1/Cảm giác chung của bài thơ là buồn. Buồn vì hàng liễu rũ. Buồn vì cái lạnh len
lỏi đây đây gợi nỗi cô đơn, buồn vì có sự chia lìa, tan tác từ hoa cỏ, chim muông tới
con người. Buồn vì có một cái gì nhưlà nỗi nhớ nhung ngẩn ngơ, phảng phất ở
không gian và lòng người.
Hồi ấy, khi bài thơ ra đời (rút trong tập Thơ thơ – 1938) mùa thu là mùa buồn, tuy thường là nỗi buồn man mác có cái vẻ đẹp và cái nên thơ riêng của nó.
Thực ra đây là một cảm hứng rất tự nhiên và có tính truyền thống về mùa thu của
thơ ca nhân loại (Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản Đà. cũng như Đỗ Phủ, Bạch
Cư Dị.). Bài Đây mùa thu tớicũng nằm trong truyền thống. Nhưng cảnh thu của
thơ Xuân Diệu có cái mới , cái riêng của nó. Ấy là chất trẻ trung tươi mới được
phát hiện qua con mắt “Xanh non” của tác giả, là sức sống của tuổi trẻ và tình yêu,
là cái cảm giác cô đơn “run rẩy” của cáitôi cá nhân biểu hiện niềm khao khát giao
cảm với đời.
Cảm giác chung, linh hồn chung ấy củabài thơ đã được thể hiện cụ thể
qua các chi tiết, các câu thơ, đoạn thơ của tác phẩm.
40 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 2948 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề 1: Văn học lãng mạn và hiện thực phê phán 1930 - 1945, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề1 : Văn học lãng mạn và hiện thực phê phán 1930-1945
Đề 1 : ĐÂY MÙA THU TỚI – Xuân Diệu
1/ Cảm giác chung của bài thơ là buồn. Buồn vì hàng liễu rũ. Buồn vì cái lạnh len
lỏi đây đây gợi nỗi cô đơn, buồn vì có sự chia lìa, tan tác từ hoa cỏ, chim muông tới
con người. Buồn vì có một cái gì như là nỗi nhớ nhung ngẩn ngơ, phảng phất ở
không gian và lòng người.
Hồi ấy, khi bài thơ ra đời (rút trong tập Thơ thơ – 1938) mùa thu là mùa
buồn, tuy thường là nỗi buồn man mác có cái vẻ đẹp và cái nên thơ riêng của nó.
Thực ra đây là một cảm hứng rất tự nhiên và có tính truyền thống về mùa thu của
thơ ca nhân loại (Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản Đà... cũng như Đỗ Phủ, Bạch
Cư Dị...). Bài Đây mùa thu tới cũng nằm trong truyền thống. Nhưng cảnh thu của
thơ Xuân Diệu có cái mới , cái riêng của nó. Ấy là chất trẻ trung tươi mới được
phát hiện qua con mắt “Xanh non” của tác giả, là sức sống của tuổi trẻ và tình yêu,
là cái cảm giác cô đơn “run rẩy” của cái tôi cá nhân biểu hiện niềm khao khát giao
cảm với đời.
Cảm giác chung, linh hồn chung ấy của bài thơ đã được thể hiện cụ thể
qua các chi tiết, các câu thơ, đoạn thơ của tác phẩm.
2/ Đoạn một:
Trong thi ca truyền thống phương Đông, oanh vàng liễu biếc thường để
nói mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu. Người ta dành sen tàn, lá ngô đồng rụng, cúc nở
hoa để diễn tả mùa thu. Xuân Diệu lại thấy tín hiệu của mùa thu trước hết n ơi
những hàng liễu rũ bên hồ.
Trong thơ Xuân Diệu, dường như đầu mối của mọi so sánh liên tưởng là
những cô gái đẹp. Vậy thì những hàng liễu bên hồ, cành mềm, lá mướt dài rũ
xuống thướt tha, có thể tưởng tượng là những thiếu nữ đứng cúi đầu cho những làn
tóc dài đổ xuống song song... Là mái tóc mà cũng là những dòng lệ (lệ liễu).
Những dòng lệ tuôn rơi hàng nối hàng cùng chiều với những áng tóc dài.
Vậy là mùa thu của Xuân Diệu tuy buồn mà vẫn đẹp, và nhất là vẫn trẻ
trung. Ở hai câu đầu của đoạn thơ, nhà thơ khai thác triệt để thủ pháp láy âm để
tạo nên giọng điệu buồn, đồng thời gợi tả cái dáng liễu (hay những áng tóc dài)
buông xuống, rủ mãi xuống. Những “nàng liễu” đứng chịu tang một mùa hè rực rỡ
vừa đi qua chăng?
Tin thu tới trên hàng liễu, nhà thơ như khẽ reo lên “Đây mùa thu tới –
mùa thu tới”. Đàng sau tiếng reo thầm, ta hình dung cặp mắt long lanh, trẻ trung
của nhà thơ. Mùa thu của Xuân Diệu không gợi sự tàn tạ, mà như khoác bộ áo mới
tuy không rực rỡ, nhưng mà đẹp và thật là thơ mộng rất phù hợp với mùa thu: “Với
áo mơ phai dệt lá vàng”.
3/ Ở hai đoạn hai và ba, nhà thơ chủ yếu cảm nhận mùa thu bằng xúc
giác: sương lạnh, gió lạnh. Có lẽ cái lạnh không chỉ đến với nhà thơ bằng xúc giác.
Ông đem đến thêm cho cảnh thu cái run rẩy của tâm hồn mình nữa chăng? Một tâm
hồn rất nhạy cảm với thân phận của hoa tàn, lá rụng, những nhánh cây gầy guộc trơ
trụi... Chúng đang rét run lên trước gió thu! Lại một thành công nữa trong thủ pháp
láy âm “những luồng run rẩy rung rinh lá”.
Cái rét càng dễ cảm thấy ở nơi trống vắng, nhất là cảnh trống vắng ở
những bến đò. Bến đò là nơi lộng gió. Bến đò lại là nơi tụ hội đông vui. Thu về,
gió lạnh, người ta cũng ngại qua lại bên sông. Xuân Diệu đã diển tả cái lạnh bằng
một câu thơ đặc sắc “Đã nghe rét mướt luồn trong gió”. Một chữ “luồn” khiến cái
rét như được vật chất hóa hơn, có sự tiếp xúc da thịt cụ thể hơn.
4/ Đoạn bốn
Nguyễn Du nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ở đây người cũng
buồn mà cảnh cũng buồn. Buồn nhất là sự trống vắng và cảnh chia lìa. Cả bài thơ
gợi ý này, nhưng đến đoạn cuối nhà thơ mới nói trực tiếp như muốn đưa ra một kết
luận chăng:
Mây vẫn từng không chim bay đi
Khi trời u uất hận chia li
Tuy nhiên cảm giác về mùa thu, tâm sự về mùa thu là một cái gì mông
lung, làm sao có thể kết luận thành một ý nào rõ rệt. Vậy thì tốt nhất là nói lửng lơ:
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì?
Lời kết luận nằm ở trong lòng những thiếu nữ đứng tựa cửa bâng khuâng.
Nét mặt các cô thì buồn và cặp mắt các cô thì nhìn ra xa, nghĩa là không nhìn một
cái gì cụ thể – chắc hẳn là đang nhìn vào bên trong lòng mình để lắng nghe những
cảm giác buồn nhớ mông lung khi mùa thu tới. Lời kết luận không nói gì rõ rệt
nhưng lại gợi mở rất nhiều cảm nghĩ cho người đọc.
Trong tập Trường ca, Xuân Diệu từng viết: Trời muốn lạnh nên người ta
cần nhau hơn. Và người nào chỉ có một thân thì cần một người khác (...) Thu, người
ta vì lạnh sắp đến mà rất cần đôi, cho nên không gian đầy những lời nhớ nhung,
những hồn cô đơn thảo ra những tiếng thở dài để gọi nhau”.
Đó phải chăng cũng là tâm trạng của tác giả Đây mùa thu tới và của
những thiếu nữ trong bài thơ này chăng?
Đề 2 : TRÀNG GIANG của Huy Cận
Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận viết nhiều về thiên nhiên, vũ trụ
– Đây là một hồn thơ buồn, nỗi buồn của một con người gắn bó với đất nước, quê
hương, nhưng cô đơn bất lực, thường tìm đến những cảnh mênh mông bát ngát,
hoang vắng lúc chiều tà và đem đối lập nó với những sự vật gợi lên hình ảnh những
thân phận nhỏ nhoi, tội nghiệp, bơ vơ trong tàn tạ và chia lìa.
Bài thơ Tràng giang là một trường hợp tiêu biểu cho những đặc điểm
phong cách nói trên.
1/ Tràng giang nghĩa là sông dài. Nhưng hai chữ nôm na “ sông dài”
không có được sắc thái trừu tượng và cổ xưa của hai âm Hán Việt “tràng giang”.
Với hai âm Hán Việt, con sông trong thơ tự nhiên trở thành dài hơn, trong tâm
tưởng người đọc, rộng hơn, xa hơn, vĩnh viễn hơn trong tâm tưởng người đọc. Một
con sông dường như của một thuở xa xưa nào đã từng chảy qua hàng nghìn năm lịch
sử, hàng nghìn năm văn hóa và in bóng trong hàng nghìn áng cổ thi. Cái cảm giác
Tràng giang ấy lại được tô đậm thêm bởi lời thơ đề là “Bâng khuâng trời rộng nhớ
sông dài” (Nhớ hờ – Lửa thiêng)
2/ Khổ một: Ở hai câu đầu, cảnh vật thực ra tự nó không có gì đáng
buồn. Nhưng lòng đã buồn thì tự nhiên vẫn thấy buồn. Đây là cái buồn tự trong
lòng lan tỏa ra theo những gợn sóng nhỏ nhấp nhô “điệp điệp” với nhau trên mặt
nước mông mênh. Cũng nỗi buồn ấy, tác giả thả trôi theo con thuyền xuôi mái lặng
lẽ để lại sau mình những rẽ nước song song.
Ở hai câu sau, nỗi buồn đã tìm được cách thể hiện sâu sắc hơn trong nỗi
buồn của cảnh: ấy là sự chia lìa của “thuyền về nước lại” và nhất là cảnh ngộ của
một cành củi lìa rừng không biết trôi về đâu giữa bao dòng xuôi ngược. Thử tưởng
tượng: một cành củi khô gầy guộc chìm nổi giữa bát ngát tràng giang... Buồn biết
mấy!
3/ Khổ hai: Bức tranh vẽ thêm đất thêm người. Cái buồn ở đây gợi lên
ở cái tiếng xào xạc chợ chiều đã vãn từ một làng xa nơi một cồn cát heo hút nào
vẳng lại. Có thoáng hơi tiếng của con người đấy, nhưng mơ hồ và chỉ gợi thêm
không khí tàn tạ, vắng vẻ, chia lìa. Hai câu cuối của khổ thơ đột ngột đẩy cao và
mở rộng không gian của cảnh thơ thêm để càng làm cho cái bến sông vắng kia trở
thành cô liêu hơn:
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót.
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
4/ Khổ ba: Cảnh mênh mông buồn vắng càng được nhấn mạnh hơn
bằng hai lần phủ định:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật...
Không có một con đò, không có một cây cầu, nghĩa là hoàn toàn không
bóng người hay một cái gì gợi đến tình người, lòng người muốn qua lại gặp gỡ nhau
nơi sông nước.
Chỉ có những cánh bèo đang trôi dạt về đâu: lại thêm một hình ảnh của
cô đơn, của tan tác, chia lìa.
5/ Khổ bốn: Chỉ có một cánh chim xuất hiện trên cảnh thơ. Xưa nay
thơ ca nói về cảnh hoàng hôn thường vẫn tô điểm thêm một cánh chim trên nền
trời:
Chim hôm thoi thóp về rừng
(Nguyễn Du)
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi.
(Bà Huyện Thanh Quan)
Chim mỏi về rừng tìm chốn trú
(Hồ Chí Minh)
Bài thơ Huy Cận cũng có một cánh chim chiều nhưng đúng là một cánh
chim chiều trong “thơ mới”, nên nó nhỏ nhoi hơn, cô đơn hơn. Nó chỉ là một cánh
chim nhỏ (chim nghiêng cánh nhỏ) trên một nền trời “lớp lớp mây cao đùn núi
bạc”. Và cánh chim nhỏ đang sa xuống phía chân trời xa như một tia nắng chiều rớt
xuống.
Người ta vẫn nói đến ý vị cổ điển của bài thơ. Nó thể hiện ở hình ảnh nhà
thơ một mình trước vũ trụ để cảm nhận cái vĩnh viễn, cái vô cùng của không gian,
thời gian đối với kiếp người. Ý vị cổ điển ấy lại được tô đậm thêm bằng một tứ thơ
Đường.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Tác giả Tràng giang tuy nói “không khói hoàng hôn” nhưng chính là đã
bằng cách ấy đưa thêm “khói hoàng hôn Thôi Hiệu” vào trong bài thơ của mình để
làm giàu thêm cái buồn và nỗi nhớ của người lữ thứ trước cảnh tràng giang.
6/ Mỗi người Việt Nam đọc Tràng giang đều liên tưởng đến một cảnh
sông nước nào mình đã đi qua. Có một cái gì rất quen thuộc ở hình ảnh một cành
củi khô hay những cánh bèo chìm nổi trên sóng nước mênh mông, ở hình ảnh
những cồn cát, làng mạc ven sông, ở cảnh chợ chiều xào xạc, ở một cánh chim
chiều.
Một nhà cách mạng hoạt động bí mật thời Pháp thuộc mỗi lần qua sông
Hồng lại nhớ đến bài Tràng giang. Tình yêu đất nước quê hương là nội dung cảm
động nhất của bài thơ.
Còn “cái tôi Thơ mới” thì tất nhiên là phải buồn. Thơ Huy Cận lại càng
buồn. Buồn thì cảnh không thể vui. Huống chi lại gặp cảnh buồn. Nhưng trong nỗi
cô đơn của nhà thơ, ta cảm thấy một niềm khát khao được gần gũi,hòa hợp, cảm
thông giữa người với người trong tình đất nước , tình nhân loại – niềm khát khao có
một chuyến đò ngang hay một chiếc cầu thân mật nối liền hai bờ sông nước Tràng
giang.
Đề 3 : ĐÂY THÔN VĨ DẠ – Hàn Mặc Tử
Căn cứ vào bản thân văn bản thơ, ta thấy nổi lên hàng đầu là hình ảnh Huế đẹp và
thơ. Bài thơ gồm 3 khổ, 12 câu thất ngôn. Mỗi khổ thơ dường như được dành để nói
về một phương diện của Huế.
1/ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Câu hỏi làm sống dậy kỷ niệm về
thôn Vĩ, nói rộng hơn về xứ Huế, trong tâm hồn đằm thắm và thơ mộng của Hàn
Mặc Tử.
Cảnh buổi sớm nơi thôn Vĩ: Nắng mới lên, chiếu sáng, lấp loáng những
hàng cau. Vĩ Dạ có những hàng cau thẳng tắp thân cao vượt lên trên các mái nhà
và những tán cây. Những tàu cao con bóng loáng sương đêm như hút lấy ánh sáng
lúc ban mai.
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” là câu thơ không có gì đặc sắc tân kỳ
lắm về mặt sáng tạo hình ảnh và từ ngữ, nhưng càng nghĩ càng thấy tả những vườn
cây tươi tốt, xum xuê của Vĩ Dạ cũng chỉ có thể nói như thế mà thôi. Mỗi ngôi nhà
ở Vĩ Dạ, nói chung ở Huế, được gọi là những nhà vườn. Vườn bọc quanh nhà, gắn
với ngôi nhà xinh xinh thường là nhà trệt, thành một cấu trúc thẩm mĩ chặt chẽ.
Xuân Diệu gọi mỗi cấu trúc ấy là một bài thơ tứ tuyệt. Vì thế vườn được chăm sóc
chu đáo – Những cây cảnh và cây ăn quả đều xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ, dường
như được cắt tỉa, lau chùi, mài giũa thành những cành vàng lá ngọc. Sự ví von ở
đây được nâng lên theo hướng cách điệu hoá. Khuynh hướng cách điệu hóa được
đẩy lên cao hơn nữa ở câu thứ tư: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Đã gọi là cách
điệu hóa thì không nên hiểu theo nghĩa tả thực, tuy rằng cách điệu hoá cũng xuất
phát từ sự thực: thấp thoáng đằng sau những hàng rào xinh xắn, những khóm trúc,
có bóng ai đó kín đáo, dịu dàng, phúc hậu.
2/ Trong khổ thơ thứ hai, dòng kỷ niệm vẫn tiếp tục. Nhớ Huế không
thể không nhớ dòng sông Hương.
Dòng sông Hương, gió và mây. Con thuyền ai đó đậu dưới ánh trăng nơi
bến vắng... Bốn câu thơ như diễn tả cái nhịp điệu nhẹ nhàng, chậm rãi của Huế.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Cái tinh tế ở đây tả làn gió thổi rất nhẹ, không đủ cho mây bay, không đủ
cho nước gợn, nhưng gió vẫn run lên nhè nhẹ cho hoa bắp lay. Tất nhiên đây phải
là cảnh sông Hương chảy qua Vĩ Dạ lững lờ trôi về phía cửa Thuận. Đúng là nhịp
điệu của Huế rồi.
Hai câu tiếp theo đầy trăng. Cảnh trong kỷ niệm nên cảnh cũng chuyển
theo lôgich của kỷ niệm. Cảnh sông Hương không gì thơ mộng hơn là dưới ánh
trăng – Hàn Mặc Tử cũng không mê gì hơn là mê trăng. Trăng trở thành nhân vật
có tính huyền thoại trong nhiều bài thơ của ông. Ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ
trụ, tạo nên một không khí hư ảo, như là trong mộng:
Thuyền ai đậu bến sông trăng gió
Có chở trăng về kịp tối nay?
Phải ở trong mộng thì sông mới có thể là “sông trăng” và thuyền mới có
thể “chở trăng về” như một du khách trên sông Hương... Hình ảnh thuyền chở trăng
không gì mới, nhưng “sông trăng” thì có lẽ là của Hàn Mặc Tử.
3/ Khổ thứ ba: Người xưa nơi thôn Vĩ.
Nhớ cảnh không thể không nhớ người. Người phù hợp với cảnh Huế
không gì hơn là những cô gái Huế. Ai làm thơ về Huế mà chẳng nhớ đến những cô
gái này (Huế đẹp và thơ của Nam Trân. Dửng dưng của Tố Hữu...)
Những khổ thơ dường như mở đầu bằng một lời thốt ra trước một hình ảnh
ai đó tuy mờ ảo nhưng có thực:
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Mờ ảo vì “khách đường xa” và “nhìn không ra” nhưng có thực vì “áo em
trắng quá”. Hình ảnh biết bao thân thiết nhưng cũng rất đỗi xa vời. Xa, không chỉ là
khoảng cách không gian mà còn là khoảng cách của thời gian, và mối tình cũng xa
vời – vì vốn xưa đã gắn bó, đã hứa hẹn gì đâu. Vì thế mà “ai biết tình ai có đậm
đà?”
“Ai” là anh hay là em? Có lẽ là cả hai. Giữa hai người (Hàn Mặc Tử và
cô gái mà nhà thơ đã từng thầm yêu trộm nhớ) là “sương khói” của không gian, của
thời gian, của mối tình chưa có lời ước hẹn, làm sao biết được có đậm đà hay
không? Lời thơ cứ bâng khuâng hư thực và gợi một nỗi buồn xót xa.
Nhưng khổ thơ không chỉ minh hoạ cho mối tình cụ thể giữa nhà thơ và
người bạn gái. Đặt trong dòng kỷ niệm về Huế, ta thấy hiện lên trong sương khói
của đất kinh đô hình ảnh rất đặc trưng của các cô gái Huế. Những cô gái Huế
thường e lệ quá, kín đáo quá nên xa vời, hư ảo quá. Những cô gái ấy khi yêu, liệu
tình yêu có đậm đà chăng? Đây không phải là sự đánh giá hay trách móc ai. Tình
yêu càng thiết tha, càng hay đặt ra những nghi vấn như vậy.
Tình trong thơ bao giờ cũng là tình riêng. Nhưng tình riêng chỉ có ý nghĩa
khi nói được tình của mọi người. Phép biện chứng của tình cảm nghệ sĩ là như vậy.
Đối với sự tiếp nhận của người đọc, nổi lên trước hết trong khổ thơ này, cũng như
trong toàn bộ bài thơ vẫn là hình ảnh thơ mộng và đáng yêu của cảnh và người xứ
Huế.
Đề 4 : TỐNG BIỆT HÀNH của Thâm Tâm
Trong phong trào Thơ mới của những nhà thơ sáng tác không nhiều nhưng ấn tượng
để lại rất sâu đậm. Thâm Tâm là một trường hợp như vậy. Nét riêng trong thơ ông
là giọng điệu trầm hùng và rắn rỏi, nói lên nỗi day dứt về thế sự và con người.
1/ Tống biệt hành là một bài thơ hay. Đề tài “ Tống biệt” là một đề tài
quen thuộc trong kho tàng thơ ca Việt Nam và thơ ca thế giới. Thâm Tâm đã chọn
đề tài này và viết theo thể hành, một thể thơ cổ phong có trước thơ Đường luật, viết
khá tự do, phóng khoáng. Ngoài Tống biệt hành, ông còn viết một số bài thơ khác
theo thể thơ này như Can trường hành, Vọng nhân hành, Tạm biệt hành.
Đề tài không mới, thể thơ cổ, nhưng tác giả lại đưa được vào đó cái
không khí của thời đại mình đang sống, cái hoài bão của con người đương thời nên
đã tạo ra nét độc đáo của bài thơ.
Bài thơ diễn tả tâm trạng và suy tư của “người tiễn” sau khi tiễn “người
đi” (ly khách) ra đi tìm “chí lớn”. “Người tiễn” và “người đi” là hai người bạn cùng
chí hướng, ôm ấp chí tung hoành, không muốn sống tầm thường. “Ta” trong bài thơ
này là người tiễn; “ly khách”, “người” là “người ra đi”.
2/ Đoạn đầu bài thơ (“Đưa người... mẹ già cũng đừng mong”) miêu tả
nỗi lòng người đưa tiễn và sự quyết chí ra đi của người đi.
Bốn câu mở đầu cho thấy nỗi lòng xao xuyến thảng thốt của “người tiễn”
khi “tống biệt” người ra đi. Ở đây có nỗi xúc động phấp phỏng, có nỗi buồn bã lo
âu (Sao có tiếng sóng ở trong lòng. Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong). Tại sao
người đưa tiễn lại có tâm trạng ấy? Bởi lẽ người đưa tiễn hiểu rằng mình đang tiễn
một người quyết chí ra đi mà không thể khuyên can, không thể níu kéo. Người ra đi
quyết hiến thân cho “ chí lớn”, quyết không trở về với “hai bày tay không”. Cho
nên “không bao giờ nói trở lại”, “ba năm mẹ già cũng đừng mong”. Cuộc “tống
biệt” có thể thành ra cuộc vĩnh biệt. Con đường nhỏ ít người đi, đầy khó khăn trắc
trở cuốn hút người đi rồi, đừng mong chi ngày gặp lại. Cho nên dù là cùng chí
hướng, dù không phản đối việc ra đi, mà người tiễn vẫn không khỏi thảng thốt, tái
tê kêu lên “Ly khách! ly khách! Con đường nhỏ”. Người tiễn gọi theo người ra đi
như muốn níu kéo lại cái hình bóng dáng khuất dần trên con đường nhỏ.
3/ Đoạn hai cũng là đoạn cuối bài thơ (Ta biết người buồn... như hơi
rượu say)... Sau khi “người đi” đã đi rồi, người tiễn nhớ lại người ra đi và nỗi lòng
“người ra đi” hiện lên trong sự nhớ lại đó.
Nếu như ở đoạn trước “người ra đi” được miêu tả có vẻ nhất quyết (“Một
giã gia đình, một dửng dưng”) thì ở đoạn này tác giả miêu tả “người ra đi” cũng đầy
day dứt: “Ta biết người buồn chiều hôm trước” lại ”biết người buồn sáng hôm nay”
nữa, chứ không phải như cái vẻ “dửng dưng” lúc ra đi.
”Ta biết người buồn chiều hôm trước” vì một chị, rồi hai chị khóc hết
nước mắt ”khuyên nốt em trai dòng lệ sót”. Có gì làm duyên cớ đều được đưa ra
khuyên nốt, khuyên hết. Dòng lệ sót là những giọt nước mắt cuối cùng. Hết chị này
đến chị kia, hết giọt nước mắt này đến giọt nước mắt khác đã chảy đến cạn kiệt để
khuyên em ở lại. Trước một tình cảm như thế ta hiểu người buồn lắm. Đó chính là
một nỗi cảm thông.
“Ta biết người buồn sáng hôm nay” khi “em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc”,
“gói tròn thương tiếc” trong chiếc khăn tay đưa tặng... Như thế, hết “chiều hôm
trước” đến “sáng hôm sau”, hết chị rồi đến em, tất cả những gì yêu thương ruột rà
máu mủ đều muốn giữ lại người ra đi .
Nhưng người ra đi vẫn dứt áo ra đi. “Dòng lệ sót” của chị, “đôi mắt biếc”
của em, rồi mẹ già “nắng ngã cành dâu” cũng không thể ngăn cản được, níu kéo
được sự quyết chí ra đi của người đi. Khi người đi đã đi rồi, người tiễn vẫn như chưa
dám tin:
Người đi ? Ừ nhỉ, người đi thực!
“Người đi ?” với một dấu chấm hỏi như ngỡ ngàng: người đi thật rồi sao?
Hai tiếng “ừ nhỉ” xen vào đây như một sự bàng hoàng đến ngẩn ngơ. “Thế là người
đi thực” rồi! Người tiễn biết người ra đi đã đi thực rồi, đi thực với một sự gắng
gượng, sự dằn lòng đến đau đớn:
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say
“Thà coi như” lặp lại ba lần với ba người thân yêu nhất: một sự lựa chọn
đau đớn, một sự “dứt áo” nặng trĩu lòng, chứ nào đâu phải cố làm ra vẻ “dửng
dưng” như ở trên kia.
4/ “Tống biệt hành” là một bài thơ “tống biệt”; có kẻ ở người đi. Người
ở, lòng xao xuyến tái tê; người đi cũng đau đớn trĩu lòng. Nhưng dù sao người đi
cũng quyết chí lên đường, để thực hiện chí lớn của mình, chứ nhất định không đắm
mình trong sự ngột ngạt, tù túng. Cái quyết chí “ tống biệt” ấy làm cho bài thơ thật
giàu chất lãng mạn và đầy hào khí.
Trong Thi nhân Việt Nam nhà phê bình Hoài Thanh thật tinh tế khi cho
rằng: “Trong bài Tống biệt hành thấy sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ
cổ. Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc, không mềm mại, uyển
chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. Nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu
của thời đại”. Bài thơ khó hiểu vì từ ngữ trong thơ hàm súc, dồn nén, nhiều chỗ tĩnh
lược; giữa các dòng thơ có nhiều khoảng trống tạo thành một vẻ đẹp bí ẩn và cổ
kính rất hiếm thấy trong thơ ca hiện đại.
Đề 5 : Phân tích bức tranh phố huyện nghèo trong truyện ngắn
“Hai đứa trẻ” – Thạch Lam
“Hai đứa trẻ” tuy chưa phải là truyện ngắn hay nhất nhưng lại khá tiêu biểu cho
phong cách nghệ thuật của Thạch Lam: bình dị, nhẹ nhàng mà tinh tế, thâm thuý.
Truyện dường như chẳng có gì: hầu như không có cốt truyện, chẳng có xung đột
gay cấn, chắng có gì đặc biệt cả. “Hai đứa trẻ” chỉ là một mảng đời thường bình
lặng của một phố huyện nghèo từ lúc chiều xuống cho tới đêm khuya, với hương vị
màu sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng trống thu không cất trên một chiếc chòi nhỏ,
một ráng chiều ở phía chân trời, một mùi vị âm ẩm của đất, tiếng chó sủa, tiếng
ếch nhái, tiếng muỗi vo ve... những âm thanh của mấy người bé nhỏ, thưa thớt, một
quán nước chè tươi, một gánh hàng phở, một cảnh vãn chợ chiều với vỏ nhãn, vỏ
thị, rác rưởi và những đứa trẻ con nhà nghèo đang cúi lom khom tìm tòi, nhặt
nhạnh, một đoàn tàu đêm lướt qua... và nỗi buồn mơ hồ với những khao khát đến
tội nghiệp của “Hai đứa trẻ”
Chuyện hầu như chỉ có thế.
Nhưng những hình ảnh tầm thường ấy, qua tấm lòng nhân hậu, qua ngòi
bút tinh tế, giàu chất thơ của Thạch Lam lại như có linh hồn, lung linh muôn màu
sắc, có khả năng làm xao động đến chỗ thầm kín và nhạy cảm nhất của thế giới
xúc cảm, có khả năng đánh thức và khơi gợi biết bao tình cảm xót thương, day dứt,
dịu dàng, nhân ái.
Đó là truyện của “Hai đứa trẻ” nhưng cũng là truyện của cả một phố
huyện nghèo với những con người bé nhỏ thưa thớt, tội nghiệp đang âm thầm đi
vào đêm tối.
Ít có tác phẩm nào hình ảnh đêm tối lại được miêu tả đậm đặc, trở đi trở
lại... như một ám ảnh không dứt như trong truyện “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam:
tác phẩm mở đầu bằng những dấu hiệu của một “ngày tàn” và kết thúc bằng một
“đêm tịch mịch đầy bóng tối”, ở trong đó, màu đen, bóng tối bao trùm và ngự trị tất
cả: đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối, tối hết cả, con đường
thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lạ
File đính kèm:
- van-tap1.pdf