Trong hệ thống giáo dục có một bậc học được coi là nền móng đó là bậc tiểu học. Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển nhân cách của con người, đặt nền móng vững chắc cho giá dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Để đạt được mục tiêu trên, nhà trường tiểu học đã duy trì dạy học toán, việc giúp các em học tốt môn học, học có phương pháp là mục tiêu hàng đầu được đặt ra trong mọi tiết học.
Xuất phát từ mục đích, yêu cầu của chương trình toán lớp 4. Từ những hạn chế tâm lý lứa tuổi. Từ tình hình nhận thực học sinh trong lớp, tôi luôn trăn trở tìm cách cải tiến phương pháp dạy bộ môn Toán.
Đối với nhận thức của học sinh tiểu học nói chung, của lớp tôi nói riêng, các em đa số giải toán có lời văn yếu do nhiều nguyên nhân, trong đó vẫn là: Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi, các em thường vội vàng hấp tấp, đơn giản hoá vấn đề, đôi khi chưa hiểu rõ đề bài đã làm dẫn đến kết quả nhiều lúc bị sai, thiếu hoặc đúng nhưng chưa đầy đủ.
14 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 2602 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Kinh nghiệm dạy học giải toán có lời văn phù hợp với các nhóm đối tượng học sinh lớp 4 nhằm tích cực hoá các hoạt động của người học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo kinh nghiệm
dạy học giải toán có lời văn phù hợp với các nhóm đối tượng học sinh lớp 4 nhằm tích cực hoá các hoạt động của người học
Tác giả: Phạm Thị Thu
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm
Nơi công tác: Trường tiểu học A Thọ Nghiệp.
Đơn vị áp dụng sáng kiến: Lớp 4A- Trường tiểu học A Thọ Nghiệp.
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
Trong hệ thống giáo dục có một bậc học được coi là nền móng đó là bậc tiểu học. Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển nhân cách của con người, đặt nền móng vững chắc cho giá dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Để đạt được mục tiêu trên, nhà trường tiểu học đã duy trì dạy học toán, việc giúp các em học tốt môn học, học có phương pháp là mục tiêu hàng đầu được đặt ra trong mọi tiết học.
Xuất phát từ mục đích, yêu cầu của chương trình toán lớp 4. Từ những hạn chế tâm lý lứa tuổi. Từ tình hình nhận thực học sinh trong lớp, tôi luôn trăn trở tìm cách cải tiến phương pháp dạy bộ môn Toán.
Đối với nhận thức của học sinh tiểu học nói chung, của lớp tôi nói riêng, các em đa số giải toán có lời văn yếu do nhiều nguyên nhân, trong đó vẫn là: Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi, các em thường vội vàng hấp tấp, đơn giản hoá vấn đề, đôi khi chưa hiểu rõ đề bài đã làm dẫn đến kết quả nhiều lúc bị sai, thiếu hoặc đúng nhưng chưa đầy đủ.
Bên cạnh đó, cũng còn một nguyên nhân quan trọng nữa là tâm lý lứa tuổi. Các em thích giống bài của bạn, không tin tưởng vào bài của chính mình nên dẫn đến những sai sót giống nhau. Thậm chí có khi làm bài đúng rồi nhưng lại bỏ đi, chụp lại sao cho giống của bạn. Đây là do các em thiếu cơ sở lý luận, không tin tưởng vào mình.
Trong những năm dạy học ở trường tiểu học, có một vấn đề khiến tôi phải trăn trở băn khoăn và suy nghĩ rất nhiều đó là làm thế nào khắc phục được tình trạng học sinh trong cùng một lớp với trình độ nhận thức không đồng đều. Cùng một vấn đề do giáo viên đưa ra, có em nắm bắt rất nhanh, say sưa hứng thú bắt tay ngay vào việc tìm hiểu và giải quyết vấn đề nhưng cũng có em thì ngồi đó với tâm trạng hờ hững do không nắm được bản chất của vấn đề, sinh ra chán nản, hiệu quả giảm sút rất nhiều. Một số em rất hay hấp tấp vội vàng, chưa nghiên cứu, đọc kĩ đề bài đã vội đưa ra lời giải hoặc thích làm giống bạn vì sợ mình làm sai nên dẫn tới việc nhiều bài làm sai giống nhau. Đó là một thực tế mà người giáo viên đứng lớp ai cũng gặp phải, nhất là trong quá trình dạy giải toán có lời văn. Chính vì vậy mà tôi đã đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu để giải quyết vấn đề này nhằm nâng cao chất lượng giáo dục giúp các em say sưa hơn với việc học tập của mình.
II. Các giải pháp thực hiện:
1. Khảo sát chất lượng học sinh:
Muốn học sinh giải toán có lời văn tốt trước hết người giáo viên phải tìm hiểu rõ tình trạng của học sinh mình như thế nào. Học sinh yếu ở những mặt nào, mức độ yếu của học sinh ra sao?
Do đó, ngay đầu năm học tôi tiến hành điều tra, khảo sát, đàm thoại với các em. Tôi đã nhận thấy ngoài một số các em làm bài tốt các em còn một số tồn tại và nguyên nhân như sau: Kỹ năng giải toán có lời văn của các em còn chưa thành thạo, một số em giải toán nhưng không hiểu rõ bản chất của bài nên dẫn tới những sai sót rất đáng tiếc: Sai lời giải bài toán làm sai phép tính nên dẫn tới kết quả, đáp số sai. Một số học sinh không kiểm tra lại bài dẫn đến lời giải phép tính đúng nhưng kết quả sai.
Sau đây là kết quả khảo sát 34 học sinh trong lớp tôi chủ nhiệm về giải toán có lời văn:
Điểm
Dưới 5
Từ 5 đến dưới 7
Từ 7 đến dưới 9
Từ 9 trở lên
Số lượng
8
15
10
1
Tỷ lệ%
23.53
44.11
29.42
2.94
2. Từ cơ sở trờn, tụi cú phương hướng giải quyết vấn đề: Giỳp học sinh hỡnh thành kỹ năng, kỹ xảo, nắm được phương phỏp chung “giải toỏn cú lời văn” như sau:
- Bước 1: Thường xuyờn cho học sinh đọc đề bài nhiều lần trước khi làm bài, từ đú cỏc em hỡnh thành thúi quen đọc kỹ bài trước khi giải. Trong quỏ trỡnh giải, chữa bài tập toỏn ở nhà, vở bài tập in, khi giải toỏn đố, tụi thường xuyờn cho học sinh túm tắt. Trước khi túm tắt thường hướng dẫn cho cỏc em cú cỏch túm tắt bài bằng hệ thống cỏc cõu hỏi gợi mở, giỳp học sinh nhận biết dạng toỏn điển hỡnh. Vớ dụ: toỏn hợp giải bằng hai phộp tớnh nhõn, chia, cú liờn quan đến rut về đơn vị v.v… Từ đú học sinh cú hướng túm tắt bài toỏn cho đỳng với yờu cầu của từng loại bài.
- Bước 2: Phõn tớch bài toỏn. Giỏo viờn đưa ra hệ thống cõu hỏi phự hợp gợi mở cho học sinh đi ngược từ cõu hỏi của bài toỏn trở lại điều kiện của đầu bài đó cho.
- Bước 3: Giải bài toỏn. Từ ba bước trờn, giỳp học sinh hiểu kỹ đầu bài, từ đú học sinh định hướng, tư duy và tỡm ra cỏch giải bài toỏn đú.
- Bước 4: Thử lại kết quả. Sau khi giải xong, cho cỏc em thử lại kết quả. Bước này giỳp học sinh cú cơ sở lý luận, tin tưởng vào cỏch làm bài của mỡnh.
Đối với HS yếu tôi làm kỹ 2 bước đầu để HS hiểu rõ bản chất của đề bài, có như vậy các em mới làm tốt được bài toán đã cho. Đối với học sinh tiểu học, việc luyện tập thường xuyên các kiến thức toán học sẽ tạo cho học sinh các kĩ năng giải toán có ý thức. Sẽ rất có hiệu quả nếu ta tạo cho học sinh các kĩ năng giải toán một cách có ý thức. Muốn vậy ta cần phải giảng dạy cho học sinh hiểu thật kỹ lưỡng về các loại toán. Cần phải lật đi, lật lại các vấn đề nhằm tránh cho học sinh lối tư duy một chiều, suy luận máy móc trong khi giải toán.
Đối với học sinh khá giỏi nếu chúng ta chỉ dừng ở 4 bước trên thì mới chỉ giúp học sinh tìm được lời giải và đáp số của từng bài tập cụ thể mà chưa hề rèn luyện trí thông minh và óc sáng tạo cho học sinh. Do đó sau khi học sinh luyện thành thạo 4 bước chúng ta cần tạo cho học sinh có thói quen làm tiếp một bước nữa đó là khai thác và phát triển bài toán: Đây chính là bước rèn luyện trí thông minh và óc sáng tạo của học sinh, bởi vậy sau khi học sinh giải xong bài toán và thử lại đúng kết quả giáo viên nên hướng dẫn học sinh có cách giải khác không và từ bài toán này có thể đặt ra các bài toán khác như thế nào và cách giải chúng ra sao. Việc đi sâu vào tìm hiểu nhiều cách giải khác nhau có vai trò rất lớn trong việc rèn kĩ năng, củng cố kiến thức, phát triển trí thông minh và óc sáng tạo cho học sinh. Trong khi cố gắng tìm ra các cách giải khác nhau học sinh hiểu sâu hơn về mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Học sinh sẽ lựa chọn được cách giải hay hơn và tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm để giải toán. Biết tự đặt thêm bài toán mới là một biện pháp giúp học sinh nắm vững mối quan hệ giữa các đại lượng và những quan hệ bản chất trong mỗi bài toán. Từ đó mà học sinh hiểu bài hơn rất nhiều.
Để hỡnh thành cho học sinh cú kỹ năng, kỹ xảo “giải toỏn cú lời văn” theo năm buớc trờn, đũi hỏi người giỏo viờn phải thực hiện thường xuyờn, liờn tục.
3.Trong chương trình môn Toán lớp 4 có rất nhiều dạng toán có lời văn, điển hình như:
- Bài toán về tìm số trung bình cộng của nhiều số
- Bài toán về tìm hai số khi biết tổng- hiệu, tổng- tỉ, hiệu- tỉ của hai số.
- Chu vi và diện tích hình vuông, hình chữ nhật.
- Diện tích hình bình hành, hình thoi.
Sau đây là một số ví dụ cụ thể ở một số dạng bài:
a. Dạng toán “tìm số trung bình cộng”
Bài toán
Một tổ sản xuất ngày đầu làm được 50 sản phẩm, ngày thứ hai làm được 60 sản phẩm, ngày thứ ba làm được 70 sản phẩm. Hỏi trung bình mỗi ngày tổ đó làm được bao nhiêu sản phẩm.
Giáo viên hướng dẫn giải
Bước 1
Đọc kỹ đề và tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
50 SP
60 SP
70 SP
SP làm trong 3 ngày
TB một ngày? SP
Bước 2
Nhìn trên sơ đồ để tìm quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết.
Tìm tổng số sản phẩm của ba ngày.
Tìm số trung bình cộng của ba số.
Bước 3
Giải
Số sản phẩm làm được trong ba ngày là:
50 + 60 + 70 = 180 (SP)
Trung bình mỗi ngày làm được số sản phẩm là:
180 : 3 = 60 (SP)
Đáp số : 60 SP.
Bước 4
Kiểm tra kết quả:
60 x 3 = 50 + 60 + 70 = 180
Bước 5:Dành cho HS khá giỏi.
Có thể cho HS giải bài toán ngược lại: Một tổ sản xuất, trung bình cả 3 ngày làm được 60 sản phẩm. Ngày thứ nhất làm được 50 sản phẩm, ngày thứ hai làm được 60 sản phẩm . Hỏi ngày thứ ba làm được bao nhiêu sản phẩm?
Chú ý:
Nếu học sinh yếu không phân tích được sơ đồ để giải như trên thì giáo viên có thể giúp các em lập kế hoạch giải:
Giáo viên
- Hỏi: Bài toán cho biết gì?
- Hỏi: Bài toán bắt tìm gì?
- Hỏi: Muốn tìm TBC của nhiều số ta phải làm gì?
- Hỏi: Muốn tìm TB mỗi ngày làm được bao nhiêu sản phẩm ta phải làm gì?
- Hướng dẫn đặt lời giải
Học sinh
- Ngày đầu làm: 50 SP
Ngày thứ hai làm: 60 SP
Ngày thứ ba làm: 70 SP
- Trung bình mỗi ngày làm được bao nhiêu SP?
- Lấy tổng các số hạng chia cho các số hạng.
- Lấy tổng số sản phẩm làm trong 3 ngày chia cho 3.
b. Dạng tìm hai số khi biết tổng và hiệu hai số đó
Bài toán
Tìm hai số khi biết tổng hai số bằng 456 và hiệu hai số là 24.
Giáo viên hướng dẫn giải
Bước 1
?
?
24
456
Đọc kỹ bài toán và tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
Số lớn:
Số bé:
Bước 2
Nhìn trên sơ đồ để tìm quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết.
+ Tìm hai lần số lớn (hoặc hai lần số bé).
+ Tìm số lớn, số bé.
Bước 3
Số bé là: (456 – 24) : 2 = 216.
Số lớn là: 216 + 24 = 240.
Bước 4
Kiểm tra
216 + 240 = 456
240 -216 = 24
Bước 5: (Dành cho HS khá giỏi) Có thể yêu cầu HS làm theo cách khác: Tìm số lớn trước.
Chú ý:
Nếu học sinh yếu giáo viên có thể giúp các em lập kế hoạch giải như sau:
Giáo viên
- Hỏi: Bài toán cho biết gì?
- Bài toán hỏi gì?
- Muốn tìm được số bé ta phải làm gì?
- Muốn tìm được số bé ta phải làm gì? Bằng cách nào?
-Muốn tìm được số lớn ta phải làm gì?
Học sinh
- Tổng hai số là: 456
Hiệu hai số là: 24
Tìm số lớn và số bé.
- Tìm hai lần số bé: Tổng – Hiệu
- Số bé = (Tổng – Hiệu)
- Số lớn = Số bé + Hiệu
= Tổng – Số bé
Lập kế hoạch giải tương tự với cách giải số 2.
Sai lầm học sinh có thể mắc phải:
Học sinh không biết tóm tắt đề toán bằng sơ đồ hoặc đoạn thẳng.
Học sinh sai lầm trong cách tính. Ví dụ: Không tìm hai lần số bé mà lấy thẳng tổng chia 2 để tìm số bé rồi lại lấy số bé cộng hiệu ra số lớn.
Cách khắc phục:
Phải đọc kỹ đề tóm tắt bài và xác định rõ dạng toán.
Hướng dẫn học sinh lập kế hoạch giải theo qui tắc:
+ Số bé = (Tổng – Hiệu)
+ Số lớn = Số bé + Hiệu
c. Dạng tìm hai số khi biết tổng và tỷ số
Bài toán
Lớp 1A có 35 học sinh, trong số đó số học sinh nữ bằng 3/4 số học sinh nam. Hỏi lớp 1A có bao nhiêu học sinh nứ và học sinh nam.
Giáo viên hướng dẫn cách giải:
Bước 1:
35 học sinh
Đọc kỹ đầu bài và tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
Học sinh nữ:
Học sinh nam:
Bước 2
Nhìn sơ đồ để tìm mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết.
Tìm phần tương ứng với 35 học sinh.
Tìm số học sinh nam và số học sinh nữ.
Bước 3
Giải
Tổng số phần bằng nhau là:
3 + 4 = 7 phần
Giá trị một phần là:
35 : 7 = 5 (H/S)
Số học sinh nam là:
5 x 4 = 20 (H/S)
Số học sinh nữ là:
35 – 20 = 15 (H/S)
Đáp án 20 học sinh nam và 15 học sinh nữ.
Bước 4
Kiểm tra
14 + 20 = 35
15 : 20 = 3/4
Chú ý:
Nếu học sinh không giải được như trên giáo viên có thể giúp các em lập kế hoạch giải như sau:
Giáo viên
- Bài toán cho biết gì?
- Bài toán yêu cầu gì?
- Muốn biết được số học sinh nam và số học sinh nữ ta phải biết được giá trị mấy phần trước?
- Muốn tìm giá trị một phần ta làm thế nào?
- Làm thế nào để tìm số học sinh nữ?
- Làm thế nào để tìm số học sinh nam?
Học sinh
- Cho biết tổng số học sinh là 35.
Tỷ số giữa học sinh nữ và nam là 3/4
- Số học sinh nam và học sinh nữ.
- Giá trị một phần.
- Lấy tổng số học sinh chia cho số phần đoạn thẳng.
- Lấy giá trị một phần nhân với số phần học sinh nữ.
- Lấy giá trị một phần nhân với số phần học sinh nam.
Sai lầm học sinh có thể mắc phải:
Không biểu diễn được sơ đồ đoạn thẳng.
Không tìm được tổng số phần bằng nhau.
Khi tìm số lớn và số bé không nhân với số phần.
Cách khắc phục:
Yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài.
Tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng.
Dựa vào sơ đồ đoạn thẳng để phân tích bài toán.
Nhớ các bước khi giải bài toán “Tìm hai số khi biết tổng và tỷ số”:
+ Đọc đề và tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
+ Tìm tổng số phần đoạn thẳng bằng nhau.
+ Tìm giá trị ứng với một phần đoạn thẳng.
+ Tìm số lớn và số bé.
d. Dạng toán “Tìm hai số khi biết hiệu và tỷ số”
Bài toán
Mẹ hơn con 28 tuổi. Tìm tuổi mỗi người biết tuổi mẹ gấp năm lần tuổi con.
Giáo viên hướng dẫn giải:
Bước 1:
Đọc kỹ đầu bài và tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
?
?
28 tuổi
Tuổi mẹ:
Tuổi con:
Bước 2:
Tìm mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết dựa vào sơ đồ đoạn thẳng.
Tìm số phần tương ứng với 28 tuổi.
Tìm giá trị một phần (hay tuổi con)
Tìm tuổi mẹ.
Bước 3:
Hiệu số phần bằng nhau là:
5 – 1 = 4 (phần)
Tuổi con là:
28 : 4 = 7 (tuổi)
Tuổi mẹ là:
28 + 7 = 35 (tuổi)
Đáp số mẹ 35 tuổi, con 7 tuổi.
Bước 4:
Kiểm tra:
35 – 7 = 28 (tuổi)
35 : 5 = 7 (tuổi)
Bước 5: (dành cho HS khá giỏi):Cho HS phát triển bài toán
VD: Mẹ hơn con 28 tuổi. Tìm tuổi mỗi người biết 3 năm trước đây tuổi mẹ gấp năm lần tuổi con.
Chú ý:
Nếu học sinh yêú không giải được như trên giáo viên có thể giúp các em lập kế hoạch giải như sau:
Giáo viên
- Bài toán cho biết gì?
- Bài toán yêu cầu tìm gì?
- Tìm được tuổi ai trước? Bằng cách nào?
- Muốn tìm tuổi mẹ ta làm thế nào?
Học sinh
- Hiệu của tuổi mẹ và tuổi con là 28. Tỷ số giữa tuổi mẹ và con là 5.
Tìm tuổi mẹ, tuổi con
Tuổi con. Bằng cách lấy 28 chia cho hiệu số phần bằng nhau.
- Lấy số tuổi con nhân với 5 hoặc lấy tuổi con cộng với hiệu.
Sai lầm học sinh có thể mắc phải:
Không biểu thị được bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng. Dẫn đến không tìm được hiệu số phần bằng nhau tương ứng với bao nhiêu.
Lời giải còn lủng củng.
Hay nhầm lẫn giữa tổng số phần và hiệu số phần.
Cách khắc phục:
Hướng dẫn học sinh đọc đề và phân tích để xác định được dữ kiện và điều kiện bài toán.
Phân biệt hai dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng và tỷ số” và “Tìm hai số khi biết hiệu và tỷ số”.
Nắm chắc các bước khi giải dạng toán “Tìm hai số khi biết hiệu và tỷ số của hai số đó:
+ Tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng.
+ Tìm hiệu số phần đoạn thẳng bằng nhau.
+ Tìm giá trị ứng với một phần đoạn thẳng.
+ Tìm số lớn, số bé.
e, Bài toỏn về hỡnh học (hỡnh chữ nhật, hỡnh vuụng), học sinh phải nhớ được cụng thức tớnh chu vi và diện tớch mỗi hỡnh. Cỏc số đo (chiều dài, chiều rộng hỡnh chữ nhật) Phải cựng một đơn vị đo. Tờn đơn vị phải viết chớnh xỏc.
III. Kết quả
Với sự chỉ đạo của nhà trường, sự cố gắng của bản thân, sau khi thực hiện các giải pháp như trên, sau 8 tuần đầu của năm học lớp của tôi có được kết quả đáng khích lệ. Tôi thấy áp dụng phương pháp này phù hợp với mục tiêu của giáo dục tiểu học, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh. Mọi học sinh đều ngoan, tự tin. Chất lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Trong quá trình học toán học sinh đã chiếm lĩnh được kiến thức rất tốt. Sự tiến bộ của học sinh được thể hiện qua điểm số. Cha mẹ học sinh yên tâm hơn, tin tưởng vào chương trình thay sách, kiến thức không quá khó với học sinh. Phần đông phụ huynh tích cực ủng hộ việc dạy học của nhà trường, của lớp.
Sau đây là bảng đối chiếu so sánh:
Thời gian
Điểm dưới trung bình
Điểm trung bình
Điểm khá
Điểm giỏi
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Đầu năm
8
23.53
15
44.11
10
29.42
1
2.94
8 tuần kỳ 1
0
0
9
26.47
16
47.06
9
26.47
Trờn đõy mới chỉ là kết quả khiờm tốn nhưng cũng đủ để chứng minh được rằng: Khi học sinh đó cú một số vốn kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo mụn toỏn, nắm được phương phỏp giải cỏc bài toỏn cú lời văn, kết quả học tập của cỏc em sẽ được nõng lờn.
IV.Bài học kinh nghiệm
Thụng qua việc thực hiện, giải quyết vấn đề đó được nờu trờn, tụi đó rỳt ra được một số bài học kinh nghiệm cho bản thõn trong quỏ trỡnh giảng dạy toỏn cú lời văn cho học sinh .
ã Luụn động viờn, khuyến khớch học sinh đào sõu suy nghĩ. Phỏt huy trớ lực của học sinh. Khụng trỏch phạt, phờ bỡnh khi cỏc em làm bài sai dẫn đến việc cỏc em sẽ mất bỡnh tĩnh, rối trớ trong quỏ trỡnh giải toỏn.
ã Sử dụng triệt để những đồ dựng dạy học khi dạy toỏn để lụi cuốn, gõy hứng thỳ cho học sinh đối với mụn học được coi là khụ khan nhất này.
ã Thường xuyờn kiểm tra việc nắm cỏc bước giải toỏn cú lời văn của học sinh để củng cố khắc sõu cho cỏc em kiến thức ở cỏc giờ luyện tập, thi giải toỏn nhanh trong giờ sinh hoạt vui chơi.
. Đối với đối tượng HS yếu cần yêu cầu HS đọc kỹ đề toán, phân tích gợi mở cho các em một cách chi tiết, rõ ràng. Thường xuyên động viên các em mỗi khi các em tiến bộ dù là rất nhỏ. Giúp các em tự tin hơn vào khả năng của mình.
. Với đối tượng HS khá giỏi cần phá huy khả năng của học sinh tạo cơ hội cho các em bộc lộ mình bằng cách cho các em phát triển bài toán, trình bày cách giải khác. Cho các em được làm "thầy" những bạn HS yếu ở lớp bằng cách xây dựng phong trào "Đôi bạn cùng tiến" để các em giúp nhau trong học tập.
Trờn đõy là một số vấn đề tụi đó suy nghĩ, học hỏi và thể hiện trong quỏ trỡnh giảng dạy, đặc biệt là mụn Toỏn. Tụi rất mong được sự nhận xột, gúp ý của cỏc đồng chớ, đồng nghiệp để giỳp đỡ tụi hoàn thành tốt hơn nữa trọng trỏch của người giỏo viờn trong “ Sự nghiệp trồng người”.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thọ Nghiệp, ngày 17 tháng 11 năm 2008
Đánh giá xếp loại của đơn vị
Người viết
Phạm Thị Thu
Các loại toán này được phân phối theo chương trình và được trải đều trong một năm học lớp 4. Đối với tôi, trong các tiết hình thành và xây dựng bài mới là tiết rất quan trọng nhằm giúp các em có một biểu tượng, một cách hiểu đúng đắn về bản chất của dạng toán đó, nắm được đúng ý nghĩa các khái niệm, các danh từ trong Toán học của bài toán, dạng toán đó. Ví dụ như:
Các em phải hiểu khái niệm chu vi chính là số đo độ dài các cạnh cộng lại (với hình có các cạnh ) hay chiều rộng bằng 2/3 chiều dài có nghĩa là chiều dài được chia thành 3 phần bằng nhau thì chiều rộng chiếm 2 phần như thế ...
Trong tiết hình thành bài mới thì các bài tập của tiết đó chỉ xoáy quanh luyện kiến thức vừa đưa ra ,giáo viên cần phải giải quyết triệt để tất cả các bài tập này. Bắt đầu hình thành kiến thức về một dạng toán, bao giờ sách giáo khoa cũng đưa ra những bài toán với những số liệu rất đơn giản cụ thể. Đối với tiết bài mới tôi đã thực hiện như sau:
- Yêu cầu các em đọc kĩ bài toán , xác định được cái bài toán hỏi, những gì bài toán đã cho.
-Tìm hiểu bản chất của những vấn đề đã cho . Ví dụ : Chu vi , tổng ,hiệu,..
Ví dụ: Với bài toán 2 trang150: Một hình chữ nhật có chiều dài hơn chiều rộng 12 m , tìm chiều dài chiều rộng của hình đó biết chiều dài bằng 7/4 chiều rộng.
- Bài toán hỏi gì ?
( Tìm chiều dài, chiều rộng hình chữ nhật )
- Bài toán đã cho biết những gì ?
( Chiều dài hơn chiều rộng 12 m, chiều dài bằng 7/4 chiều rộng )
- Vậy theo em chiều dài bằng 7/4 chiều rộng có nghĩa là thế nào ?
( Chiều dài bằng 7/4 chiều rộng có nghĩa là chiều rộng chia thành 4 phần bằng nhau thì chiều dài là 7 phần như thế )
Miệng các em nói thì tay các em phải thực hành viết ngay, vẽ ngay sơ đồ để mô tả bài toán dưới dạng tóm tắt , sau đó giáo viên đi luôn xuống dưới để kiểm tra xem các em hiểu và thực hành có đúng không rồi hướng các em tới cái đúng cái chuẩn xác nhất .
Sau một bài tập giáo viên lại đặt câu hỏi chốt lại kiến thức mà các em vừa lĩnh hội được sau bài tập đó. Ví dụ như : Muốn tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó em làm thế nào?...
Trong đợt kiểm tra chất lượng đầu năm, kết quả môn Toán của lớp tôi như sau:
Điểm 1,2
điểm 3,4
điểm 5,6
điểm 7,8
điểm 9,10
1 em =
7 em =
15 em =
10 em =
1 em =
Qua bảng thống kê này tôi thấy học sinh trong lớp tôi chất lượng chưa cao, học sinh dưới điểm 5 vẫn còn 8 em, tỉ lệ học sinh giỏi quá ít. Tôi đã xem lại bài kiểm tra của các em, một thực tế mà tôi cũng đã dự đoán không nhầm: Kỹ năng giải toán có lời văn của các em còn chưa thành thạo, mộ số em giải toán nhưng không hiểu rõ bản chất của bài nên dẫn tới những sai sót rất đáng tiếc: Sai lời giải bài toán làm sai phép tính nên dẫn tới kết quả, đáp số sai.
Tôi lại tiếp tục quá trình hướng dẫn các em nẵm bắt được những gì là cốt lõi của bài toán, thiết lập được mối quan hệ giữa cái đã cho va cái cần tìm của bài toán để tìm ra hướng giải.
*Trong tiết dạy học bài mới, giáo viên cân phải đi sâu đi sát tới từng học sinh nhằm theo dõi xem các em có nắm được bài không, nắm được nội dung bài đến mức nào.
-Đối với học sinh khá giỏi: Các em đã chắc chắn nắm được cách giải và giải khá thành thạo sau một tiết, giáo viên cần khơi gợi, giúp các em có những cách giải khác hay hơn, lời giải chính xác hơn....
-Với học sinh yếu: Giáo viên cũng cần phải chú ý xem các em đó có hiểu bản chất của bài toán không.
Tôi đã dạy và quan sát một số em vẽ sơ đồ bài toánìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó (bài 1 trang 47 SGK), em đã vẽ trên nháp như sau:
Tại ssao em lại đặt 30 tuổi ở đây?
Em không trả lời được vì thực tế em cũng không hiểu tuổi bố hơn tuổi con từ đâu đến đâu trên sơ đồ. Tôi đã đặt hai chiếc thước kẻ dài, ngắn nằm cạnh nhau và hỏi:
-Thước nào dài hơn thước nào ngắn hơn?
(Thước xanh dài thước đỏ ngắn)?
Thước xanh dài hơn thước đỏ từ đâu đến đâu?
Em đó đã trả lời và lấy tay chỉ thực tế trên thước kể đoạn thước xánh dài hơn thước đỏ.
?tương tự bài toán này đã cho tuổi bố nhiều hơn tuổi con 38 tuổi, vậy theo em 38 tuổi nên viết ở đâu?
Tự tay em đó chỉ và sửa ngay trên giấp dáp.
? Nói cách khác, tuổi bố trừ đi tuổi con còn bao nhiêu?
( 38 tuổi)
? Vậy 38 tuổi gọi là gì ?
(38 là hiệu số tuổi của bố và con)
Qua đây có thể cho a thấy một điều, ở những học sinh yếu, tư duy của các em vẫn còn nặng về trực quan, các em phải có những gì rất cụ thể, rất thực tế ở xung quanh mình thì từ đó mới có thể nắm bất được vào nội dung của bài toán, vào những khái niệm yêu cầu phải có tư duy trìu tượng được. Chính đặc điểm này đòi hỏi người giáo viên phải rấ tỉ mỷ, quan tâm sâu sát tới các em, tìm hiểu xem các em còn thiếu ở chỗ nào để kịp thời giúp đỡ các em vươn lên.
Khi sang bài toán 2 (trang 47): Một lớp có 28 học sinh, số học sinh trai hơn số học sinh gái là 4 em. Hỏi lớp đó có bao nhiêu học sinh trai, bao nhiêu học sinh gái?
Đây là bài toán áp dụng trực tiếp cách giải tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó. Nhũng học sinh khá giỏi ở trong lớp dẽ dàng giải bài toán này, tôi đã kiểm tra khuyến khách các em giải theo các cách khác nhau
Số học sinh trai là:
(28+8) : 2 = 18 (bạn)
Số học sinh gái là:
28-18 = 10 (bạn)
(lấy tổng trừ số học sinh trai)
Cũng có em tìm số học sinh gái với cách khác : 18- 8=10 (bạn)
(lấy số học sinh trai trừ đi hiệu)
Mặc dù đây là một bài toán rất đơn giản vì nó áp dụng trực tiếp kiến thức bài mới nhưng để có được những cách giải khác nhau này, có thể nói các em đã thực sự đầu tư suy nghĩ để tìm ra những lời giải khác nhau mà vẫn đúng. Tôi đã động viên và tuyên dương các em ngay trước lớp, các em rất phấn khởi và muốn tìm hiểu, giải quyết hết các bài tập còn lại
Cũng với bài toán này, tôi đã đi xuống dưới để kiểm tra một số em học sinh gái, các em vẫn còn lúng túng chưa biết giải vì các em không hiểu đầu bài , không tìm ra được cách giải.
Tôi hỏi: bài tìm hiểu gì (tìm số học sinh trai trong số học sinh gái)
Bài toán cho biết những gì rồi? (cả lớp 28 bạn, trai hơn gái 8 bạn)
Miệng em đó nói, đồng thời tay em phải thực hiện hình vẽ luôn sơ đồ tưởng tượng trên nháp hs trai
Tôi chỉ tay vào sơ đồ và hỏi che đi hiệu số học sinh trai và gái
Nếu số bạn trai bớt đi 8 bạn thì trong cả lớp đó sẽ còn lại bao nhiêu? :
(28-8=20 (bạn)) học sinh tự viết đi luôn.
Phép tính: 28-8=20 (bạn) ra nháp
Lúc này số bạn trai bằng số bạn gái và bằng bao nhiêu: 20:2=10 (bạn)
Vậy theo em thực tế 10 bạn chính là số học sinh trai hay gái?
(học sinh gái)
Vậy số bạn trai sẽ là bao nhiêu?
10+8=18 (bạn)
Sau đó tôi để em tự giải bài toán này thì em đó đã làm đúng.
- Bài tập 2 là bài tập tương tự như vậy, tôi chỉ phân tích đề bài và hỏi;
Bài toán này thuộc loại toán nào
(T-H)
Đâu là tổng số cây cả hai lớp ? (600 cây)
Đâu là hiệu số cây cả hai lớp ? (30 cây)
Số cây trồng được lớp 4Avà 4B lớp nào lớn hơn? 4B
Tôi để cho các em tự làm và đi xuống quan sát, để em tự làm, sau đó nhận xét, động viên em đó. Cũng như vậy sua một thời gian, trải qua các bài toán với những người dậy khác nhau, các em đó cũng đã làm được đúng dần dần, các em đã in tưởng ở bản thân mình rất nhiều, nhiều lần tôi đã hỏi lại câu hỏi "vì sao em lại làm như vậy". Tôi đã nhận được câu trả lời từ các em khá chuẩn xác, tôi thật sự thấy mừng, mừng vì em đã tiến bộ, mừng vì kết quả của tôi sau bao ngày tháng kèm cập, hướng dẫn em tìm tòi được mối liên hệ của nhứng kiến thức đã học, bản chất của vấn đề nay đã thành công....các em nhìn tôi với cập mắt đầy tin tưởng, trả lời rất tự tin, không còn bắt gặp sự lúng túng, bối rối như trước kia, khi một vấn đề mới do SGK hoặc giáo viên đưa ra, bây giờ các em đã chủ động tham gia giải quyết khá tốt.
File đính kèm:
- KNDH TOAN CO LOI VAN L4.doc