Cảm nhận về tình yêu đôi lứa trong thơ giai đoạn 1945-1975

Nếu cho tôi được nói về một đề tài trong thơ ca thì tôi sẽ chọn nói về tình yêu đôi lứa. Đơn giản là vì trên cuộc đời này ai sống cũng cần có tình yêu, đúng như “ông hoàng” thơ tình Xuân Diệu đã nói:

“Làm sao sống được mà không yêu

Không nhớ không thương một kẻ nào”

Cuộc sống có hoa hồng và nước mắt thì tất nhiên tình yêu cũng có đắng cay và ngọt bùi. Nhưng không ai phủ nhận rằng tình yêu chân chính luôn đem đến cho con người niềm tin, sức mạnh để vượt qua gian khó trên đường đời. Và tình yêu đôi lứa trong thơ giai đoạn 1945-1975, giai đoạn máu lửa của đất nước, càng toả sáng lung linh như những ánh sao soi đường cho bao trái tim Việt vượt qua lửa đạn hung tàn, vượt lên đau thương mất mát của cuộc chiến đấu sống còn cùng kẻ thù sừng sỏ nhất. Ai có trái tim biết yêu thương đều không khỏi rung cảm và cúi đầu ngưỡng vọng trước những tình yêu tuyệt vời của một thời như thế.

Giữa hoàn cảnh đất nước ly loạn, vẫn có những bài thơ về tình yêu đầy cảm xúc, sâu lắng và tha thiết. Dù số lượng những bài thơ tình trọn vẹn như thế không nhiều nhưng vẫn để lại trong lòng người đọc biết bao sự bâng khuâng, lắng đọng:

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng

Chị thẩn thơ đi tìm

Đồng chiều cuống rạ

Chị bảo

đứa nào tìm được Lá Diêu Bông

từ nay ta gọi là chồng.

(Lá Diêu Bông-Hoàng Cầm)

Tình yêu bao giờ cũng đẹp và đáng quý. Vì thế mà cho đến nay hình tượng “chiếc Lá Diêu Bông”-lá hạnh phúc- vẫn còn sống mãi trong trái tim độc giả yêu thơ. Ước mộng đầu đời nhỏ bé, ngây thơ sẽ theo mãi con người ta cho đến lúc trưởng thành và đôi lúc khiến mọi người phải cúi đầu nuối tiếc “mối tình đầu thường tan vỡ mau”

Tuy nhiên do hoàn cảnh lịch sử đầy những biến động, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam anh hùng đã cuốn các nhà thơ vào vòng xoay vận mệnh Tổ quốc. Khi ấy, thơ cũng phải phục vụ cho cuộc chiến đấu, dù ít dù nhiều. Và những vần thơ mềm mại dưới ngọn bút hoa đã biến thành những vần thơ thép. Thơ thép, mà vẫn ngập tràn tình cảm, tất nhiên là có cả tình cảm lứa đôi.

 

doc8 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 5403 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cảm nhận về tình yêu đôi lứa trong thơ giai đoạn 1945-1975, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường THPT CHUYÊN THOẠI NGỌC HẦU GV: Nguyễn Hoàn Anh TỔ: VĂN CẢM NHẬN VỀ TÌNH YÊU ĐÔI LỨA TRONG THƠ GIAI ĐOẠN 1945-1975. Nếu cho tôi được nói về một đề tài trong thơ ca thì tôi sẽ chọn nói về tình yêu đôi lứa. Đơn giản là vì trên cuộc đời này ai sống cũng cần có tình yêu, đúng như “ông hoàng” thơ tình Xuân Diệu đã nói: “Làm sao sống được mà không yêu Không nhớ không thương một kẻ nào” Cuộc sống có hoa hồng và nước mắt thì tất nhiên tình yêu cũng có đắng cay và ngọt bùi. Nhưng không ai phủ nhận rằng tình yêu chân chính luôn đem đến cho con người niềm tin, sức mạnh để vượt qua gian khó trên đường đời. Và tình yêu đôi lứa trong thơ giai đoạn 1945-1975, giai đoạn máu lửa của đất nước, càng toả sáng lung linh như những ánh sao soi đường cho bao trái tim Việt vượt qua lửa đạn hung tàn, vượt lên đau thương mất mát của cuộc chiến đấu sống còn cùng kẻ thù sừng sỏ nhất. Ai có trái tim biết yêu thương đều không khỏi rung cảm và cúi đầu ngưỡng vọng trước những tình yêu tuyệt vời của một thời như thế. Giữa hoàn cảnh đất nước ly loạn, vẫn có những bài thơ về tình yêu đầy cảm xúc, sâu lắng và tha thiết. Dù số lượng những bài thơ tình trọn vẹn như thế không nhiều nhưng vẫn để lại trong lòng người đọc biết bao sự bâng khuâng, lắng đọng: Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng Chị thẩn thơ đi tìm Đồng chiều cuống rạ Chị bảo đứa nào tìm được Lá Diêu Bông từ nay ta gọi là chồng. (Lá Diêu Bông-Hoàng Cầm) Tình yêu bao giờ cũng đẹp và đáng quý. Vì thế mà cho đến nay hình tượng “chiếc Lá Diêu Bông”-lá hạnh phúc- vẫn còn sống mãi trong trái tim độc giả yêu thơ. Ước mộng đầu đời nhỏ bé, ngây thơ sẽ theo mãi con người ta cho đến lúc trưởng thành và đôi lúc khiến mọi người phải cúi đầu nuối tiếc “mối tình đầu thường tan vỡ mau” Tuy nhiên do hoàn cảnh lịch sử đầy những biến động, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam anh hùng đã cuốn các nhà thơ vào vòng xoay vận mệnh Tổ quốc. Khi ấy, thơ cũng phải phục vụ cho cuộc chiến đấu, dù ít dù nhiều. Và những vần thơ mềm mại dưới ngọn bút hoa đã biến thành những vần thơ thép. Thơ thép, mà vẫn ngập tràn tình cảm, tất nhiên là có cả tình cảm lứa đôi. Có một điều phải thừa nhận rằng, tình yêu trong thơ thời chống Pháp ít khi được đề cập một cách trực diện, mà thường được nhắc nhở thoáng qua như một phút lãng mạn mộng mơ của những người chiến sĩ xuất thân thư sinh Hà Thành, để rồi sau phút nhớ nhung ấy họ lại cầm chắc tay súng và chiến đấu quên mình vì quê hương và vì những người thân yêu. Tình yêu đôi lứa trong thơ thời kháng chiến chống Pháp thường được cụ thể hoá thành nỗi nhớ, nỗi nhớ thiết tha về một dáng hình yêu kiều, một ai đó rất gần mà cũng rất xa xăm: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ. (Tây Tiến-Quang Dũng) Người lính sau phút giây gian khó hiểm nguy trên đường hành quân lại được đắm mình trong đêm hội đuốc hoa đầy chất lãng mạn bên cô kiều nữ xứ núi rừng. Đó sẽ là nỗi nhớ day dứt trong lòng người vượt thác lên đường vì nghĩa lớn. Thơ Quang Dũng nhiều lần nhắc đến nỗi nhớ, nhớ vì phải cách xa nhau, người ở quê nhà người nơi tiền tuyến:Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự Bên này em có nhớ bên kia Giăng giăng mưa bụi qua phòng tuyến Quạnh vắng chiều sông lạnh bến Tề (Đôi bờ-Quang Dũng) Đó không chỉ là nỗi nhớ của tình yêu lứa đôi mà con người còn gửi gắm cả nỗi niềm cho quê hương xứ sở, bởi tình người luôn gắn liền với tình đất thiết tha: Vầng trán em mang trời quê hương Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm Em có bao giờ em nhớ thương? (Đôi mắt người Sơn Tây- Quang Dũng) Dù đi đến bất cứ nơi đâu, nhìn thấy bất cứ điều gì thì nỗi nhớ về “em” đều hiện hữu trong trái tim anh: Em mất quê rồi anh mất em Vừa khi tóc trắng rụng bên thềm Hôm nay chợt thấy làn rêu lạ In đẫm hình em vách láng giềng (Hình rêu bóng nhớ-Hoàng Cầm) Quê hương bị quân thù tàn phá, người lính trẻ ôm súng lên đường với lòng căm thù giặc, lòng nung nấu quyết tâm cứu nước nhưng trái tim anh không làm bằng thép, anh cũng có giây phút nhớ người yêu “bổi hổi bồi hồi” như tình cảm trong ca dao xưa: Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu (Đất nước-Nguyễn Đình Thi) Đã có một thời nỗi nhớ người yêu ấy bị lên án gay gắt, bị cho là “buồn rớt” “mộng rớt” của lớp chiến sĩ trí thức Hà Thành. Nhưng thời gian đã trả lại cho họ sự đánh giá công bằng, bởi nỗi nhớ người yêu ấy đâu làm người lính giảm đi quyết tâm giết giặc, bởi tình yêu đất nước còn bao gồm cả tình yêu lứa đôi: Anh yêu em như yêu đất nước Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước Mỗi tối anh nằm mỗi bữa anh ăn. (Nhớ- Nguyễn Đình Thi) “Em” cũng mang một phần của đất nước, tình yêu và nỗi nhớ “em” làm “anh” vững vàng trên mỗi chặn hành quân, “anh” không đơn độc lẻ loi vì luôn có nỗi nhớ theo cùng trên suốt quãng đường gian lao. Không chỉ nói về tình yêu của người “ra đi” dành cho người ở lại mà thơ trong giai đoạn này đôi khi còn dành những bài rất đẹp ca ngợi những mối tình của những con người “đồng chí”, họ không chỉ yêu nhau mà còn yêu quê hương và cùng chiến đấu cho màu xanh hoà bình trên đất mẹ: Bảy năm về trước em mười bảy Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng! Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa Bữa thì em tới bữa anh sang ……………… Ai viết tên em thành liệt sĩ Bên những hàng bia trắng giữa đồng Nhớ nhau, anh gọi: em, đồng chí Một tấm lòng trong vạn tấm lòng Anh đi bộ đội-sao trên mũ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường Em sẽ là hoa trên đỉnh núi Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm. (Núi đôi-Vũ Cao) Tình yêu ấy trong sáng và cao quý biết bao! Yêu nhau, con người không chỉ nhìn nhau mà còn cùng nhìn về một hướng cho lý tưởng, dù có hy sinh dù có mất mát nhưng tình yêu đã được chắp cánh bay vào trang sử Việt hào hùng. Có lẽ những năm tháng đấu tranh khắc nghiệt này đã khiến các nhà thơ tạm gác lại những bài thơ tình rực cháy. Tình yêu đôi lứa thường ít được dành trọn vẹn cho một bài mà thường chỉ chiếm một hoặc vài khổ trong bài thơ. Tình yêu đôi lứa ấy luôn được đề cập bên cạnh tình yêu nước, tình thần chiến đấu, tình yêu quê hương…Và các nhân vật trữ tình trong các bài thơ thường là “em”, một cô gái trong tâm tưởng ít được miêu tả cụ thể rõ ràng, “em” có thể là một người có thật cũng có thể là bất cứ ai để qua đó nhà thơ bộc lộ tâm sự của mình. Như Hoàng Cầm, khi viết về tình yêu quê hương cũng mượn hình tượng em để diễn đạt: Em ơi buồn làm chi Anh đưa em về sống Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lì” (Bên kia sông Đuống-Hoàng Cầm) Rõ ràng cuộc sống và thi ca đều không thể vắng bóng tình yêu được. Đến khi miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoài tưởng về những tháng năm chiến đấu đầy máu lửa, thơ ca cũng mang hình tượng “em” với nỗi nhớ về tình yêu đôi lứa rất đẹp: Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương (Tiếng hát con tàu-Chế Lan Viên) Đây là khổ thơ tình rất tuyệt của Chế Lan Viên mang đậm hơi thở của miền Tây Bắc anh hùng. Tình yêu không chỉ cho con người thêm sức mạnh mà còn giúp con người gắn bó với “đất thiêng” hơn. Tình yêu đôi lứa vẫn chiếm một vị trí khá khiêm tốn bên cạnh tình yêu quê hương đất nước và quyết tâm xây dựng cuộc đời mới nhưng không phải là kém phần quan trọng. Những năm tháng kháng chiến chống Mỹ ác liệt, miền Nam trở thành tiền tuyến lớn, miền Bắc trở thành hậu phương lớn, cả nước một lòng chiến đấu vì hoà bình thống nhất, tình yêu đôi lứa trong thơ vẫn không ngừng “sinh sôi” và có phần “chín muồi”, “mạnh dạn” hơn trước rất nhiều. Các nhà thơ, nhất là các nhà thơ trẻ vẫn không tách mình khỏi bầu không khí thời cuộc, nhưng họ đã dám để cho cái tôi tình yêu vẫy vùng thoả thích trong thơ. Bên cạnh những bài thơ cổ vũ đấu tranh, vẫn có những vần thơ tình đi sâu vào tim óc người đọc với một khát khao mãnh liệt vô bờ. Cũng là nỗi nhớ của những trái tim đầy yêu thương mà nhà thơ nữ Xuân Quỳnh gửi gắm: Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức Đất nước đang bị cắt chia, vĩ tuyến mười bảy ngày và đêm đau đáu nỗi nhớ thương, nhưng dẫu Bắc hay Nam thì trái tim vẫn hướng về nhau thật trọn vẹn một tình yêu chúng thuỷ. Xuân Quỳnh viết cho chị hay còn viết cho những đôi lứa yêu nhau trong những ngày chia cách mà tâm trạng đến thế: Dẫu xuỗi về phương Bắc Dẫu ngược về phương Nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh-một phương Tình yêu không chỉ giản đơn là nỗi nhớ mà còn là sự trăn trở, là khát vọng hoà hợp đến vô biên, tuyệt đích đến vĩnh hằng: Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ (Sóng-Xuân Quỳnh) Tình yêu lứa đôi sống trong không gian bao la của biển lớn và thời gian bất tận của muôn đời. Người ta yêu nhau, và bên cạnh nghĩa vụ công dân, người ta còn đòi hỏi một tình yêu tuyệt đối cho riêng mình: Anh không xứng là biển xanh Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng .... Đã hôn rồi hôn lại Cho đến mãi muôn đời Đến tan cả đất trời Anh mới thôi dào dạt (Biển-Xuân Diệu) Trong thời đại của Thơ Mới, Xuân Diệu đã là ông hoàng tình yêu, thời kháng chiến ông cũng là một cây bút máu lửa của cách mạng, và bây giờ thơ tình yêu của ông vẫn nồng nhiệt và chân thành như thế đó, như trái tim người đang yêu không chút đắn đo e dè, mà tại sao người ta phải e dè khi tình yêu đôi lứa là một tình cảm đẹp đến thế. Tình yêu trong thơ giai đoạn chống Mỹ có đủ cả mọi cung bậc sắc, thái tình cảm đa dạng của trái tim con người. Có nồng nhiệt khát kháo và cũng có e ấp ngại ngùng: Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm Bên ấy có người ngày mai ra trận Họ ngồi im không biết nói chi …Họ chia tay Vẫn chẳng nói điều gì Mà hương thầm thơm mãi bước người đi. (Hương thầm-Phan Thị Thanh Nhàn) Chàng trai và cô gái với khung cửa sổ không bao giờ khép, với hương bưởi ngọt ngào và sự yên lặng đầy ý vị trong buổi tiễn đưa. Họ yêu nhau dù chưa một lời thổ lộ, và mai này dù họ cách xa thì hương hoa bưởi đêm chia tay vẫn theo họ không rời. Tình yêu e ấp, không lời đành gác lại để chàng trai ra trận, nơi khung cửa sổ không khép kia chắc cô gái vẫn dõi theo người đi vì đất nước. Họ trẻ quá, họ chưa dám nói lời yêu nhau nhưng dám cầm súng lên đường giết giặc. Hương bưởi nói hộ tình yêu son trẻ ấy và là lời thể son sắt, niềm tin cho buổi trùng phùng. Thời chống Mỹ, người ta dám “yêu nhau” trong thơ và cũng dám gác lại tình yêu ấy vì nghĩa vụ đỗi với Tổ quốc. Tình yêu đôi lứa của hai trái tim nhưng không mang màu sắc vị kỉ cá nhân mà thăng hoa rực rỡ vô cùng: Cả vườn hoa ngập tràn nắng xế Những cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ Gió nói tôi nghe những tiếng thì thào “Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau” (Cuộc chia ly màu đỏ-Nguyễn Mỹ) Không chỉ những người đang yêu nhau mà ngay cả những đôi vợ chồng son trẻ cũng “dũng cảm” rời xa nhau để đi theo tiếng gọi của miền Nam ruột thịt. Tình yêu đôi lứa bấy giờ không đứng bên cạnh tình yêu đất nước nữa mà đã hoà quyện vào tình yêu đất nước vĩ đại. Tất cả vì miền Nam thân yêu, tất cả vì Tổ quốc thống nhất, những trái tim tha thiết yêu thương ấy dằn lòng để cất bước ra đi với lý tưởng rạng ngời. Cách chia là huy hoàng sắc đỏ như thế, và khi gặp lại cũng lấp lánh lạ lùng: Em đẹp lắm như mùa xuân bừng dậy Súng trên vai em cũng đẹp như em Em ơi! Sao tóc em thơm vậy Hay em vừa đi qua vườn sầu riêng Ta yêu giọng cười em trong trẻo Ngọt ngào như nước dừa xiêm Yêu dáng em đi qua cầu tre lắc lẻo Dịu dàng như những nàng tiên Em là du kích, em là giao liên Em chính là quê hương ta đó Mười một năm rồi ta nhớ, ta thương (Trở về quê nội-Lê Anh Xuân) Người con trai sau bao năm đi xa nay trở về không khỏi ngẩn ngơ vì vẻ đẹp của quê hương và cả vì người em hàng xóm năm cũ. “Em” đẹp không chỉ là vẻ đẹp hình thể, mà “em” còn đẹp vì lý tưởng chiến đấu và vì tình yêu quê của “em”. “Anh” yêu “em” vì em là một phần của quê hương và vì “anh” và “em” là đồng chí. Tình yêu mộc mạc, dịu dàng mà rất đối nên thơ. Đến giai đoạn này, người ta đã mạnh dạn bộc bạch tâm sự tình yêu của mình trong thơ. Đó là những câu chuyện tình có mở đầu, có kết thúc, có những kỉ niệm và dạt dào cảm xúc yêu thương. Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn, ngậm ngùi Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng Giữa chặn đường hành quân gặp nhau chỉ kịp quay đầu nhìn lại mà vẫn thấy ấm mãi dù mưa đầy trời. Không phải vì người ta không nhớ thương nhau mà vì trên vai mỗi người còn mang nặng một trọng trách trong cuộc trường chinh của dân tộc. Để rồi tình yêu đối lứa ấy hoà trộn trong tình yêu đất Mẹ muôn đời: Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm Có những ngày trốn học bị đòn roi Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất Có một phần xương thịt của em tôi (Quê hương-Giang Nam) Dù phải vĩnh viễn cách xa nhau nhưng trái tim yêu không hề bi luỵ, người ta lại càng thêm yêu và càng cầm chắc tay súng hơn trước quân thù. Tình yêu trong thơ thời chống Mỹ còn là những mối tình nơi “đầu sóng ngọn gió”, nơi đầy khắc nghiệt của núi rừng và đầy bom rơi đạn lạc: Từ nơi em gửi đến nơi anh Những đoàn quân trùng trùng ra trận Như tình yêu nối lời vô tận Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn (Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây-Phạm Tiến Duật) Dù ở trong ranh giới mong manh của sự sống và cái chết, tình yêu đôi lứa vẫn như một sợi chỉ xanh óng ánh kết nối trái tim con người. Bom đạn không làm người ta sợ hãi, gian khổ không làm người ta lùi bước, với tình yêu nóng hổi trong tim con người gửi tới nhau niềm tin chiến đấu để chiến thắng quân thù bằng tinh thần thời đại “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai” Đúng vậy, tình yêu đã cho con người niềm tin và sức mạnh. Tình yêu đôi lứa của “anh” và “em” hôm nay cũng là một phần của đất nước và đất nước cũng chính là máu xương đôi mình: Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi đôi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất nước đã cho “anh” và “em” có được tình yêu tuyệt vời đến thế. Thì tình yêu ấy phải kết tinh thành hoa trái ngọt ngào cho đất nước thăng hoa: Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang đất nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng... (Đất nước-Nguyễn Khoa Điềm) Tình yêu lứa đôi mang theo niềm tin mãnh liệt về một ngày mai tươi sáng, ngày đất nước hoà bình thống nhất sẽ không xa. Khát vọng ấy làm con đường họ đang đổ máu xương theo đuổi càng gần lại trong tầm tay hơn bao giờ. Có thể nói, thơ tình yêu thời chống Pháp và chống Mỹ gặp nhau ở chỗ “luôn gắn tình yêu lứa đôi với tình yêu quê hương đất nước”, như một nhà thơ đã nói: Tôi yêu đất nước này chân thật Như căn nhà nhỏ có mẹ tôi Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi (Trần Vàng Sao) Chính vì thế mà tình yêu tôi lứa được nâng lên một tầm cao hơn, vượt khỏi tầm cái “chúng tôi” bình thường để trở thành cái “chúng ta” phi thường đầy sức mạnh. Tình yêu lứa đôi trong thơ giai đoạn 1945-1975 không huyễn hoặc đưa ru mà luôn thức tỉnh con người hướng tới chân trời tươi đẹp. Trong thời đại kinh tế thị trường ngày nay, khi mà có những người đặt tình yêu lên bàn cân mà cân đo đong đếm, thì mỗi khi đọc lại những vần thơ tình của một thời đã qua tôi lại thấy thêm yêu quý và tin tưởng vào tình yêu hơn bao giờ hết. Dường như những vần thơ ấy đã khiến người ta khao khát một tình yêu chân chính cho đời mình, khiến người ta muốn sống xứng đáng hơn vơi tình yêu đang có. Niềm tin và hoa hồng, nước mắt và nỗi đau sẽ giúp con người vững chãi hơn trong phong ba bão táp, đúng như một nhà thơ đã khẳng định: “Và yêu, tôi đã biết làm người”. Tình yêu đôi lứa sẽ mãi là một đề tài bất tận của thi ca...

File đính kèm:

  • docCam nhan ve tinh yeu doi lua trong tho giai doan 4575.doc
Giáo án liên quan