Câu hỏi trắc nghiệm và tự luận văn học 11

Câu 1: Biệt hiệu nào sau đây không phải của nhà thơ Phan Bội Châu?

A. Hải Thu

B. Nhất Thanh

C. Thị Hán

D. Độc Tỉnh Tử

Câu 2: Năm 1925 thực dân Pháp bắt được Phan Bội Châu ở đâu?

A. Cao Bằng

B. Hong Kong

C. Pháp

D. Trung Quốc

Câu 3: Vì sao Phan Bội Châu còn được gọi là "ông già Bến Ngự"?

A. Vì ông bị bắt giam và mất ở đấy

B. Vì ông sống nhiều ở đấy

C. Vì ông hoạt động cách mạng chủ yếu ở đấy

D. Vì ông rất nặng tình nghĩa với nơi ấy

Câu 4: Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương được sáng tác vào năm nào?

A. 1903

B. 1904

C. 1905

D. 1906

Câu 5: Nét tiến bộ trong "chí làm trai" của Phan Bội Châu là gì?

A. Từ bỏ con đường quan quyền

B. Nổi tiếng để được lưu danh thiên cổ

C. Không màng đến việc học hành theo kiểu Nho giáo

D. Thấy rõ trách nhiệm của mình với cộng đồng, với đất nước.

 

doc134 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 8188 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Câu hỏi trắc nghiệm và tự luận văn học 11, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG PHẦN TRẮC NGHIỆM Câu 1: Biệt hiệu nào sau đây không phải của nhà thơ Phan Bội Châu? A. Hải Thu B. Nhất Thanh C. Thị Hán D. Độc Tỉnh Tử Câu 2: Năm 1925 thực dân Pháp bắt được Phan Bội Châu ở đâu? A. Cao Bằng B. Hong Kong C. Pháp D. Trung Quốc Câu 3: Vì sao Phan Bội Châu còn được gọi là "ông già Bến Ngự"? A. Vì ông bị bắt giam và mất ở đấy B. Vì ông sống nhiều ở đấy C. Vì ông hoạt động cách mạng chủ yếu ở đấy D. Vì ông rất nặng tình nghĩa với nơi ấy Câu 4: Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương được sáng tác vào năm nào? A. 1903 B. 1904 C. 1905 D. 1906 Câu 5: Nét tiến bộ trong "chí làm trai" của Phan Bội Châu là gì? A. Từ bỏ con đường quan quyền B. Nổi tiếng để được lưu danh thiên cổ C. Không màng đến việc học hành theo kiểu Nho giáo D. Thấy rõ trách nhiệm của mình với cộng đồng, với đất nước. Bảng đáp án: Câu hỏi 1 2 3 4 5 Đáp án B D A C D PHẦN TỰ LUẬN Câu 1: Giới thiệu đôi nét về tác giả Phan Bội Châu. Trả lời: Phan Bội Châu (1867 – 1940) là nhà yêu nước, nhà văn Việt Nam. Lúc đầu lấy tên là Phan Văn San, từ khoảng 1900 mới đổi tên là Phan Bội Châu. Có nhiều biệt hiệu như: Hải Thu, Thị Hán, Sào Nam, Độc Tỉnh Tử,…. Quê làng Đan Nhiệm, nay là xã Nam Hoa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cha là Phan Văn Phổ một nhà nho không đỗ đạt, sống bằng nghề : “lấy nghiên làm ruộng, lấy bút làm cày”. Mẹ là Nguyễn Thị Nhàn cũng là con nhà nho, một người mẫn tiệp và đôn hậu. Phan Bội Châu từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng: khoảng bốn, năm tuổi đã thuộc lòng mấy thiên “Chu Nam” trong kinh thi qua tiếng ru của mẹ. Sáu tuổi bắt đầu đi học chữ Hán, học sách “Tam tự kinh” (kinh 3 chữ) chỉ vài ba ngày. Tám tuổi đã biết làm văn bài và đậu đầu một số kì thi hạch ở xã, ở huyện. Mười ba tuổi thành thạo các thể văn cử tử : thơ, phù, binh nghĩa. Mặt khác, Phan Bội Châu là người được nuôi lớn từ nhỏ trong không khí sôi sụt chống pháp của cả nước, đặc biệt là vùng Nghệ – Tĩnh, sống có tinh thần yêu nước. Năm 17 tuổi, nghe tin ở Bắc kì phong trào Cần Vương “nổi dậy như ong” liền nửa đêm viết hịch Bình Tây thu Bắc đem dán ở cây to bên đường các lời lẽ rất thống thiết. Năm 19 tuổi nghe tin vua phát hịch Cần Vương, cùng bạn thân là Trần văn Lương thành lập sĩ tử Cần Vương , đội bị giặc khủng bố, nghĩa quân tan rả. Năm 1901 mưu cuộc đánh chiếm thành Vinh nhân ngày quốc khánh của Pháp nhưng không thành. Năm 1904 vận động thành lập Hội Duy Tân. Năm 1905 bí mật sang Trung Hoa, rồi Nhật Bản, phát động phong trào Đông Du,… con đường cứu nước của Phan Bội Châu đã đi qua nhiều khuynh hướng hính trị phản ánh quy luật của lịch sử đấu tranh dân tộc. Riêng con đường văn chương, Phan Bội Châu là người có tài năng lỗi lạc nhưng ông không hề lấy văn chương làm lẽ sống. Có điều, trên bước đường cachs mạng thấy văn chương là vũ khí đắc lực thì Phan Bội Châu sáng tác và sáng tác một cách tự giác, say sưa, không mệt mỏi, có thể chia sự nghiệp sáng tác của Phan Bội Châu làm ba thời kì :khi còn trong nước, lúc ở nước ngoài, lúc bị bắt về nước. Văn chương của ông là tiếng nói kết tinh được những tư tưởng, tình cảm , ý chí của dân tộc, của thời đại. Trong văn chương Phan Bội Châu có tiếng thét căm hờn dữ dội và những bản cáo trạng hùng hồn, đanh thép về tội ác của thực dân cướp nước và phong kiến tay sai… Phan Bội Châu đã đưa đến cho lịch sử văn học dân tộc nhiều mẫu văn chương tuyên truyền, cổ vũ chiến đấu. Ở đây, con người chiến sĩ và con người nghệ sĩ là một. Các tác phẩm chính : Bái thạch vi huynh phú (1897) Việt Nam phong quốc sử (1905) Hải ngoại huyết thư (1906) Ngục trung thư (1914), Trùng quang tâm sử (1921-1925), Văn tế Phan Châu Trinh (1926), Phan Bội Châu niên biểu (1937-1940) Phan Sào Nam tiên sinh, quốc văn thi tập… Câu 2: Hãy nêu hoàn cảnh ra đời bài thơ Lưu biệt khi xuất dương? Trả lời: Sau khi tham gia thành lập Duy Tân hội, đầu năm 1905, theo chủ trương của tổ chức, Phan Bội Châu nhận nhiệm vụ xuất dương tới Trung Quốc rồi Nhật Bản, mở đầu phong trào Đông Du, đặt cơ sở đào tạo cốt cán cho cách mạng cốt cán trong nước và cầu Nhật đến giúp Việt Nam đánh Pháp. Lúc này đất nước đã mất chủ quyền; ngọn lửa của phong trào Cần Vương đã tắt, báo hiệu sự bế tắt của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh đạo. Thời cuộc thay đổi đòi hỏi phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc phải có phương hướng, nội dung và hình thức hoạt động mới. Phan Bội Châu lúc này còn tương đối trẻ (38 tuổi), là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ cách mạng mới, quyết tâm vươn mình, vượt qua mớ giáo lí lỗi thời của đạo Khổng để đón nhận luồng tư tưởng tiên phong trong giai đoạn bấy giờ, mong tìm ra hướng đi mới cho sựu nghiệp khôi phục giang sơn. Phong trào Đông Du được nhóm lên cùng với bao hy vọng… Lưu biệt khi xuất dương được viết ra trong bữa cơm ngày tết mà Phan Bội Châu tổ chức tại nhà mình để chia tay các đồng chí trước khi lên đường. Câu 3: Giải nghĩa bốn câu đầu của bài thơ và làm rõ ý thức sứ mệnh, hoài bão của nhân vật trữ tình – người thanh niên trước thời cuộc? Trả lời: Bốn câu đầu của bài thơ nhắc lại quan niệm về “chí làm trai” của các nhà nho xưa với tinh thần khẳng định. Theo đó, khát vọng làm những việc lớn của nhân vật trữ tình cũng được thể hiện một cách sâu sắc. Câu thứ nhất đã được bản dịch nghĩa làm rõ ý. Câu thứ hai có thể được thể hiện một lời tự nhắc nhở, một phản vấn: lẽ nào để trời đất tự vần xoay tới đầu thì tới mà mình là kẻ đứng ngoài, vô can? Câu thứ ba không chỉ đơn giản xác nhận sự có mặt của nhân vật trừ tình ở trên đời mà có hàm chứa một tâm niệm: ta hiện diện không phải như một sự kiện ngẫu nhiên, vô ích vì vậy, ta phải làm được một việc gì đó có ý nghĩa cho đời. Câu thứ tư có tài liệu dịch nghĩa: Còn như chuyện ngàn năm sau thì có người sắp tới. Có thể nói rõ ý hơn là: Ngàn năm sau lẽ nào chẳng có người nối tiếp công việc của người trước? Như vậy, hai câu 3 – 4 cho thấy rõ cái tôi đầy trách nhiệm của nhà thơ: thấy việc không thể không làm, không ỷ lại cho ai. Hơn thế, cái tôi ấy thấy rõ lịch sử là một dòng chảy liên tục, có sự góp mặt, sự tham gia gánh vác công việc của nhiều thế hệ. Hai từ hi kì (hiếm, lạ, khác thường) ở câu 1 cần được hiểu như những từ nói về tình chất lớn lao, trong đại, kỳ vĩ của công việc mà kẻ làm trai phải gánh vác. Trước Phan Bội Châu, đã có nhiều người phát biểu về vấn đề này trong thơ: “Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu hán – Phá vòng vây bạn với kim ô” (chim trong lồng – Nguyễn Hữu Cầu); “Đã mang tiếng ở trời đất – Phải có danh gì với núi sông” (Đi thi tự vịnh – Nguyễn Công Trứ); “Chí làm trai nam bắc tây đông – Cho chỉ sức vẩy vùng trong bốn bể” (Chí khí anh hùng – Nguyễn Công Trứ), … từ lạ trong bản dịch thơ rõ ràng chưa thể hiện được hết ý tứ của hai từ hi kì trong nguyên tác. Câu 4: Tìm những từ ngữ trong hai câu 5 - 6 thể hiện thái độ quyết liệt và tình cảm đau đớn của nhà thơ trước thực trang đất nước. Riền trong câu 6, nhân vật trữ tình đã bày tỏ thái độ như thế nào đối với nền tư tưởng, học vấn cũ của nước nhà? Trả lời: Từ ngữ thể hiện thái độ quyết liệt và tình cảm đau đớn của nhà thơ trước thực trạng đất nước: tử hĩ (đã chết), nhuế (nhục), si (ngu). Thái độ của nhân vật trữ tình đối với nềng học vấn cũ là thái độ chối bỏ đầy tinh thần cách mạng. Phải biết đặt bài thơ vào hoàn cảnh ra đời của nó ta mới có thể hiểu sâu sắc nguyên nhân của thái độ này. Mang trong lòng ý chí giải phóng dân tộc cùng nỗi nhục mất nước, lại chịu ảnh hưởng của Tân thư (sách báo tuyên truyền cho tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây, tư tưởng cải cách xã hội theo mô hình Âu – Mĩ, … được dịch qua học được viết bằng hán văn, đưa tới từ Trung Quốc), Phan Bội Châu nhìn thấy sự vô ích của cái học, kiểu học cũ trước những đòi hỏi mới của đất nước, thời đại. Ông thực sự dè bỉu kiểu ứng xử “nhắm mắt làm ngơ” trước thực tại, chỉ biết tụng niệm giáo lí “thánh hiền” trong khi linh hồn của nó thì đã tiêu vọng tự đời nào. Trước đây, Nguyễn Khuyến từng than: “Sách vở ích gì cho đuổi ấy – Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già” (Ngày xuân dặn các con). Câu thơ đầy chiêm nghiệm, có niềm tủi thẹn và thoáng nghi ngờ về tính hữu dụng của cái học từ chương “nhai văn nhá chữ” trong bối cảnh đất nước đã lọt vào tay giặc (mà nhà thơ gọi bóng gió là ngày loạn). Với Phan Bội Châu, thái độ không dừng ở mức nghi ngờ. Tình thế đất nước vào buổi ông lên đường đã khác nhiều, hơn nữa, với cá tính mạng mẽ của một con người ưu hành động, tràn đây nhiệt huyết, ông đã đưa vào bài thơ của mình từ đầy cảm hứng phủ định, tật quyết liệt và rất gây ấn tượng. Phải nói rằng với những từ dùng mạnh bạo như thế, thơ ông có khả năng tác động tới độc giả rất sâu sắc. Đằng sau sự hấp dẫn của cách nói là sự hấp dẫn của cốt cách một con người! Các từ nhục, hoài trong bản dịch thơ chưa thực sự truyền lại đầy đủ khí lực dồi vào của các từ đồ nhuế, si trong nguyên tác. Câu 5: Hai câu thơ 7 – 8 thể hiện mong muốn gì của tác giả? Dựa theo bản dịchnghĩa, hãy phân tích vẻ đẹp hào hùng của hình tượng Muôn lớp sóng bạc cùng bay theo? Trả lời Với câu cuối cùng của bài thơ, bản dịch không hoàn toàn bám sát ý nguyên tác, đã chuyển một khát vọng, một dự cảm, một liên tưởng bất chợt, một hình ảnh giàu tính biểu tượng thành sự tường thuật – miêu tả thực tế, do vậy, chưa truyền đạt được phong độ hào hùng, niềm hăm hở dấn thân cùng trí tưởng tượng bay bổng của nhà thơ. Tâm thế cùng tư thế của nhân vật trữ tình lúc này là muốn lao ngay vào một trường hoạt động mới mẻ, sôi động; bay lên làm quẩy sóng đại dương hay bay lên cùng những đợt sóng trào sôi vừa thoáng hiện trong tâm tưởng. Câu 6: Tìm hiểu các nguyên nhân khiến bài thơ có được sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với thế hệ thanh niên yêu nước đầu thế kỷ XX? Trả lời: Đằng sau lời lẽ hào hùng của bài thơ là khí chất hăng hái và nhiệt huyết tràn đầy của một nhân cách đáng ngưỡng mộ Bài thơ chứa đựng những tư tưởng mới, mang tính cách mạng về sự nghiên cứu, vốn được thanh niên thời đại hăm hở đón chào và tin tưởng. Bài thơ đánh trúng vào nỗi nhục mất nước mà mọi người Việt Nam phải chịu đùựng cũng như kích thích được bản tính ưu hành động của thanh niên. Bài thơ gợi ca cả một trường hoạt động rộng rãi cho những người đang muốn làm một cái gì đó có ý nghĩa cho đất nước, … Câu 7: Phát biểu cảm nghĩ về hình tượng nhân vật trữ tình và đánh giá khái quát về giá trị của bài thơ? Trả lời: Hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ là hình tượng một người anh hùng tràn đầy ý thức về cái tôi của mình – một cái tôi luôn thao thức về sự tồn vong của giống nòi, dân tộc. Bài thơ được viết theo bút pháp ước lệ, phóng đại của thơ tỏ ý chí cổ điển rất cần thiết cho nhu cầu cổ vũ, động viên. Nỗi đau, niềm lạc quan, nhiệt tình hành động cùng tư tưởng cách mạng của tác giả thực sự đã thổi hồn vào từng câu chữ, hình ảnh vốn đã quen, khiến chúng vẫn mang đậm dấu ấn cá nhân người viết và có được sức lay động thấm thía. Đây là bài thơ từ biệt mà cũng là bài thơ mời gọi lên đường. Nó hoàn toàn tương xứng với tầm vóc của một con người được cả dân tộc ngưỡng vọng và tin tưởng vào thời điểm lịch sử khi đó. Câu 8: “Chí làm trai” đã được nhân vật trữ tình khẳng định dựa trên những cơ sở nào? Nêu nét tương đồng và khác biệt trong quan niệm về “chí làm trai” giữa bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu với một số tác phẩm thơ thời trung đại đã được học? Trả lời: Chí làm trai đã được nhân vật trữ tình khẳng định trên cơ sở: - Nhận thấy nó phù hợp với khát vọng khẳng định cái tôi cá nhân giữa cuộc đời. - Nhận thấy nó phù hợp với yêu cầu của đất nước, của thời cuộc về một thế hệ thanh biên biết “Xúm vai vào xốc vác cựu giang san”, khôi phục lại chủ quyền dân tộc đã mất. - Nhận thấy nó là điều kiện cần thiết để kéo những kẻ còn bị cầm tù bởi nền học vấn cũ ra khỏi cơn mê để tìm hướng đi mới cho lịch sử - Quan niệm về “chí làm trai” của Phan Bội Châu về cơ bản vẫn nằm trong vòng ý thức hệ nha gia. Nó thật gần gũi với những điều đã được phát biểu trong các bài thơ của Phạm Ngũ Lão, đặng Dung, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Công Trứ, … Nó cũng gắn liền với mấy chữ “công danh”, mà các bậc chính nhân quân tử xưa vẫn ao ước tạo dựng. Mặc dù vậy, không thể không nhận thấy những nét mới trong quan niệm của Phan Bội Châu trên vấn đề này điều đó có được chủ yếu nhờ sự nhạy cảm của chính nàh thơ trước những đòi hỏi mới của đất nước, của thời đại. Đối với Phan Bội Châu, chuyện lưu danh thiên cổ của một cá nhân chưa phải là mục đích tối hậu. Đích nhắm đến của ông là khôi phục chủ quyền của đất nước. Kẻ làm trai, trước hết phải thấy rõ trách nhiệm của mình với cộng đồng, thấy việc không thể không làm , không cần phải băn khoăn nhiều về khả năng về sự nghiệp bị bỏ dở dang, bởi “Sau này muôn thuở há không ai?”. Điều quan trọng là phải biết dứt khoát từ bỏ cái học từ chương, sách vở đã trở thành một lực cản trên đường đi của kẻ mang hoài bão cứu dân, cứu nước. Xét ở mức độ nào đó, quan niệm về “chí làm trai” của Phan Bội Châu đã có phần vượt lên quan niệm cũ từng được khẳng định trong suốt đời trung A1. HẦU TRỜI PHẦN TRẮC NGHIỆM Câu 1: Vì sao nhà thơ lại lấy bút danh là Tản Đà? A. Nhà thơ lấy tên của quê mình B. Nhà thơ ghép tên của cha và mẹ mình C. Nhà thơ lấy tên của một ngọn núi và con sông quê mình ghép lại D. Nhà thơ chọn ngẫu nhiên vì thấy nó hay! Câu 2: "Hầu Trời" nằm trong tập thơ nào của Tản Đà? A. Khối tình con I B. Khối tình con II C. Khối tình con III D. Còn chơi Câu 3: Bài thơ "Hầu Trời" (in trong SGK) có tất cả bao nhiêu câu thơ? A. 114 câu B. 116 câu C. 118 câu D. 120 câu Câu 4: Hai quyển "Khối tình" Tản Đà gọi là văn gì? A. Văn chơi B. Văn lí thuyết C. Văn tiểu thuyết D. Văn dịch Câu 5: Trong bài thơ Tản Đà nói với Trời quyển nào là văn dịch? A. Khối tình con B. Thần tiền C. Giấc mộng D. Đàn bà Tàu Bảng đáp án: Câu hỏi 1 2 3 4 5 Đáp án C D A B D PHẦN TỰ LUẬN Câu 1: Giới thiệu đôi nét về tác giả Tản Đà? Trả lời: Tản Đà sinh năm 1889 mất năm 1939, tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, người làng Khê Thượng, huyện Bất bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây). Làng ông sống nằm ven sông Đà núi Tản Viên. Nhà thơ đã lấy tên núi, tên sông ghép thành bút danh của mình. Tản Đà thuộc dòng dõi khoa bảng, từng theo đòi con đường cử nghiệp nhưng thi Hương hai lần đều không đẫ. Ông chuyển sang viết báo, viết văn, làm thơ và trở thành một trong những người Việt Nam đầu tiên sinh sống bằng nghề viết văn, xuất bản. Tản Đà từng ôm mộng cải cách xã hội theo con đường hợp pháp, dùng báo chí làm phương tiện. Oâng là con người có tính cách phóng túng, ông đi đ1o đi đây rất nhiều, nếm đủ múi cay đắng ngọt bùi, vinh nhục ở đời. Tuy nhiên, trước sau Tản Đà vẫn giữ cốt cách nhà nho và phẩm chất trong sạch. Ông mất tại Hà Nội trong một cảnh nghèo túng bần hàn. Tản Đà là người đi tiên phong ở nhiều lĩnh vực văn hoá, là một cây bút tiêu biểu của nền văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, có thành tựu trên nhiều thể loại nhưng tản Đà thực sự thành công với thơ. Ông đã đặt được dấu gạch nối giữa nền văn học truyền thống và văn học hiện đại. Tản Đà đã để lại khá nhiều tác phẩm. Về thơ, tiêu biểu là Khối tình con I (1916); Khối tình con II (1918); Khối tình con III (1932); Còn chơi (1921); Thơ Tản Đà (1925)...Về văn xuôi, Giấc mộng lớn (1928); Giấc mộng con I (1916) Giấc mộng con II (1932); Tản Đà văn tập (1932)...Ngoài ra, tản Đà còn chú giải Truyện Kiều, dịch Kinh Thi, thơ Đường, Liêu Trai chí dị và soạn một số vở tuồng như Tây Thi, Thiên Thai... Bài thơ "Hầu Trời" đưa vào sách lần đầu trong tập Còn chơi (1921), gồm tất cả 120 câu. Trong Tuyển tập Tản Đà, bài thơ chỉ còn 114 câu. Câu 2: Thuật lại chuyện “Hầu trời” của Tản Đà trong bài thơ và làm rõ tài hư cấu của tác giả (chú ý phân tích cách tạo tình huống, chọn chi tiết, dựng đối thoại, bố trí các cảnh, miêu tả tâm lí đa dạng của nhân vật...) Trả lời: Tóm tắt chuyện: - Lí do cùng thời điểm được “gọi lên” hầu Trời. - Cuộc đọc thơ đầy “đắc ý” cho Trời và chư tiên nghe giữa chốn “thiên môn đế khuyết”. - Trần tình với Trời về tình cảnh khốn khó của kẻ theo đuổi nghề văn và thực hành “thiên lương” ở hạ giới. - Cuộc chia tay đầy xúc động giữa trời và chư tiên. Tình huống truyện bắt đầu từ tiếng ngâm thơ “vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời “mất ngủ”. Rõ ràng cái duyên lên hầu Trời gắn liền với cái chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cao hứng của nhà thơ. Chuyện bịa hoàn toàn mà xem chừng rất tự nhiên, hợp lý! Bài thơ có rất hiều chi tiết cụ thể được xếp đặt logíc: nằm một mình -> buồn -> đun nước nóng -> ngâm văn; tiên xuống -> nêu lí do-> đưa lên trời; được đón tiếp trọng vọng, được mời đọc thơ -> chư tiên xúm vào khen ngợi, tán thưởng -> Trời truyền hỏi danh tính -> kể lễ tình cảnh, bày tỏ nỗi lòng -> Trời “đả thông” tư tưởng -> lạy tạ ra về,… Dường như tác giả muốn người đọc xác nhận đây là một câu chuyện thật để tiếp tục theo dõi phần còn lại. Nhà thơ rất khéo tả bối cảnh, từ bối cảnh thanh đạm của phòng văn nơi hạ giới tới bối cảnh rực rỡ, oai nghiêm của chốn thiên đình. Nhờ vậy , không gian của câu chuyện trở nên có nhiều tầng lớp, tương khớp với trường hoạt động của các nhân vật. Các đoạn đối thoại và miêu tả những phản ứng tâm lí đa dạng của từng loại nhân vật được cài vào nhau thật linh họat, khiến người đọc cảm tưởng mình tham gia thực sự vào câu chuyện, cùng nếm trải những phút “sướng lạ lùng”, “đắc ý”, cao hứng tột bậc của nhân vật trữ tình. Việc hư cấu nên cả một câu chuyện trong bài thơ này có ý gnhĩa cách tân nhất định. Nó như muốn đưa thơ trữ tình thoát dần nhiệm vụ tỏ chí nghiêm trang, khắc khổ để tiện giải bày cảm xúc phóng khoáng của con người cá nhân và xây dựng một quan hệ giao tiếp mới đối với độc giả thành thị khi đó. Câu 3: Chuyến “Hầu Trời” bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ nói được gì về bản thân cùng quan niệm mới của ông về văn và nghề văn? Trả lời: Chuyến “Hầu Trời” bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ nói được nhiều về bản thân, về nghề văn trong những thập niên đầu của thế kỉ thứ XX và về “sứ mệnh” xã hội mà ông tự đứng ra gánh vác. Nhà thơ hào hứng khoe cái tài của mình: - Văn dài hơi tốt ran cung mây! Trời nghe, trời cũng lấy làm hay. - Văn đã giàu thay, lại lắm lối - Trời lại phê cho : “Văn thật tuyệt! Văn trần được thế chắc có ít! Nhời văn chuốt đẹp như sao băng! Khí văn hùng mạnh như mây chuyển! Êm như gió thoảng tinh như sương! Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!...” Các nhà nho tài tử trước Tản Đà đều thị tài (cậy tài, khoe tài), nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều khi mang một nội hàm khá rộng, gắn liền với khả năng “kinh bang tế thế”. Có lẽ trước Tản Đà ít ai nói trắng ra cái “hay”, cái “tuyệt” của văn thơ mình như vậy, hơn nữa, lại nói trước mặt Trời. Rõ ràng ý thức cá nhân của nhà thơ phát triển rất cao và Tản Đà không hề vô lối khi tự khen mình (để cho Trời khen cũng là một hình thức tự khen). Nhà thơ đã thấy được “dài”, “giàu”, “lắm lối” là “phẩm hạnh” đặc thù của văn thời mình, bên cạnh những “phẩm hạnh” mang tính chất truyền thống như: “nhời văn chuốt đẹp”, “khí văn anh hùng”, “êm”, “tinh”,… Tình huống “hầu Trời” quả đã cho nhà thơ một cơ hội tuyệt vời để phô bày một cách sảng khoái tài năng của bản thân. Thật dễ thông cảm khi mọi nhân vật đều đang ở trong tình trạng cao hứng, từ nhà thơ đến chư tiên và sau hết là … Trời! Nhà thơ chỉ cao hứng như thế khi gặp được người hiểu và thông cảm (là Trời) mà thôi. Ở hạ giới dễ đâu tìm được người tri âm như vậy! Lời khen hẳn là sự khẳng định có sức nặng nhất, không thể bác bỏ, nghi ngờ. Đúng là một lối tự khẳng định rất “ngông” của vị “trích tiên”! Trong bài thơ, Tản Đà không trực tiếp phát biểu quan niệm của mình về văn và nghề văn. Tuy vậy, ẩn sau các câu chữ, ta vẫn thấy có một sự hình dung khác trước về hoạt động tinh thần đặc biệt này. Trong mắt Tản Đà, văn chương là một nghề kiếm sống mới, có người bán, kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trtường cũng hết sức phức tạp, không dễ chiều. Dường như Tản Đà đã ý thức được sự cần thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải “trường vốn” để theo đuổi nó dài dài (“Nhờ Trời văn con còn bán được – Chữa biết con in ra mấy mươi”, “Vốn liếng còn một bụng văn đó “). Sau cùng, phải thấy rằng Tản đà đã chớm nhận ra: đa dạng về loại, thể là một đòi hỏi thiết yếu của hoạt động sáng tác và những sáng tác mới, tiêu chí đánh giá hẳn nhiên là phải khác xưa, … Câu 4: Tìm các chi tiết thể hiện ý thức cá nhân của tác giả. Trả lời: Trong hẳn một khổ thơ (từ câu 65 đến câu 68), tác giả đã “tâu trình” rõ ràng về họ tên, “xuất xứ” của mình cho Trời nghe. Việc xưng danh của Tản Đà đã diễn ra khá tự nhiên, phù hợp hoàn toàn với mạch truyện và đây không phải là hiện tượng chưa từng có trong văn học trung đại hay trong các sinh hoạt văn nghệ dân gian (như hát chèo chẳng hạn). Nhưng dấu ấn Tản Đà trong cung cách xưng danh vẫn thể hiện khá rõ: Tách tên, họ theo một kiểu cung khai lí lịch rất hiện đại, lại còn nói rõ bản quán, quốc tịch, châu lục, tên của hành tinh, … Có một nụ cười hóm hỉnh ẩn đằng sau vẻ thật thà, thành khẩn trước “đấng chí tôn”, nhưng điều đáng nói hơn hết vẫn là ý thức cá nhân, ý thức dân tộc của nhà thơ. Một cái tên – tên thật chứ không phải tự hay hiệu – mà được nói ra trịnh trọng đến vậy hẳn nhà thơ phải thấy có một giá trị không thể phủ nhận gắn liền với nó. Hơn nữa, ông còn muốn Trời thấy được Nguyễn Khắc Hiếu chính là con người của Châu Âu, của xứ sở có một nền “văn minh tinh thần” cao quý, đáng tự hào (“Văn minh Đông Á trời thu sạch”). Cụ thể thêm một mức nữa, ông kiêu hãnh khai mình là đứa con đích thực của “Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”. Khi trong thời hiện đại, hai chữ “thiên hạ” đã trở thành một khái niệm mở (điều này Tản

File đính kèm:

  • doccau hoi TN va TL 11.doc
Giáo án liên quan