Tiểu luận Phương pháp trắc nghiệm khách quan loại câu hỏi nhiều lựa chọn (MCQ)

MỤC LỤC

A. ĐẶT VẤN ĐỀ Trang 2

B. NỘI DUNG 3

I. PHÂN LOẠI TRẮC NGHIỆM TRONG GIÁO DỤC 3

II. LÍ THUYẾT VỀ TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN 5

1. Loại câu hỏi ghép đôi (matching item) 5

a. Cấu trúc 5

b. Ưu điểm 6

c. Nhược điểm 7

2. Loại câu hỏi điền khuyết (supply item) hay có câu trả lời ngắn 7

a. Cấu trúc 7

b. Ưu điểm 8

c. Nhược điểm 9

3. Loại câu hỏi “Đúng - sai” 10

a. Cấu trúc 10

b. Ưu điểm 10

c. Nhược điểm 10

d. Yêu cầu khi viết câu hỏi “Đúng - Sai” 11

4. Loại câu hỏi nhiều lựa chọn (multiple choise question - MCQ) 12

a. Cấu trúc 12

b. Ưu điểm 13

c. Nhược điểm 14

III. KĨ THUẬT VIẾT CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN NHIỀU LỰA CHỌN (MCQ) 15

1. Kĩ thuật viết phần dẫn 15

2. Kĩ thuật soạn các phương án chọn 20

IV. MỘT VÀI CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN MCQ 27

C. KẾT LUẬN 31

 TÀI LIỆU THAM KHẢO 32

 

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 10575 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Phương pháp trắc nghiệm khách quan loại câu hỏi nhiều lựa chọn (MCQ), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ Trang 2 B. NỘI DUNG 3 PHÂN LOẠI TRẮC NGHIỆM TRONG GIÁO DỤC 3 LÍ THUYẾT VỀ TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN 5 Loại câu hỏi ghép đôi (matching item) 5 Cấu trúc 5 Ưu điểm 6 Nhược điểm 7 Loại câu hỏi điền khuyết (supply item) hay có câu trả lời ngắn 7 Cấu trúc 7 Ưu điểm 8 Nhược điểm 9 Loại câu hỏi “Đúng - sai” 10 Cấu trúc 10 Ưu điểm 10 Nhược điểm 10 Yêu cầu khi viết câu hỏi “Đúng - Sai” 11 Loại câu hỏi nhiều lựa chọn (multiple choise question - MCQ) 12 Cấu trúc 12 Ưu điểm 13 Nhược điểm 14 KĨ THUẬT VIẾT CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN NHIỀU LỰA CHỌN (MCQ) 15 Kĩ thuật viết phần dẫn 15 Kĩ thuật soạn các phương án chọn 20 MỘT VÀI CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN MCQ 27 C. KẾT LUẬN 31 TÀI LIỆU THAM KHẢO 32 A. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm gần đây, Bộ giáo dục và Đào tạo đã và đang tiếp tục chủ trương đồng thời đổi mới toàn diện giáo dục từ mục tiêu chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo đến các hoạt động của kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của người học. Các hoạt động nghiên cứu xung quanh các phương pháp trắc nghiệm khách quan trong kiểm tra - đánh giá bước đầu đã phát huy được các ưu điểm của trắc nghiệm khách quan như : điểm số có tính khách quan cao, chính xác, nâng cao hiệu quả quá trình đào tạo (thời gian, kinh phí, phản hồi nhanh...) tránh học tủ, học lệch, đối phó ... Trong những năm gần đây việc tổ chức kiểm tra – đánh giá người học bằng hình thức thi trắc nghiệm khách quan đã trở nên quen thuộc và phổ biến với các kì kiểm tra, thi học kì, thi tốt nghiệp và thi tuyển sinh cao đẳng, đại học. Trong tiểu luận này tôi xin trình bày khái quát nội dung một số loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan và kĩ thuật viết câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn (MCQ). B. NỘI DUNG PHÂN LOẠI TRẮC NGHIỆM TRONG GIÁO DỤC Trắc nghiệm theo nghĩa rộng là một hoạt động để đo lường năng lực của các đối tượng nào đó nhằm những mục đích xác định. Trong giáo dục trắc nghiệm được tiến hành thường xuyên ở các kỳ thi, kiểm tra để đánh giá kết quả học tập, giảng dạy đối với một phần của môn học, toàn bộ môn học, đối với cả một cấp học; hoặc để tuyển chọn một số người có năng lực nhất vào học một khoá học. Có thể phân chia các phương pháp trắc nghiệm ra làm 3 loại: loại quan sát, loại vấn đáp và loại viết. CÁC PHƯƠNG PHÁP TRẮC NGHIỆM Quan sát Viết Vấn đáp Trắc nghiệm khách quan Trắc nghiệm tự luận Đúng - sai Điền khuyết Nhiều lựa chọn Ghép đôi Tiểu luận Tóm tắt Tự diễn đạt Đoạn văn - Loại quan sát giúp xác định những thái độ, những kỹ năng thực hành hoặc một số kỹ năng về nhận thức, kỹ năng ứng xử, kỹ năng giải quyết vấn đề… - Loại vấn đáp thường được dùng khi tương tác giữa người chấm và người được chấm là quan trọng. - Loại viết thường có hai hình thức chính là : trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Loại viết được sử dụng nhiều nhất vì nó có những ưu điểm sau : Cho phép kiểm tra nhiều thí sinh một lúc. Cho phép thí sinh cân nhắc nhiều hơn khi trả lời. Đánh giá được một vài loại tư duy ở mức độ cao. Cung cấp bản ghi rõ ràng các câu trả lời của thí sinh để dùng khi chấm. Người ra đề không nhất thiết phải tham gia chấm bài. + Loại câu hỏi trắc nghiệm tự luận là những câu hỏi có câu trả lời tự do hay trả lời có giới hạn. Học sinh có thể trả lời bằng một bài viết mô tả, phân tích, chứng minh và giải thích. Học sinh được tự do diễn đạt, trình bày tư tưởng, suy nghĩ và cả phương pháp của mình nên phát huy được óc sáng tạo và suy luận. + Loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan trong đó đề kiểm tra thường gồm rất nhiều câu hỏi, mỗi câu nêu ra một vấn đề cùng với những thông tin cần thiết sao cho học sinh chỉ phải trả lời vắn tắt cho từng câu. Bảng so sánh trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN TRẮC NGHIỆM TỰ LUẬN 1. Chỉ có một phương án đúng ; tiêu chí đánh giá là đơn nhất ; việc chấm bài là hoàn toàn khách quan không phụ thuộc vào người chấm. 1. Học sinh có thể đưa ra nhiều phương án trả lời, tiêu chí đánh giá không đơn nhất. Việc chấm bài phụ thuộc vào chủ quan người chấm. 2. Câu trả lời là có sẵn hoặc nếu học sinh phải viết câu trả lời thì đó là những câu ngắn và chỉ có một số từ. 2. Các câu trả lời do học sinh tự viết và có thể có nhiều phương án với mức độ đúng sai khác nhau. Ưu điểm và hạn chế của trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận VẤN ĐỀ ƯU THẾ TNKQ TNTL Ít tốn công ra đề. x Đánh giá được khả năng diễn đạt, đặc biệt là tư duy logic. x Dễ đánh giá khả năng sáng tạo ở mức độ cao. x Đề phủ kín nội dung môn học. x Ít may rủi do trúng hoặc không trúng tủ. x Ít tốn công chấm thi. x Giảm bớt quay cóp. x Khách quan khi chấm thi. x Áp dụng công nghệ hiện đại trong chấm thi và phân tích kết quả. x LÍ THUYẾT VỀ TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN Trắc nghiệm khách quan có thể chia làm 4 loại câu hỏi : loại câu hỏi ghép đôi, loại câu hỏi điền khuyết, loại câu hỏi đúng – sai và loại câu hỏi nhiều lựa chọn. Loại câu hỏi ghép đôi (matching item) Cấu trúc Câu hỏi ghép đôi bao gồm hai dãy thông tin gồm những từ, cụm từ, biểu thức…hay những câu. Dựa trên một hệ thức tiêu chuẩn đã định trước, học sinh sẽ ghép những từ, cụm từ, biểu thức hay những câu của dãy này với các phần tử tương ứng : từ, cụm từ, biểu thức… hay những câu của dãy kia. Số phần tử ở hai dãy có thể bằng nhau hoặc khác nhau và cũng có thể một phần tử trong một dãy (thường là dãy thứ hai bên phải) được dùng nhiều lần hoặc không dùng lần nào. Trường hợp mỗi phần tử cột bên phải chỉ được dùng một lần. Ví dụ : Ghép nội dung cột bên trái với nội dung tương ứng ở cột bên phải. 1. Đơn vị của lực : A. Trọng lực 2. Nguyên nhân làm cho vật thay đổi vận tốc : B. Hợp lực 3. Đại lượng đặc trưng cho mức quán tính của vật : C. Khối lượng 4. Lực hút của Trái Đất vào các vật : D. Niutơn 5. Đơn vị của khối lượng : E. Trọng lượng F. Kg G. Lực Trường hợp phần tử cột bên phải có thể dùng nhiều lần hoặc không dùng đến. Ví dụ : Ghép nội dung cột bên trái với nội dung tương ứng ở cột bên phải. 1. Mặt phẳng tới A. là đường phân giác của góc tạo bởi tia phản xạ và tia tới. 2. Góc phản xạ B. đối xứng với nhau qua pháp tuyến. 3. Đường thẳng vuông góc với mặt phản xạ tại điểm tới C. là pháp tuyến. 4. Trong định luật phản xạ có thể xem pháp tuyến D. chứa pháp tuyến và tia tới. 5. Tia phản xạ và tia tới E. được tạo bởi pháp tuyến và tia phản xạ. F. trục đối xứng. Ưu điểm Các câu hỏi ghép đôi dễ viết, dễ dùng, đặc biệt rất thích hợp khi cần thẩm định các mục tiêu ở mức nhận thức thấp. Yếu tố đoán mò giảm đi nhiều nhất là khi ghép những cột có ít nhất 8 đến 10 phần tử với nhau. Người ta thường dùng câu hỏi loại ghép đôi để đo các mức tư duy khác nhau. Loại ghép đôi được xem là hữu hiệu nhất trong việc đánh giá khả năng nhận biết các hệ thức hay xác lập những mối tương quan. Tuy nhiên, nếu được khéo léo soạn thảo loại này có thể như loại MCQ để trắc nghiệm những mức tư duy cao hơn. Nhược điểm Do muốn soạn câu hỏi để đo các mức thức cao hơn đòi hỏi nhiều công phu nên thông thường các giáo viên chỉ dùng loại câu hỏi ghép đôi để trắc nghiệm các kiến thức về ngày tháng, tên, định nghĩa, biến cố, công thức, dụng cụ hoặc để lập các hệ thức phân loại. Trắc nghiệm loại ghép đôi cũng không thích hợp cho việc thẩm định các khả năng như sắp đặt và áp dụng kiến thức, nguyên lí. Nếu danh sách mỗi cột quá dài, học sinh sẽ mất nhiều thời gian đọc tất cả cột mỗi lần muốn ghép đôi. Loại câu hỏi điền khuyết (supply item) hay có câu trả lời ngắn Cấu trúc Loại câu hỏi điền khuyết (supply item) hay có câu trả lời ngắn thực ra là một, nó chỉ khác nhau về hình thức trình bày. Nếu được trình bày dưới dạng câu hỏi, gọi là loại có câu trả lời ngắn (short answer test). Nếu được trình bày dưới dạng một câu phát biểu chưa đầu đủ, gọi là loại điền khuyết. Nói chung, đây là loại trắc nghiệm khác quan có câu trả lời tự do. Gần đây, các nhà nghiên cứu trắc nghiệm thường xen vào bài trắc nghiệm những câu hỏi thuộc loại điền khuyết hay câu trả lời ngắn nhằm khảo sát mức độ tư duy sáng tạo của học sinh. Như vậy, loại trắc nghiệm này không còn hoàn toàn khách quan nữa, vì có yếu tố chủ quan xen vào. Hình thức này được xem như là sự phối hợp trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận. Tuy nhiên, loại câu hỏi này đang được nghiên cứu và thử nghiệm nên vẫn chưa được áp dụng rộng rãi. Theo nguyên tắc, không nên sử dụng loại câu này trong bài trắc nghiệm khách quan, nhưng vì câu trả lời ngắn và cách cho điểm khách quan hơn so với trắc nghiệm tự luận nên có thể xem như câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Ví dụ : Hãy điền các cụm từ thích hợp vào chỗ trống trong các câu dưới đây : 1. Các điện tích có thể dịch chuyển…………… 2. Các điện tích không thể dịch chuyển qua ……………….. 3. Kim loại là chất dẫn diện vì trong đó có các ……………… có thể dịch chuyển có hướng. Có thể hạn chế phạm vi tự do câu trả lời bằng cách cung cấp một số từ hay cụm từ cho trước trong một bảng để học sinh chọn lựa. Ví dụ : Chọn những từ hoặc cụm từ thích hợp trong bảng dưới đây và điền vào các chỗ trống ở các câu sao cho đúng nghĩa : Điều hoà ; tự do ; tuần hoàn ; cưỡng bức Câu 1 : Dao động ………là chuyển động của một vật có li độ phụ thuộc vào thời gian theo dạng cosin. Câu 2 : Dao động ………… là dao động của một vật được duy trì với biên độ không đổi nhờ tác dụng của lực ngoài tuần hoàn. Câu 3 : Dao động ………… là dao động của một hệ chỉ chịu ảnh hưởng của nội lực. Câu 4 : Một vật khi dịch chuyển khỏi vị trí cân bằng một đoạn x, chịu tác dụng của lực F = - kx thì vật dao động ……………… Ưu điểm Học sinh có cơ hội trình bày những câu trả lời khác thường, phát huy óc sáng tạo. Phương pháp chấm điểm nhanh hơn và đáng tin cậy hơn so với loại tự luận, mặc dù cho điểm có phần rắc rối hơn so với các loại trắc nghiệm khác quan khác. Học sinh không thể đoán mò câu trả lời mà phải nhớ và nghĩ ra câu trả lời, thay vì chọn câu trả lời đúng trong số câu cho sẵn. Loại này dễ soạn hơn loại ghép đôi và loại câu nhiều lựa chọn. Loại trắc nghiệm điền khuyết thích hợp hơn so với loại luận đề khi dùng kiểm tra những điều đòi hỏi trí nhớ. Nhờ có câu trả lời ngắn nên số câu hỏi kiểm tra trong thời gian có hạn sẽ được nhiều hơn so với loại luận đề. Do đó, trắc nghiệm loại điền khuyết có độ tin cậy cao hơn và việc chấm điểm cũng khách quan hơn. Loại này rất thích hợp với những vấn đề như : tính toán, đánh giá mức hiểu biết các nguyên lí, định luật vật lí, giải thích dữ kiện, diễn đạt ý kiến và thái độ. Giúp học sinh rèn luyện trí nhớ khi học. Nhược điểm Giáo viên thường có khuynh hướng trích nguyên văn các câu từ sách giáo khoa. Giáo viên có thể hiểu sai, đánh giá thấp giá trị của các câu trả lời sáng tạo, khác ý giáo viên nhưng vẫn hợp lí, nhất là khi học sinh đọc thêm sách và tài liệu ngoài sách giáo khoa. Nhiều câu hỏi loại điền khuyết ngắn và gọn có khuynh hướng đề cập các vấn đề không quan trọng hoặc không liên quan nhau. Phạm vi kiểm soát thường chỉ giới hạn vào các chi tiết, các sự kiện vụn vặt. Các yếu tố như chữ viết, lỗi chính tả có thể ảnh hưởng đến việc đánh giá câu trả lời. Việc chấm bài mất nhiều thời gian hơn so với loại trắc nghiệm đúng – sai hoặc trắc nghiệm có nhiều câu trả lời sẵn để chọn. Khi có quá nhiều chỗ trống trong một câu hỏi, học sinh có thể rối trí. Kết quả điểm số thường có độ tương quan cao với mức thông minh hơn là kết quả học tập. Do đó, độ giá trị bài kiểm tra giảm vì thực ra câu hỏi đang đo lường mức độ thông minh nhiều hơn thành quả học tập. Loại câu hỏi này thiếu yếu tố khách quan lúc chấm điểm. Tuy khác quan hơn loại luận đề nhưng giáo viên vẫn gặp nhiều phiền phức hơn khi chấm vì giới hạn câu trả lời đúng rộng rãi hơn. Giáo viên có thể cho điểm một phần hay toàn phần cho một câu trả lời khác so với đáp án. Do vậy, các nhân viên phụ tá không thể chấm giúp và cũng không thể dùng phương pháp chấm bằng máy. Loại câu hỏi “Đúng - sai” Cấu trúc Loại này thường gồm một câu phát biểu để học sinh phải trả lời bằng cách lựa chọn Đúng hay Sai. Cũng có thể thay chữ “Đúng - Sai” bằng chữ “giống nhau – khác nhau”, “mạnh - yếu”, “lớn hơn - bằng nhau - nhỏ hơn”. Ví dụ : Các chất khí khác nhau nở vì nhiệt khác nhau. Đ S Nhiệt kế y tế có thể dùng để đo nhiệt độ của nước đá đang tan. Đ S Nhiệt không thể truyền từ vật nóng hơn sang vật lạnh hơn. Đ S Quá trình truyền nhiệt là một quá trình thuận nghịch. Đ S Ưu điểm Là loại câu hỏi đơn giản nhất để trắc nghiệm kiến thức về những sự kiện. Giúp cho việc trắc nghiệm một lĩnh vực rộng lớn trong một khoảng thời gian kiểm tra ngắn. Giáo viên có thể soạn nhiều câu trong khoảng thời gian ngắn. Loại câu hỏi trắc nghiệm “Đúng - Sai” có cấu trúc đơn giản hơn các loại câu hỏi khác cho nên viết tương đối đơn giản hơn, do đó ít phạm lỗi hơn về mặt kĩ thuật so với các loại câu hỏi trắc nghiệm khác. Nhược điểm Khuyến khích sự đoán mò, học sinh có may rủi 50% chọn đúng câu trả lời hoàn toàn bằng lối đoán mò. Khó dùng để thẩm định yếu điểm của học sinh. Có độ tin cậy thấp. Giáo viên thường có khuynh hướng trích nguyên văn các câu trong sách, do đó học sinh sẽ tập thói quen học thuộc lòng hơn là tìm hiểu và suy nghĩ. Việc phải quyết định chọn giữa đúng và sai có thể làm các học sinh khá giỏi khó chịu hay thất vọng, khi họ thấy phải có điều kiện rõ ràng mới quyết định xem câu phát biểu đúng hay sai, hoặc có thể có những trường hợp ngoại lệ chứ không phải chỉ có hoàn toàn đúng hoặc sai. Những câu phát biểu sai mà được trình bày như là đúng có thể khiến học sinh học những điều sai lầm một cách vô ý thức. Yêu cầu khi viết câu hỏi “Đúng - Sai” Nên dùng những chữ chính xác và thích hợp để câu hỏi đơn giản và rõ ràng. Câu hỏi chỉ nên mang một ý tưởng chủ yếu, tránh những câu phức tạp. Đề phòng những từ khẳng định như “luôn luôn”, “tất cả”, “không bao giờ”, “không thể được”, “chắc chắn” vì những câu có từ này thường có triển vọng sai. Ngược lại, những từ như “thường thường”, “đôi khi”, “ít khi” lại thường đi với những câu trả lời đúng. Nên cố gắng soạn câu hỏi để nội dung có nghĩa hoàn toàn đúng hoặc hoàn toàn sai. Những câu hỏi phải đúng văn phạm để học sinh nào cẩn thận không cho câu ấy sai chỉ vì cách diễn đạt không chính xác. Tránh dùng các câu ở thể phủ định, nhất là thể phủ định kép. Nên viết những câu yêu cầu học sinh phải vận dụng kiến thức đã học. Không nên trích nguyên văn câu hỏi từ sách giáo khoa, vì làm như vậy chỉ khuyến khích học thuộc lòng một cách máy móc. Nên diễn tả lại những điều đã học dưới dạng những câu mới nhưng vẫn diễn đạt được nội dung cần kiểm tra, đánh giá. Không nên dùng những từ định lượng hơn định tính để chỉ các số lượng. (các chữ lớn, nhỏ, nhiều, ít, giá, trẻ có thể có ý nghĩa khác nhau đối với các độc giả khác nhau). Tránh khuynh hướng dùng số câu đúng nhiều hơn số câu sai hay ngược lại trong bài kiểm tra. Số câu đúng và số câu sai nên gần bằng nhau. Tránh làm cho một câu trở nên sai chỉ vì một chi tiết vụn vặt hoặc một ý tưởng nhằm lừa học sinh. Đề phòng trường hợp mà câu trả lời đúng lại tuỳ thuộc vào một chữ, một từ hay một câu tầm thường vô nghĩa. Loại câu hỏi nhiều lựa chọn (multiple choise question - MCQ) Cấu trúc Cấu trúc của câu MCQ gồm có hai phần : phần đầu được gọi là phần dẫn và phần sau là phần lựa chọn. Phần dẫn (hay còn gọi là phần gốc) dùng để nêu ra vấn đề, cung cấp thông tin cần thiết hoặc nêu lên một câu hỏi. Phần lựa chọn có 4 hoặc 5 phương án để chọn, thường được đánh bằng các chữ cái A, B, C, D… hoặc các con số 1, 2, 3, 4… Trong các phương án để chọn chỉ có một phương án đúng hoặc một phương án đúng nhất, các phương án khác đưa vào có tác dụng “gây nhiễu” (distactor) hay câu mồi. Các câu mồi (nhiễu) phải là những câu sai nhưng trông có vẻ đúng, có vẻ hợp lí, thu hút sự lựa chọn của học sinh có năng lực kém, còn đối với học sinh khá, giỏi thì nó chỉ có tác dụng như là câu nhiễu mà thôi. Điều quan trọng là làm sao các câu mồi ấy đều hấp dẫn ngang nhau đối với học sinh kém. Phần dẫn có khi là một câu hỏi. Ví dụ : Kết luận nào sau đây là đúng ? Khi xe đang chạy, lực ma sát giữa vành xe và bụi bám vào vành xe là ma sát lăn. Khi đi bộ, lực ma sát giữa chân người và mặt đất là ma sát nghỉ. Lực ma sát giữa xích (sên) và đĩa xe đạp khi xe đang chạy là mát lăn. Lực ma sát giữa trục và bi khi bánh xe đang quay là ma sát trượt. Phần dẫn có khi là một mệnh đề được dùng làm dữ kiện cho nhiều câu. Ví dụ : Cho mạch điện như hình vẽ. Biết R = R0 = 100W = ZL , ZC = 300W , UAB = 200sin100pt (V). Các dữ kiện trên được dùng cho các câu 1, câu 2, câu 3. Câu 1. Tổng trở của mạch điện là R0 R, L C A B 0 W 1003 W 200 W 2002 W Câu 2. Hiệu điện thế tức thời giữa hai đầu tụ là uC = 1502 sin (100pt - 3p/4) V uC = 1502 sin (100pt - p/2) V uC = 1502 sin (100pt - p/4) V uC = 300 sin (100pt - p/4) V Câu 3. Hiệu điện thế hiệu dụng giữa hai đầu cuộn cảm là 50 V 502 V 100 V 1002 V Phần dẫn có khi là một câu chưa đầy đủ còn có chỗ để trống. Ví dụ : Chọn các cụm từ thích hợp điền vào chỗ trống theo thứ tự. Lực là đại lượng đặc trưng cho tác dụng của vật này lên vật khác, kết quả là …(1)… hoặc làm cho vật … (2)… truyền gia tốc cho vật ; biến dạng. làm vật biến dạng ; thu gia tốc. làm vật chuyển động ; biến dạng. làm cho vật chuyển động ; thu gia tốc. Ưu điểm Với nhiều câu và nhiều phương án trả lời cho mỗi câu, có thể kiểm tra, đánh giá được nhiều mục tiêu dạy học cụ thể về kiến thức và kĩ năng của môn vật lí. + Đánh giá sự hiểu biết của các khái niệm, định luật vật lí… + Xác định mối liên hệ nhân quả của các hiện tượng vật lí. + Xác định thứ tự của các tính chất của nhiều hiện tượng vật lí. + Nhận biết điểm tương đồng hay dị biệt giữa hai hay nhiều hiện tượng vật lí, thiết bị thí nghiệm vật lí hay dụng cụ đo lường… + Đánh giá khả năng hiểu biết những nguyên tắc cơ bản của những ứng dụng quan trọng của vật lí trong đời sống và sản xuất. + Đánh giá kĩ năng vận dụng kiến thức để giải thích hiện tượng vật lí và giải bài tập vật lí. + Đánh giá kĩ năng sử dụng dụng cụ đo lường … + Đánh giá các kĩ năng lắp đặt các thí nghiệm đơn giản. + Đánh giá khả năng xử lí các số liệu thí nghiệm. Độ tin cậy cao. Yếu tố đoán mò may rủi của học sinh giảm nhiều so với các loại trắc nghiệm khách quan khác, vì số phương án chọn trong trắc nghiệm MCQ là từ 4 đến 5. điều này được giải thích vì sao loại này được sử dụng phổ biến hơn loại “Đúng - Sai”. Độ giá trị cao. Với một đề trắc nghiệm gồm nhiều câu, có thể đánh giá học sinh theo nhiều mức độ khác nhau. Thang phân loại hiện nay được nhiều người sử dụng, đó là phân loại của Bloom gồm 6 mức độ : biết, hiểu, áp dụng, phân tích, tổng hợp và đánh giá. Có thể phân tích được tính chất mỗi câu hỏi, xác định được những câu dễ, câu khó, câu không có giá trị với mục tiêu cần đánh giá. Đối với hình thức trắc nghiệm tự luận, quan sát hoặc vấn đáp thì khó sử dụng các phương pháp phân tích để xác định tính chất của mỗi câu hỏi. Kết quả của bài thi trắc nghiệm khách quan không phụ thuộc vào chủ quan người chấm. Học sinh phải xét đoán và phân biệt càng kĩ khi trả lời, do đó kích thích sự phát triển tư duy của học sinh khi lực chọn câu trả lời hợp lí nhất và đúng nhất trong số các câu trả lời cho trước. c. Nhược điểm Khó soạn câu hỏi hay và đúng chuẩn. Học sinh có thể không thoả mãn hay cảm thấy khó chịu khi tìm ra những câu trả lời hay phương án đã cho trong phần chọn. Không đánh giá được khả năng tổ chức tư duy, cách trình bày suy nghĩ và khả năng giải quyết vấn đề khéo léo một cách hiệu nghiệm bằng câu hỏi trắc nghiệm loại tự luận được soạn kĩ. Khó đánh giá được kĩ năng chuyên biệt của môn Vật lí như kĩ năng lắp ráp và thực hiện các thí nghiệm, kĩ năng xác định sai số và trình bày kết quả thu được cùng với kĩ năng sử dụng các thuật ngữ vật lí. KĨ THUẬT VIẾT CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN NHIỀU LỰA CHỌN (MCQ) Kĩ thuật viết phần dẫn - Câu lệnh ở phần dẫn cần phải thống nhất trong toàn bài trắc nghiệm : khoanh tròn, gạch chân, đánh dấu X, … - Phần dẫn (phần đầu) phải diễn đạt rõ ràng một vấn đề, không nên đưa quá nhiều ý vào câu dẫn. Ví dụ : Trong cách làm tăng, giảm áp lực sau đây cách nào là không đúng ? Muốn tăng áp suất thì tăng áp lực, giảm diện tích bị ép. Muốn giảm áp suất thì giảm áp lực, tăng diện tích ép. Muốn tăng áp suất thì giảm áp lực, giữ nguyên diện tích bị ép. Muốn giảm áp suất thì giữ nguyên áp lực, tăng diện tích bị ép. Trong ví dụ này phần dẫn đề cập đến hai vấn đề : tăng và giảm áp lực. Nêm bỏ bớt và chỉ đề cập đến một vấn đề : tăng hoặc giảm áp lực mà thôi. - Phần dẫn phải hàm chứa vấn đề muốn hỏi và phải trình bày vấn đề đó một cách rõ ràng, tường minh, để học sinh có thể hiểu rõ đang muốn hỏi về điều gì ngay sau khi học sinh đọc xong phần dẫn và trước khi đọc phần trả lời. Ví dụ : Trong phóng xạ α : hạt nhân con lùi một ô. hạt nhân con tiến một ô. hạt nhân con lùi hai ô. hạt nhân con tiến hai ô. Với câu dẫn quá ngắn như trong ví dụ trên học sinh sẽ không biết giáo viên muốn hỏi điều gì khi đọc xong phần dẫn “trong phóng xạ α”. Trong câu trắc nghiệm này phần dẫn không chứa vấn đề định hỏi, thiếu chủ đề chính yếu cần thiết hay thiếu tính thống nhất. Một câu dẫn quá ngắn không mang đầy đủ ý nghĩa thì ngược lại một câu dẫn quá dài đôi khi cũng trở thành một câu tối nghĩa. Ví dụ trên có thể sửa lại thành : Trong phóng xạ α, so với hạt nhân mẹ thì hạt nhân con trong bảng hệ thống tuần hoàn có vị trí : lùi một ô. tiến một ô. lùi hai ô. tiến hai ô. - Nên tránh dùng những câu có vẻ như câu hỏi loại “Đúng - Sai” được sắp chung một chỗ. Ví dụ : Đối với dòng điện trong môi trường : Tia lửa điện dễ xảy ra khi điện cực là mũi nhọn. Dòng điện trong chân không chỉ có thể là dòng electron. Điện trở suất của kim loại tăng khi nhiệt độ tăng vì khi ấy mật độ electron tự do giảm. Ở nhiệt độ thấp, điện trở suất của các vật liệu rắn là nhỏ. - Có thể hạn chế phạm vi vấn đề cần hỏi trong phần dẫn bằng các cụm từ : Khi nói về hiện tượng… ; Khi nói về … ; Khi so sánh … ; Sắp xếp theo thứ tự. Ví dụ : Câu 1. Khi nói về bản chất của tia catốt (tia âm cực), phát biểu nào sau đây là đúng ? Tia catốt là dòng ion âm phát ra từ catốt. Tia catốt là dòng ion dương phát ra từ catốt. Tia catốt là dòng electron phát ra từ catốt. Tia catốt là dòng electron và ion âm phát ra từ catốt. Câu 2. Sắp xếp theo thứ tự giảm dần của hệ số nở dài của nhôm, đồng, sắt ? Nhôm, đồng, sắt. Sắt, đồng, nhôm. Đồng, sắt, nhôm. Sắt, nhôm, đồng. Câu 3. Khi so sánh mắt với máy ảnh, kết luận nào sau đây là sai ? Thuỷ tinh thể có vai trò như vật kính. Giác mạc có vai trò như phim. Ảnh thu được có tính chất giống nhau. Con ngươi có vai trò như màn chắn có lỗ nhỏ. - Nói chung tránh các câu dẫn mang tính phủ định. Tuy nhiên, nếu câu dẫn phủ định có vẻ tốt hơn thì phải nhấn mạnh từ không bằng gạch dưới hoặc in đậm chữ “không” Ví dụ : Âm không thể truyền trong môi trường nào dưới đây ? khoảng chân không. tường bê tông. nước biển. tầng khí quyển bao quanh quả đất. - Phần dẫn có thể trình bày dưới dạng một câu hỏi hay câu bỏ lửng. Trong trường hợp cả hai đều thích hợp cho một nội dung và mục tiêu cần kiểm tra, đánh giá thì nên lựa chọn dạng nào tiết kiệm ngôn ngữ và thời gian hơn. Chẳng hạn : + Phần dẫn dưới dạng câu hỏi. Ví dụ : Khi tăng chiều dài và tiết diện của một dây điện trở lên hai lần thì điện trở R của dây sẽ thay đổi như thế nào ? Không thay đổi. Tăng 2 lần. Giảm 2 lần. Tăng 4 lần. + Phần dẫn dưới dạng câu bỏ lửng. Ví dụ : Nếu tăng chiều dài và tiết diện của một dây điện trở lên 2 lần thì điện trở R của dây sẽ là R. 2R. R/2. 4R. Trong ví dụ này, thường chọn phương án hai : cách viết phần dẫn dưới dạng bỏ lửng. - Trong phần dẫn nên bỏ bớt các chi tiết khôn cần thiết. Nếu mục đích câu hỏi không phải để trắc nghiệm khả năng nhận biết ý tưởng, sự kiện chính trong một đoạn văn thì cần loại bỏ những từ, cụm từ không cần thiết mà vẫn diễn đạt được trọn vẹn vấn đề cần hỏi. Ví dụ : Thí sinh hãy khảo sát một đinh bù long. Thử xem nguyên lí tạo nên đinh bù long cho ta một ví dụ về một loại máy đơn giản. Nếu thí sinh hiểu vấn đề, câu kết luận sẽ là : Đinh bù long biểu thị nguyên tắc đòn bầy. Đinh bù long biểu thị nguyên tắc bánh xe và trục. Đinh bù long biểu thị nguyên tắc cái nêm. Đinh bù long biểu thị nguyên tắc mặt phẳng nghiêng. Có thể viết lại : Đinh bù long biểu thị nguyên tắc nào sau đây ? Đòn bẩy. Trục và bánh xe. Cái nêm. Mặt phẳng nghiêng. - Phải bảo đảm câu dẫn và bất kì câu trả lời (phương án chọn) nào khi ghép với nhau phải là một câu đúng ngữ pháp. Ví dụ 1 : Phát biểu nào sau đây là đúng khi nói về bản chất của tia catốt ? tia catốt là chùm ion âm phát ra từ catốt bị nung nóng đỏ tia catốt là chùm ion dương phát ra từ anốt tia catốt là chùm electron phát ra từ catốt bị nung nóng đỏ tia catốt là chùm tia sáng phát ra từ catốt bị nung nóng đỏ Trong ví dụ 1 các phương án chọn đều không phải là một câu đúng ngữ pháp : đầu câu không viết hoa và cuối mỗi câu thiếu dấu chấm câu. Ví dụ 1 có thể viết lại như sau : Phát biểu nào sau đây là đúng khi nói về bản chất của tia catốt ? Tia catốt là chùm ion âm phát ra từ

File đính kèm:

  • docTieu luan Kiem tra danh gia.doc