Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Giang

LỜI NÓI ĐẦU

1: Sự cần thiết của đề tài.

 Hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã trải qua quá trình 50 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, ngày càng đóng vai trò qua trọng đối với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước đặc biệt là sự kiện Việt nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, những năm ngần đây bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế thị trường đã bộc lộ những mặt trái của nó còn nhiều vấn đề phát sinh cần nghiên cứu trong hoạt động của Ngân hàng, hoạt động kinh đoanh của Ngân hàng cũng không tránh khỏi sự tác động bởi những mặt trái của thị trường.

 Kinh doanh dịch vụ tiền tệ, tín dụng Ngân hàng là một ngành kinh doanh đặc biệt và chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Tuy nhiện trong nền kinh tế thị trường hiện nay làm thế nào để hạn chế thấp nhất về rủi ro tín dụng. Đầu tư tín dụng, làm công tác tín dụng thật sự là công cụ, là đòn bẩy giúp cho nền kinh tế phát triển đây quả là một bài toán nan giải. Do đó việc nâng cao tính khả thi của công tác nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng có một ý nghĩa rất quan trọng đối với Ngân hàng thương mại Việt nam. Nó tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh được an toàn, hiệu quả hơn trong bối cảnh Việt nam đã trở thành một thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO.

 Trong quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Giang. Xuất phát từ những nhận thức và thực trạng của hiệu quả hoạt động tín dụng của nó đối với Ngân hàng cũng như với nền kinh tế hiện nay. Tôi đi sâu vào tìm hiểu và lựa chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Giang”.

 

doc69 trang | Chia sẻ: thanhthanh29 | Lượt xem: 480 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU 1: Sự cần thiết của đề tài. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã trải qua quá trình 50 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, ngày càng đóng vai trò qua trọng đối với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước đặc biệt là sự kiện Việt nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, những năm ngần đây bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế thị trường đã bộc lộ những mặt trái của nó còn nhiều vấn đề phát sinh cần nghiên cứu trong hoạt động của Ngân hàng, hoạt động kinh đoanh của Ngân hàng cũng không tránh khỏi sự tác động bởi những mặt trái của thị trường. Kinh doanh dịch vụ tiền tệ, tín dụng Ngân hàng là một ngành kinh doanh đặc biệt và chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Tuy nhiện trong nền kinh tế thị trường hiện nay làm thế nào để hạn chế thấp nhất về rủi ro tín dụng. Đầu tư tín dụng, làm công tác tín dụng thật sự là công cụ, là đòn bẩy giúp cho nền kinh tế phát triển đây quả là một bài toán nan giải. Do đó việc nâng cao tính khả thi của công tác nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng có một ý nghĩa rất quan trọng đối với Ngân hàng thương mại Việt nam. Nó tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh được an toàn, hiệu quả hơn trong bối cảnh Việt nam đã trở thành một thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Trong quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Giang. Xuất phát từ những nhận thức và thực trạng của hiệu quả hoạt động tín dụng của nó đối với Ngân hàng cũng như với nền kinh tế hiện nay. Tôi đi sâu vào tìm hiểu và lựa chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Giang”. 2: Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm phản ánh hiệu quả của hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Tỉnh Hà Giang, qua đó tìm hiểu những mặt tích cực và những mặt còn hạn chế từ đó đưa ra một số giải pháp để nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng hơn nữa. 3: Đối tượng phạm vị nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là “ Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Giang” trong đó tập chung phân tích tình hình cụ thể của công tác này, những mặt đã và đang làm được để đưa ra những giải pháp hạn chế và tháo gỡ những khó khăn. 4: Phương pháp nghiên cứu. Xuất phát từ những nhận thức và các quan điểm, lý luận, đặc điểm của hoạt động của công tác tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Giang, bài viết có sử dụng các phương pháp điều tra như: Chọn mẫu, phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê để làm rõ thêm những nội dung cơ bản của đề tài cần nghiên cứu. 5: Kết cấu của đề tài. Ngoài phần mở bài và kết luận. Đề tài gồm có 3 chương. Chương I: Hiệu quả hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại. Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Giang. Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Giang. Chương I HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1: HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠi NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1.1.1: Khái niệm hoạt động tín dụng. * Cho vay: Ngân hàng Nhà nước cho các tổ chức tín dụng là Ngân hàng vay ngắn hạn dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định. Đó là Ngân hàng Nhà nước thực hiện việc tái cấp vốn cho Ngân hàng theo những hình thức sau. A: Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng. B: Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá trị ngắn hạn khác. C: Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá trị ngắn hạn khác. Trong trường hợp đặc biệt, khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, Ngân hàng Nhà nước cho vay đối với các tổ chức tín dụng tạm thời mất khả năng chi trả, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống các tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước không cho vay đối với các cá nhân và tổ chức không phải là tổ chức tín dụng quy định nói trên. * Bảo lãnh: Ngân hàng Nhà nước không bảo lãnh cho các tổ chức, cá nhân vay vốn, trừ trường hợp có chỉ định của Thủ tướng Chính phủ về việc bảo lãnh cho tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài. * Tạm ứng cho ngân sách nhà nước: Ngân hàng Nhà nước tạm ứng cho ngân sách Trung ương để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Khoản tạm ứng này phải được hoàn trả trong năm ngân sách, trừ trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quy định. * Góp vốn mua cổ phần: Ngân hàng Nhà nước không được góp vốn mua cổ phần của các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp khác. 1.1.2: Bản chất hoạt động tín dụng. * Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở thành phần lớn, các Ngân hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của Ngân hàng. Tín dụng ngắn hạn, trung dài hạn. Là loại tín dụng ngắn hạn thời hạn từ 12 tháng trở xuống trung hạn trên 1 năm đến 5 năm, dài hạn trên 5 năm. Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ mang tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn, phân chia tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết tới tính an toàn và sinh lợi của tài sản. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại thường cao hơn tín dụng trung và dài hạn, các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng. Tín dụng trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắn và khan hiếm hơn, có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới tỷ lệ này như kì hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh khoản của Ngân hàng, khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trong trung và dài hạn.. Theo hình thức tài trợ tín dụng được chia thành cho vay bảo lãnh, cho thuê: Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng, cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu sau. Doanh số cho vay trong kì là tổng số tiền mà Ngân hàng đã cho vay trong kì. Dư nợ cuối kì là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kì, khi lập các báo cáo tài chính (thời điểm), cho vay được ghi dưới hình thức dư nợ một số ngân hàng thường ghi giảm dư Nợ phần trích lập dự phòng tổn thất hoặc lãi được nhận trước, các ngân hàng cũng ghi như vậy đối với chiến khấu. Cho thuê tài sản trung và dài hạn, được ghi vào khoản mục tài sản theo giá trị tài sản cho thuê trừ đi phần tiền thuê ngân hàng đã thu được ( dư Nợ cho thuê), bảo lãnh được ghi vào tài sản ngoại bảng, đó là giá trị mà ngân hàng cam kết trả thay khách hàng của mình. Phần bảo lãnh ngân hàng phải thực hiện chi trả được ghi vào tài sản nội bảng ( mục cho vay bắt buộc, tính vào nợ quá hạn). Tín dụng được chia theo đảm bảo: Không có đảm bảo, có đảm bảo bằng tài sản thuế chấp, cầm cố. Về nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có đảm bảo. Tuy nhiên ngân hàng chỉ ghi vào hợp đồng tín dụng loại đảm bảo mà Ngân hàng có thể bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả nợ. Do đó các khoản tài trợ có đảm bảo trên quan điểm của ngân hàng là các khoản tài trợ có nguồn thu nợ thứ hai từ đảm bảo. Các khoản tài trợ không ngắn với hợp đồng đảm bảo được ngân hàng xếp vào tài trợ không đảm bảo, việc phân chia này không nói lên tính an toàn của khoản tài trợ của Ngân hàng, mà chỉ giúp ngân hàng theo dõi các hợp đồng về đảm bảo, để đưa ra các biện pháp xử lí đảm bảo khi cần thiết. + Tín dụng phân loại theo rui ro:Tín dụng bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá trung bình và thấp. Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ các căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn thường chia tới 10 bậc thang bậc rủi ro tín dụng, tức là xếp loại tín dụng theo các dâu hiệu rủi ro từ thấp đến cao, cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại các khoản mục tín dụng, dự trữ quỹ cho các khoản tín dụng rủi ro cao và đánh giá chất lượng tín dụng. Tín dụng theo ngành kinh tế ( công, nông nghiệp..) hoặc theo đối tượng tài trợ (hàng hoá hoặc bất động sản) hoặc theo mục đích ( sản xuất, tiêu dùng). 1.1.3: Phân loại tín dụng. + Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của Ngân hàng. Sau đây là có một số cách phân loại sau: 1.1: Phân loại theo thời gian ( thời hạn tín dụng ) phân chia theo thời gian có ý nghĩa liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng, theo thời gian, tín dụng được phân thành. - Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống. - Tín dụng trung hạn: Từ 1 năm đến 5 năm. - Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm. - Tài sản lưu động thường có vòng quay trên 1 vòng trong một năm. Do vậy, Ngân hàng cấp tín dụng ngắn hạn với thời hạn từ 1 năm trở xuống. Các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn có nhu cầu được tài trợ từ trên 1 năm tới 5 năm. Công trình xây dựng như nhà cửa, sân bay,cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu có yêu cầu tài trợ trên 5 năm, có thể tới 10 năm hoặc 30 năm. Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể như ( ngày, tháng, năm) và ghi trong hợp đồng tín dụng là thời hạn mà trong đó Ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của Ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về. Các khoản cho vay không xác định trước thời hạn như cho vay luân chuyển. Khách hàng thoả thuận với Ngân hàng về việc Ngân hàng được quyền trích tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có tiền. Việc xác định trước thời hạn thu nợ trong trường hợp này có thể gây ra khó khăn cho khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm. Thời gian chiết khấu thương phiếu là thời gian còn lại của thương phiếu. Thời hạn bảo lãnh là thời gian có hiệu lực của bảo lãnh được thoả thuận ghi trong hợp đồng bảo lãnh. Nếu là cho thuê, thời gian được tính từ lúc Ngân hàng giao tài sản cho khách hàng đến lúc khách hàng hoàn trả đủ tiền thuê. * Phân loại theo hình thức: Gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê. Chiết khấu thương phiếu là việc Ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của Ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nợ) về mặt pháp lý thì Ngân hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi quyền, tuy nhiên đối với Ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi như là hoạt động tín dụng. Ngân hàng tuy ứng tiền cho người bán, song thực chất là thay thế người mua trả tiền trước cho người bán. Cho vay là việc Ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Bảo lãnh là việc Ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền song Ngân hàng đã cho khách sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Cho thuê là việc Ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định, sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho Ngân hàng. * Phân loại theo tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo cho các khoản tín dụng cho phép Ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ. Tín dụng có thể được phân chia thành tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng, có đảm bảo bằng thuế chấp, cầm cố tài sản. Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc có khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho Ngân hàng. Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là những khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xẩy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà Ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng cũng có thể không cần tài sản đảm bảo. Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu Ngân hàng và khách hàng phải kí tiếp hợp đồng đảm bảo, Ngân hàng phải kiểm tra, đành giá được tình trạng của tài sản đảm bảo ( quyến sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả năng tài chính của người thứ ba ) có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc khả năng bảo quản tài sản đảm bảo. * Phân loại tín dụng theo rủi ro. Để phân loại theo tiêu thức này Ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chỉ ra loại rủi ro, một số Ngân hàng lớn, chia lớn thường chia tới 10 thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản, bao gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay bảo lãnh chứng khoán. Cách phân loại này giúp Ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời. - Tín dụng lành mạnh. Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao. - Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp nhiều thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính. Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoả nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn Nợ quá hạn khó đòi: Là nợ quá lâu, khả năng trả nợ rất kém , tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì.. * Phân loại khác. Theo nghành kinh tế ( công, nông nghiêp) Theo đối tượng tín dụng ( tài sản lưu động, tài sản cố định.) Theo mục địch ( sản xuất, tiêu dùng ). Cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên mô hoá trong cấp tín dụng của Ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các Ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thẻ duy trì những lĩnh vực mà Ngân hàng có lợi thế. 1.1.4: Các nguyên tắc tín dụng. + Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại dự trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này làm cụ thể hoá trong các qui định của Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại. Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn ( gốc) và lãi với thời gian xác định. Các khoản tín dụng của Ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản Ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết. Do vậy Ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để Ngân hàng tồn tại và phát triển. Khách hàng phải cam kết sử dụng, tín dụng theo mục đích được thoả thuận với Ngân hàng, không trái với các quy định khác của Ngân hàng cấp trên. Luật pháp qui định phạm vi hoạt động cho các Ngân hàng. Bên cạnh đó mỗi Ngân hàng có thể ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo Ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái pháp luật và việc tài trợ đó là phù hợp với cương lĩnh của Ngân hàng. Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án ( hoặc dự án ) có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng có khả năng thu hồi được vốn đầu tư và lãi để trả nợ Ngân hàng. Các khoản tài trợ của Ngân hàng phải ngắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, Ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay. 1.1.5: Quy trình tín dụng. Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng, các Ngân hàng thường đặt ra qui trình phân tích tín dụng. Đó chính là các bước (hoặc nội dung công việc ) mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên quan trong Ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng. Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng. Đây là bước quan trọng nhất, nó quyết định chất lượng của phân tích tín dụng, nội dụng chủ yếu là thu nhập và sử lý các thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay. Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại những thoả thuận giữa người nhận tài trợ (khách hàng) và Ngân hàng, với nội dụng chủ yếu là Ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng ( hoặc hạn mức tín dụng) trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính chất pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải tuân thủ các điều khoản của các luật, các quy định. Do vậy cả Ngân hàng lẫn khách hàng đều cần phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi ký kết hợp đồng tín dụng. Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng. Sau khi hợp đồng tín dụng đã kí kết, Ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền ( hoặc thanh toán tiền hàng) cho khách hàng như thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng, Ngân hàng kiếm soát khách hàng: Sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ hay không? Quá trình sản suất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ? quá trình này cho phép thông tin phản ánh có chiều hướng tốt, cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo. Ngược lại, khi chất lượng khoản cho vay bị đe dọa, Ngân hàng cần có các biện pháp xử lý kịp thời, Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân, nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng, Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ xung tài sản thuế chấp, đồng thời giảm số tiền vay . Khi thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Đối với Ngân hàng đây là bước đi nguy hiểm. Do vậy cho tài trợ ngắn liền với kiểm soát khách hàng giúp Ngân hàng ngăn chặn các ý đồ sử dụng tiền vay không đúng mục đích của khách hàng. Đây cũng là quá trình Ngân hàng thu thập thêm các thông tin bổ sung cho các thông tin ở bước 1 và đồng thời ra các quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng xấu. Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới. Quan hệ tín dụng kết thúc khi Ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn và các khoản tín dụng an toàn. Một số trường hợp, các khoản tín dụng đã không hoàn trả hoặc không hoàn trả đủ đúng hạn. Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho Ngân hàng cho thấy các “ trục trặc” trong hoạt động của khách hàng. Việc xem xét, tìm hiểu nguyên nhân là rất quan trọng để giúp Ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan đến tính an toàn của khoản tín dụng. Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo Ngân hàng, cố tình nợ nần dây dưa, hoặc làm ăn kém không còn phương pháp cứu vãn Ngân hàng áp dụng phương pháp thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi khoản nợ, bao gồm phong toả và bán các tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi. Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính, song vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để trả nợ, Ngân hàng thường áp dụng phương pháp khai thác, bao gồm gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm. 1.2: Hiệu quả hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại 1.2.1: Khái niệm hiệu quả tín dụng. Hiệu quả hoạt động tín dụng là hiệu quả của các khoản cho vay của Ngân hàng thương mại các khoản cho vay khi khách hàng sử dụng một cách có hiệu quả cao trong hoạt động sản suất kinh doanh, tạo ra số tiền lớn hơn, thông qua Ngân hàng thu hồi cả gốc và lãi còn doanh nghiệp có thể trả nợ bù đắp chi phí và có thể thu được lợi nhuận, điều này có nghĩa là Ngân hàng tạo ra được hiệu quả kinh tế vừa tạo ra được hiệu quả xã hội. Đối với nền kinh tế hiệu quả hoạt động tín dụng được đánh giá cao kinh nó thúc đẩy sản xuất kinh doanh giúp cho các mặt hàng được lưu thông, qua đó làm cho nền kinh tế ngày càng phát triển, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động giúp cho quá trình cơ cấu lại ngành diễn ra một cách thuận lợi. Đối với khách hành hiệu quả tín dụng được đánh giá cao khi nó giúp đáp ứng như cầu vốn tạm thời cũng như nguồn vố dài hạn cho doanh nghiệp. Nó còn đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không bị gián đoạn, giúp cho doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất tăng lên. Đối với Ngân hàng hiệu quả hoạt động tín dụng được thể hiện ở việc Ngân hàng sau khi cho vay có thu hồi được vốn vay ( gốc và lãi) khi hết hạn hay không. Ngân hàng luôn quan tâm tới mức độ an toàn của các khoản vay. Trong đó một khoản vay khi đến hạn mà không thu hồi được nợ là rất thấp thì đó là khoản vay kém an toàn. Một Ngân mà có nhiều khoản vay kém chất lượng thì khả năng thua lỗ và phá sản là rất lớn. 1.2.2: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng. Mỗi một Ngân hàng trong quá trình hoạt động đều hướng tới hai mục tiêu chính là đảm bảo an toàn và khả năng sinh lời. Bên cạnh đó, việc thoả mãn tối đa nhu cầu về vốn của khách hàng cũng là mong muốn của Ngân hàng. Muốn đánh giá xem hiệu quả của hoạt động cho vay của một Ngân hàng có tốt hay không thì cần phải xem liệu nó có đạt được những hiệu quả đề ra hay không. Sau đây là một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng. Các chỉ tiêu về định tính: Ngân hàng cần xây dựng một quy trình cho vay hợp lý, thực hiện quy trình này không bỏ qua bất kỳ một bước nào và phải tuân thủ các quy định và các chính sách về cho vay do Ngân hàng nhà nước Việt nam đề ra. Ngân hàng phải thực hiện phân tán rủi ro thông qua việc đa đạng hoá các khoản vay bằng cách phân ra làm nhiều loại như khoản vay ngắn hạn, trung hoặc dài hạn, khoản vay tài sản đảm bảo hoặc không có tài sản đảm bảo. Đa dạng hoá các đối tượng khách hàng vay như cho vay các tổng công ty lớn, cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho các cá nhân vay.Như vậy vừa giúp cho Ngân hàng giảm thiểu rủi ro, vừa giúp đa dạng hoá các ngành nghề trong nền kinh tế. 1.2.3: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng. + Hiệu quả hoạt động cho vay của Ngân hàng không những bị ảnh hưởng bởi chính bản thân Ngân hàng mà còn bị ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố bên ngoài khác như: Sự phát triển của nền kinh tế, chế độ chính trị, văn hoá xã hội, môi trường pháp lý, các điều kiện tự nhiên, và đặc biệt là khách hàng đi vay. Được thể hiện qua các nhân tố sau đây. Nhân tố chủ quan: Nhân tố chủ quan nằm trong nội tại Ngân hàng. Đó là các chính sách tín dụng, cơ cấu tổ chức, cách thức quản lý, chất lượng cán bộ Ngân hàng, quy trình cho vay, công nghệ và thiết bị Ngân hàng Điều này làm ảnh hưởng tới tất cả các hiệu quả hoạt động cho vay. Chính sách tín dụng của Ngân hàng thương mại.( NHTM). Hoạt động chủ yếu của NHTM chính vì tầm qua trọng của nó, hoạt động này cần phải được thực hiện theo một chính sách rõ ràng, đó là chính sách tín dụng. Theo sách Ngân hàng thương mại của PGS.TS Phan Thị Thu Hà, Chính sách tín dụng phản ánh một cương lĩnh tài trợ của một Ngân hàng trở thành hướng dẫn chung cho các cán bộ tín dụng và các nhân viên Ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng tạo sự thống nhất chung trong hoạt động nhằm hạn chế rui ro và nâng cao khả năng sinh lời. Mọi Ngân hàng đều mong muốn có một chính sách tín dụng hoàn thiện và đúng đắn, qua đó nâng cao chất lượng tín dụng để thu hút được nhiều khách hàng và làm cho lợi nhuận của Ngân hàng được tăng lên. Khách hàng đi vay rất là đa dạng, đó có thể là các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cơ quan đơn thể, hoặc các cá nhân.. Với mỗi một bộ phận khách hàng khác nhau, vì thế Ngân hàng phải có những chính sách tín dụng riêng hợp lý, có như vậy mới đảm bảo được hiệu quả cho vay. Tăng cường thu thập thông tin từ bên ngoài nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo hiệu quả về thông tin, việc thu thập thông tin từ phía khách hàng là tương đối khó, có những hạn chế nhất định do khách hàng nhiều khi không muốn công bố tình hình rộng rãi tình hình hoạt động kinh doanh của mình. Để đảm bảo cho hiệu quả của khoản vay. Ngân hàng Đầu tư có thể lấy thông tin của khách hàng từ hệ thống thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước (CIC), hoặc từ trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Công thương Việt nam (TPR), tuy nhiên hiệu quả từ các nguồn này vẫn chưa cao, nên Ngân hàng có thể tìm kiếm thông tin từ những nguồn khách như phương tiện truyên thông, từ các tổ chức tín dụng mà khách hàng đã từng vay, từ các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp là khách hàng. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ bằng cách đề ra những quy định xây dựng quy trình thực hiện việc kiểm soát một cách bài bản, đồng thời hướng dẫn thi hành nghêm túc, bên cạnh đó cũng cần phải phân công trách nhiệm rõ ràng, thực hiện công tác kiểm tra chéo để tăng tính công bằng, khách quan. Cán bộ kiểm tra, kiểm soát nội bộ bên cạnh tính trung thực, liêm khiết phải là những người có trình độ chuyên môn cao, am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau, phòng kiểm tra, phòng kiểm soát nội bộ cũng cần phải độc lập với các phòng ban khác có như vậy hoạt động mới có hiệu quả. Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ GIANG 2.1. Khái quát về Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà giang. * Những thông tin chung về Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hà Giang. + Tên: Ngân hàng Đầu tư và phát

File đính kèm:

  • docChuyen de TN DH tai chinh KT.doc