên cứu và mục tiêu học tập Bước 6: Thu thập thông tin Bước 7: Đánh giá thông tin thu được Trong số các bước trên, người học thường gặp khó khăn trong việc phân tích vấn đề và tổng hợp các thông tin liên quan vấn đề. 1.1 Các đặc trưng của một vấn đề hay Thực tế đã chỉ ra là có rất nhiều kiểu vấn đề, chủ đề có thể lựa chọn. Điều này phụ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể, từng cách xây dựng vấn 8 đề và các hoạt động đề ra cho người học. Tuy nhiên, đặc trưng bề nổi của một vấn đề thì không bao giờ rời xa nhu cầu của người học (nhu cầu về nhận thức, lĩnh hội kiến thức,..) cũng như không bao giờ xa rời mục tiêu học tập. Dưới đây chúng tôi trình bày một vài cách xây dựng vấn đề để độc giả tham khảo. - Xây dựng vấn đề dựa vào kiến thức có liên quan đến bài học. Toàn bộ bài giảng được xây dựng dưới dạng vấn đề sẽ kích thích tính tò mò và sự hứng thú của người học. Tính phức tạp hay đơn giản của vấn đề luôn luôn là yếu tố cần được xem xét. - Xây dựng vấn đề dựa trên các tiêu chí thường xuyên biến đổi trong công việc, nghề nghiệp (Vấn đề đó có thường xuyên gặp phải? Và nó có phải là nguồn gốc của những thiếu sót trong sản xuất? Nó có tác động lớn tới khách hàng hay không? Tuỳ theo từng hoàn cảnh thì các giải pháp đặt ra cho vấn đề này có đa dạng và khác biệt không?) Vấn đề phải được xây dựng xung quanh một tình huống (một sự việc, hiện tượng,…) có thực trong cuộc sống. Vấn đề cần phải được xây dựng một cách cụ thể và có tính chất vấn. Hơn nữa, vấn đề đặt ra phải dễ cho người học diễn đạt và triển khai các hoạt động liên quan. Một vấn đề hay là một vấn đề không quá phức tạp cũng không quá đơn giản. Cuối cùng là cách thể hiện vấn đề và cách tiến hành giải quyết vấn đề phải đa dạng. Vấn đề đặt ra cần phải có nhiều tài liệu tham khảo nhưng trọng tâm nhằm giúp người học có thể tự tìm tài liệu, tự khai thác thông tin và tự trau dồi kiến thức; các phương tiện thông tin đại chúng như sách vở, băng cát sét, phần mềm mô phỏng, internet,… cũng cần phải đa dạng nhằm phục vụ mục đích trên. 1.2 Vấn đề và cách tiếp cận vấn đề Vấn đề đặt ra cần phải có tác dụng kích thích các hoạt động nhận thức cũng như các hoạt động xã hội của người học. Theo chúng tôi, các hoạt động này thường gắn kết với một hoạt động nghiên cứu thực thụ mà ở đó người học cần phải: 9 - Đặt vấn đề (Vấn đề đặt ra là gì?) - Hiểu được vấn đề - Đưa ra các giả thuyết (Các câu trả lời trước và đối chứng với các câu hỏi đã được đặt ra trong tình huống) - Tiến hành các hoạt động thích hợp nhằm kiểm tra các giả thuyết của mình (nghiên cứu, phân tích, đánh giá tài liệu liên quan, sau cùng là tổng hợp việc nghiên cứu) - Thảo luận và đánh giá các giải pháp khác nhau dựa theo từng tiêu chí mà hoàn cảnh đưa ra - Thiết lập một bản tổng quan và đưa ra kết luận Các bước đặt ra trên đây sẽ giúp cho người học nâng cao khả năng tổng hợp kiến thức. Ví dụ như một vấn đề liên quan đến sinh thái sẽ có nhiều khái niệm liên quan: các khái niệm vật lý, hoá học, các khái niệm về kinh tế, sức khoẻ cộng đồng, chính sách,.. 1.3 Chu trình và cách thức tổ chức dạy học dựa trên vấn đề. Trong chu trình học tập theo phương pháp này, thời gian làm việc độc lập (cá nhân) luôn luân phiên với thời gian làm việc trong nhóm (có sự giúp đỡ của giảng viên, trợ giảng, hoặc người hướng dẫn). Theo chúng tôi, công việc cần thảo luận theo nhóm thường xuất hiện vào hai thời điểm đặc biệt được miêu tả trong chu trình dưới đây: Thảo luận trong nhóm Thảo luận trong nhóm Làm việc độc lập Làm việc độc lập 2 4 3 1 10 Như vậy chu trình dạy học dựa theo vấn đề gồm 4 giai đoạn: Sau khi kết thúc giai đoạn 1 (Giới thiệu chủ đề, chuẩn bị các hoạt động và nguồn lực cần thiết), học viên bắt đầu nhóm họp theo các nhóm nhỏ - giai đoạn 2 (có hoặc không sự trợ giúp của trợ giảng) nhằm phân tích chủ đề, đưa ra các câu hỏi và giả thiết đầu tiên, phân chia nhiệm vụ cho các thành viên nhóm. Tiếp theo đó các thành viên làm việc độc lập theo nhiệm vụ đã được phân chia (giai đoạn 3). Kết thúc giai đoạn 3, từng cá nhân sẽ giới thiệu thành quả làm việc trong nhóm. Cuối cùng mỗi cá nhân tự viết một bản báo cáo (giai đoạn 4). Kèm theo các giai đoạn này thường có các buổi hội thảo trong một nhóm lớn, hoặc các hoạt động thực tế hay tiến hành thí nghiệm. Có thể kết thúc quá trình tại giai đoạn này hoặc tiếp tục quá trình nếu một vấn đề mới được nêu ra. Việc thảo luận trong nhóm là bắt buộc đối với tất cả các cá nhân, nó không những giúp học viên phát triển được khả năng giao tiếp và các kỹ năng xã hội mà còn phát triển được quá trình nhận thức (đọc hiểu, phân tích, đánh giá,…) 1.4 Tác động tích cực của phương pháp dạy học dựa trên vấn đề - Học viên có thể thu được những kiến thức tốt nhất, cập nhật nhất - Có thể bao phủ được trên một diện rộng các trường hợp và các bối cảnh thường gặp - Tính chủ động, tinh thần tự giác của người học được nâng cao - Động cơ học tập và tinh thần trách nhiệm của học viên được nâng cao - Việc nghiên cứu và giải quyết vấn đề ngày càng được bảo đảm Tuy nhiên, để áp dụng phương pháp này với cơ hội thành công cao đòi hỏi chúng ta phải tiến hành một loạt những chuyển đổi sau: - Chuyển đổi các hoạt động của người học từ tính thụ động sang tính tích cực, chủ động - Chuyển đổi các hoạt động của người dạy (người dạy có vai trò khơi dậy các vấn đề và hướng dẫn người học) 11 - Chuyển đổi mối quan hệ giữa vai trò của người học và người dạy - Chuyển đổi hệ thống đánh giá người học - Coi trọng thời gian tự học của người học như thời gian học trên lớp 2. Dạy học theo nhóm Để giúp người học tham gia vào đời sống xã hội một cách tích cực, tránh tính thụ động, ỷ lại thì phương pháp dạy học trong nhà trường có một vai trò rất to lớn. Dạy học theo nhóm đang là một trong những phương pháp tích cực nhằm hướng tới mục tiêu trên. Với phương pháp này, người học được làm việc cùng nhau theo các nhóm nhỏ và mỗi một thành viên trong nhóm đều có cơ hội tham gia vào nhiệm vụ đã được phân công sẵn. Hơn nữa với phương pháp này người học thực thi nhiệm vụ mà không cần sự giám sát trực tiếp, tức thời của giảng viên. Một nhiệm vụ mang tính cộng tác là nhiệm vụ mà người học không thể giải quyết một mình mà cần thiết phải có sự cộng tác thực sự giữa các thành viên trong nhóm tuy nhiên vẫn phải đảm bảo tính độc lập giữa các thành viên. Hơn nữa, người dạy cần phải có yêu cầu rõ ràng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác giữa người học. Chúng tôi sử dụng thuật ngữ “hợp tác” nhằm nhấn mạnh đến công việc mà người học tiến hành trong suốt quá trình thực thi nhiệm vụ. Trong quá trình hợp tác, công việc thường được phân công ngay từ đầu cho mỗi thành viên. Cần chú ý rằng tầm quan trọng của nhiệm vụ được phân công và vai trò của nhiệm vụ sẽ quyết định động cơ học tập của người học. Người học sẽ có động cơ thực hiện nhiệm vụ của mình nếu họ biết rõ được vai trò của các nguồn thông tin ban đầu, của các nguồn lực sẵn có, biết được ý nghĩa của vấn đề, của các yếu tố đầu vào. Để có được một nhiệm vụ hấp dẫn, có khả năng kích thích động cơ học tập của người học, chúng tôi xin trình bày dưới đây các đặc trưng của một nhiệm vụ hay. 12 2.1 Các đặc trưng của một nhiệm vụ hay Nhiệm vụ hay có khả năng kích thích động cơ học tập của người học là nhiệm vụ được tóm lược trong 4C sau: - Choix (Sự lựa chọn): Sự tự do trong lựa chọn nhiệm vụ của người học sẽ thúc đẩy động cơ nội tại của họ, dẫn đến giải phóng họ hoàn toàn và thúc đẩy họ tham gia vào nhiệm vụ một các sâu sắc hơn. Bản chất và thời điểm lựa chọn cũng rất đa dạng: lựa chọn một nhiệm vụ riêng trong tổng thể các nhiệm vụ, lựa chọn các bước tiến hành, các nguồn lực cần huy động,…Cuối cùng tuỳ thuộc vào mục tiêu sau đó mà người dạy quyết định nhân sự cho nhiệm vụ đã được lựa chọn. - Challenge (Thách thức): Thách thức chính là ở mức độ khó khăn của nhiệm vụ. Một nhiệm vụ có tính phức tạp trung bình sẽ mang tính thúc đẩy hơn bởi lẽ nếu nó quá dễ thì sẽ dẫn đến sự nhàm chán, ngược lại nếu quá khó thì học viên dễ nản lòng. Thách thức đối với người dạy là ở chỗ xác định được đúng mức độ khó khăn của nhiệm vụ. - Contrôle (Kiểm soát): Điều quan trọng là người học phải đánh giá được kết quả mong đợi, khả năng cần huy động và cần phát triển đối với chính bản thân mình. Việc kiểm soát là rất quan trọng để thiết lập nên mối quan hệ giữa tính tự chủ của người học và động cơ cho các nhiệm vụ còn lại. Đối với người dạy thì điều quan trọng là biết đưa ra các chỉ dẫn, các mục tiêu cần đạt được, khuôn khổ hoạt động cũng như là mức độ đòi hỏi đối với người học. - Coopération (Hợp tác): Nhằm phát triển kỹ năng giao tiếp xã hội. Việc cộng tác sẽ làm tăng động cơ học tập của người học. Cần chú ý rằng phương pháp học tập theo nhóm được đánh giá cao hay thấp tuỳ theo vào nội dung mà ta muốn truyền đạt. Theo một vài tác giả, phương pháp này sẽ hiệu quả hơn đối với việc giải quyết các vấn đề, những nhiệm vụ không quá dễ đòi hỏi sự sáng tạo, ý tưởng đa dạng. 13 Một nhiệm vụ càng gần với kinh nghiệm cá nhân hoặc với công việc sau này của người học sẽ có nhiều cơ hội khích lệ người học tham gia hơn. Nhiệm vụ như vậy cần phải có các đặc trưng sau: - Phát huy tinh thần trách nhiệm của người học bằng cách trao cho họ quyền được chọn nhiệm vụ - Phải thích đáng trên bình diện cá nhân, xã hội và nghề nghiệp - Thể hiện sự thách thức đối với người học - Cho phép người học có thể trao đổi thông tin qua lại lẫn nhau - Được tiến hành trong một khoảng thời gian vừa đủ - Nhiệm vụ phải rõ ràng 2.2 Các đặc trưng của nhóm Số lượng người học trong một nhóm thường vào khoảng từ 5 đến 10 (con số này có thể tăng hoặc giảm tuỳ theo nhiệm vụ của nhóm, cơ sở vật chất hiện có, trình độ của người học, thời gian dành cho nhiệm vụ,..). Thực tế thì mục tiêu của học tập cộng tác là giúp người học thảo luận, trao đổi ý kiến và chất vấn nhau. Nếu như có quá ít người trong một nhóm thì chúng ta không chắc là sẽ thu thập được các quan điểm đa dạng và khác nhau. Ngược lại, nếu số lượng người trong nhóm quá lớn thì khó có thể cho phép từng thành viên tham gia trình bày quan điểm của mình, hoặc khó có thể quản lý được hết các ý kiến khác nhau. Một nhóm lý tưởng là nhóm cho phép mọi thành viên tham gia diễn đạt ý kiến của mình, bình luận và chất vấn ý kiến của người khác. Sự không đồng nhất giữa các thành viên trong nhóm cũng là một chỉ tiêu đáng được quan tâm, nó cho phép sản sinh ra nhiều ý kiến đa dạng hơn một nhóm đồng nhất. Sự không đồng nhất biểu hiện ở các khía cạnh sau: - Đặc trưng của từng cá nhân (tuổi, giới tính, đạo đức xã hội,…) - Kiến thức, trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp - Khả năng nhận thức - Kiến thức hiểu biết về xã hội 14 Tuy nhiên, trong một vài trường hợp, tuỳ thuộc vào chủ đề của nhóm, vào hoàn cảnh công việc của nhóm, sự không đồng nhất giữa các thành viên cũng có thể có những nhược điểm như: quá nặng đối với một vài thành viên dẫn đến chậm trễ trong công việc, hoặc khó thực thi. Trong bất kỳ trường hợp nào, người dạy luôn phải tổ chức tốt việc chất vấn ý kiến vì chính việc này sẽ làm thay đổi về nhận thức của người học. Người dạy không nên can thiệp quá sâu vào nội dung mà chỉ giữ vai trò chỉ dẫn thực sự trong các nhóm về các vấn đề sau: - Tổ chức lấy ý kiến - Hướng dẫn thảo luận - Cung cấp những thông tin cần thiết - Theo dõi ý kiến, quan điểm của mỗi một thành viên - Duy trì hướng đi cho các nhóm theo đúng nhiệm vụ được giao 2.3 Tác động tích cực của phương pháp dạy học theo nhóm. Phương pháp dạy học theo nhóm có những tác động tích cực về mặt nhận thức sau: - Học viên ý thức được khả năng của mình - Nâng cao niềm tin của học viên vào việc học tập - Nâng cao khả năng ứng dụng khái niệm, nguyên lý, thông tin về sự việc vào giải quyết các tình huống khác nhau Ngoài những tác động về mặt nhận thức, một số tác giả còn cho rằng phương pháp này còn có tác động cả về quan điểm xã hội như: - Cải thiện mối quan hệ xã hội giữa các cá nhân - Dễ dàng trong làm việc theo nhóm - Tôn trọng các giá trị dân chủ - Chấp nhận được sự khác nhau về cá nhân và văn hoá - Có tác dụng làm giảm lo âu và sợ thất bại 15 - Tăng cường sự tôn trọng chính bản thân mình 3. Dạy học thông qua việc làm đồ án môn học 3.1 Đặc trưng của đồ án môn học Đồ án môn học thông thường được xây dựng từ một vấn đề gần gũi với cuộc sống (nhu cầu, sự thiếu hụt, mâu thuẫn về nhận thức xã hội, mong muốn tìm ra một điều gì mới mẻ,…) hoặc từ người dạy hoặc cũng có thể là từ người học (cá nhân xây dựng hoặc một tập thể). Việc xây dựng một đồ án môn học đòi hỏi người học phải có khả năng tổng hợp kiến thức, có khả năng dự đoán, sáng tạo và tư duy đổi mới. Trong quá trình xây dựng đồ án luôn đòi hỏi phải có sự trao đổi, thảo luận giữa người học và người dạy nhằm giải thích và thống nhất mục tiêu. Người học luôn thấy được lợi ích và tạo được động cơ học tập bởi đồ án luôn gắn liền với mục tiêu và các phương tiện để đi đến mục tiêu đó. Cho phép người học: - Thu được nhiều kiến thức, kỹ năng - Nâng cao khả năng kiểm soát tình huống thông qua việc trả lời các câu hỏi liên quan tới vấn đề, thông qua những phát hiện trong quá trình tiến hành đồ án - Hiểu biết hơn về chính mình, những hạn chế của bản thân, đánh giá được những nhu cầu của bản thân và cách thức mà mình đã tiến hành. 16 3.2 Các chức năng của phương pháp dạy học thông qua làm đồ án môn học Chức năng giáo dục: người học có động cơ học tập tốt hơn thông qua việc tham gia vào một hoạt động có ý nghĩa. Chức năng kinh tế và sản xuất: Việc thực thi một công trình đòi hỏi phải tính đến những khía cạnh về kinh tế, thời gian, vật lực và nhân lực. Do vậy đòi hỏi người học phải đề cập tới vấn đề này khi làm đồ án Chức năng dạy học: Để thực hiện đồ án, việc nghiên cứu các phương tiện và thông tin là hết sức cần thiết do dó đòi hỏi người học phải biết xử lý và tổ chức chúng. Chức năng xã hội: Nếu việc thực hiện đồ án cần có sự giúp đỡ của các bên liên quan thì phương pháp này cho phép người học có cơ hội học hỏi từ các cá nhân, tổ chức khác thông qua trao đổi kinh nghiệm và tham khảo ý kiến. Thông qua phương pháp này, người học được phát triển các khả năng như: tính tự chủ, tính sáng tạo, khả năng phân tích một vấn đề và khả năng quan hệ xã hội. Người học được làm chủ hành động của mình tuỳ theo mục tiêu cần đạt. 3.3 Các bước hướng dẫn tiến hành một đồ án Việc hướng dẫn tiến hành một đồ án (có thể là đồ án nhằm cụ thể hoá hơn một ý tưởng cá nhân, một đồ án thiết kế hoặc cũng có thể là các bước tiến hành xây dựng một vật dụng kỹ thuật đáp ứng một số tính chất nào đó) bao gồm một số công đoạn sau: CHUẨN BỊ, THỰC HIỆN, TỔNG HỢP, ĐÁNH GIÁ. Việc hướng dẫn các công đoạn này được người dạy thực hiện thông qua việc trả lời các câu hỏi liên quan dưới đây: 17 CÔNG ĐOẠN CHUẨN BỊ 1. Xác định đồ án Câu hỏi Trả lời 9 Làm thế nào để giới thiệu nội dung đồ án với người học sao cho kích thích tính tò mò của họ? 9 Làm thế nào để hướng người học tự đưa ra mục đích của mình? 9 Làm thế nào để giúp người học huy động được các kiến thức vốn có của mình? 9 Làm thế nào để giúp người học đặt ra được nhiều câu hỏi liên quan đến chủ đề? 2. Lập kế hoạch 9 Làm thế nào có thể tập hợp được người tham gia vào công tác lập kế hoạch? 9 Làm thế nào để giúp người học đảm đương được vai trò và trách nhiệm của mình 9 Đâu là nguồn lực hữu hiệu nhất đối với người học? CÔNG ĐOẠN THỰC HIỆN 3. Thu thập và xử lý thông tin thu được 9 Hướng dẫn người học tìm kiếm thông tin như thế nào? 9 Làm thế nào để giúp người học phân tích, so sánh và hiểu được thông tin thu được? 9 Hướng dẫn người học lựa chọn thông tin như thế nào? 9 Làm thế nào để giúp người học thiết lập được mối liên hệ 18 giữa các thông tin tìm được? 9 Giúp người học tổ chức sắp xếp các thông tin như thế nào? 9 Những kiến thức và chiến lược gì là hữu ích cho người học? 4. Xây dựng sản phẩm hoặc bản báo cáo 9 Làm thế nào để hướng dẫn người học xác định các yếu tố chủ yếu để báo cáo? 9 Những nhận xét của người dạy và vật chất hỗ trợ người học hoàn thiện sản phẩm? 5. Giới thiệu sản phẩm 9 Hướng dẫn người học tiếp thu ý kiến phản hồi như thế nào? 9 Nếu có sự chỉnh sửa để hoàn thiện thì tiến hành ở đâu, như thế nào? CÔNG ĐOẠN TỔNG HỢP 6. Sự khách quan hoá 9 Hướng dẫn người học xem xét lại các bước tiến hành như thế nào? 9 Hướng dẫn người học xem xét lại kết quả hoặc sản phẩm như thế nào? 9 Làm thế nào để hướng dẫn người học xác định được những bối cảnh mới để áp dụng những kiến thức, kỹ năng, năng lực có được? 9 Làm thế nào để hướng dẫn người học hình thành những ý tưởng, mục tiêu mới? 19 CÔNG ĐOẠN ĐÁNH GIÁ 7. Mối liên hệ với nội dung đào tạo 9 Việc xây dựng đồ án giúp người học phát triển kỹ năng, năng lực và thu được kiến thức gì? 8. Kế hoạch hoá đối tượng đánh giá 9 Những kiến thức và phương pháp nào sẽ được đánh giá? 9 Mảng kiến thức nào về khả năng hợp tác sẽ được đánh giá 9 v…v… 9. Xác định loại hình đánh giá 9 Liệu người học có thể tự đánh giá? Nếu được thì làm thế nào để giúp người học tự đánh giá về việc học tập của mình? 9 Liệu có thể áp dụng loại hình đánh giá theo cặp? Nếu được thì đâu là những điểm cần đánh giá? 9 Liệu có thể áp dụng loại hình đánh giá theo nhóm? Nếu được thì làm thế nào để giúp người học tham gia vào hoạt động đánh giá? (Do ThS. Lê Xuân Thắng biên dịch từ bản gốc tiếng Pháp tại: 20 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP Phương pháp nghiên cứu trường hợp (Case study method) bắt đầu được khởi xướng từ những năm 40 của thế kỷ 20 bởi James B. Conant ở Đại học Havard, Hoa Kỳ (Conant, 1949). Tuy nhiên, sự khởi xướng này đã không nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các nhà giáo dục thời ấy do bởi Conant không sử dụng các “case” như vấn đề cho SV thảo luận mà chỉ đưa vào bài giảng của mình. Đến những năm 80, các trường Luật và Thương mại của ĐH Havard bắt đầu sử dụng rộng rãi các “case”, là các ví dụ điển hình trong thực tế, để làm nội dung chính cho SV thảo luận trong các môn học (Christensen, 1986). Từ sự thành công ở các trường này, PPGD này đã dần được mở rộng sang các ngành đào tạo khác. Đến nay, nó đã trở thành một trong các PPGD chủ đạo ở bậc ĐH. Nhiều trường ĐH thành lập riêng các trung tâm nghiên cứu và phát triển PPGD này, tiêu biểu như ĐH Buffalo - Hoa Kỳ. I. CÁC PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG “CASE” 1. Từ các nguồn tư liệu sẳn có Với sự phát triển nhanh chóng của nhân loại trên mọi mặt, có thể nói nguồn tư liệu để xây dựng “case” là gần như vô hạn: sách, báo, tạp chí, phim, ảnh, inter

File đính kèm:

  • pdfSotayPPgiangdayvadanhgia[1].pdf