Trong nhà trường, người giáo viên có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đào tạo, rèn luyện, phát triển trí tuệ và nhân cách cho thế hệ trẻ, đội ngũ giáo viên góp phần quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Trong bối cảnh kĩ thuật, công nghệ phát triển đang tạo ra sự chuyễn dịch định hướng giá trị, giáo viên không chỉ đóng vai trò truyền đạt tri thức mà còn phải phát triển cảm xúc, thái độ, hành vi của học sinh, đảm bảo người học làm chủ được và biết ứng dụng hợp lý những tri thức đó, giáo viên phải quan tâm phát triển ở học sinh ý thức về giá trị đạo đức, tinh thần, thẩm mỹ, tạo nên bản sắt tồn tại của loài người, vừa thừa kế, phát triển các giá trị truyền thống, vừa sáng tạo những giá trị mới thích nghi với thời đại mới.
Trong xã hội đang biến đổi nhanh, người giáo viên phải có ý thức, có nhu cầu và có tiềm năng không ngừng tự hoàn thiện về đạo đức, nhân cách, chuyên môn nghiệp vụ, phát huy tinh thần chủ động sáng tạo trong hoạt động sư phạm. Ngày nay giáo viên không còn là người đóng vai trò truyền đạt kiến thức mà là người gợi mở hướng dẩn, tổ chức, cố vấn, trọng tài cho các hoạt động của học sinh. Giáo viên có năng lực sư phạm là người biết giúp đở học sinh tiến bộ nhanh trên con đường học tập tự lực, kết hợp thành công việc giảng dạy tri thức với giáo dục giá trị và phát triển tư duy.
Đi sâu vào công tác chủ nhiệm, mỗi thành công hay thất bại của từng lớp học đều ảnh hưởng đến hoạt động chung của nhà trường. Người giáo viên chủ nhiệm có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng một tập thể tốt góp phần xây dựng tập thể nhà trường tốt. Giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt Hiệu trưởng làm công tác quản lý và giáo dục học sinh trong phạm vi một lớp. Do đó việc lựa chọn giáo viên chủ nhiệm lớp cần cân nhắc phân công sao cho phù hợp để thực hiện tốt nhiệm vụ dạy người.
12 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 18076 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Một số vấn đề về công tác chủ nhiệm lớp - Giao tiếp sư phạm của giáo viên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG THCS LÊ DUẨN
SINH HOẠT CHUYÊN MÔN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ
VỀ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP - GIAO TIẾP SƯ PHẠM CỦA GV
…………………………………………..
Trong nhà trường, người giáo viên có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đào tạo, rèn luyện, phát triển trí tuệ và nhân cách cho thế hệ trẻ, đội ngũ giáo viên góp phần quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Trong bối cảnh kĩ thuật, công nghệ phát triển đang tạo ra sự chuyễn dịch định hướng giá trị, giáo viên không chỉ đóng vai trò truyền đạt tri thức mà còn phải phát triển cảm xúc, thái độ, hành vi của học sinh, đảm bảo người học làm chủ được và biết ứng dụng hợp lý những tri thức đó, giáo viên phải quan tâm phát triển ở học sinh ý thức về giá trị đạo đức, tinh thần, thẩm mỹ, tạo nên bản sắt tồn tại của loài người, vừa thừa kế, phát triển các giá trị truyền thống, vừa sáng tạo những giá trị mới thích nghi với thời đại mới.
Trong xã hội đang biến đổi nhanh, người giáo viên phải có ý thức, có nhu cầu và có tiềm năng không ngừng tự hoàn thiện về đạo đức, nhân cách, chuyên môn nghiệp vụ, phát huy tinh thần chủ động sáng tạo trong hoạt động sư phạm. Ngày nay giáo viên không còn là người đóng vai trò truyền đạt kiến thức mà là người gợi mở hướng dẩn, tổ chức, cố vấn, trọng tài cho các hoạt động của học sinh. Giáo viên có năng lực sư phạm là người biết giúp đở học sinh tiến bộ nhanh trên con đường học tập tự lực, kết hợp thành công việc giảng dạy tri thức với giáo dục giá trị và phát triển tư duy.
Đi sâu vào công tác chủ nhiệm, mỗi thành công hay thất bại của từng lớp học đều ảnh hưởng đến hoạt động chung của nhà trường. Người giáo viên chủ nhiệm có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng một tập thể tốt góp phần xây dựng tập thể nhà trường tốt. Giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt Hiệu trưởng làm công tác quản lý và giáo dục học sinh trong phạm vi một lớp. Do đó việc lựa chọn giáo viên chủ nhiệm lớp cần cân nhắc phân công sao cho phù hợp để thực hiện tốt nhiệm vụ dạy người.
Những yêu cầu cơ bản của người giáo viên chủ nhiệm.
Có phẩm chất tư tưởng chính trị, đạo đức tốt.
Đạt trình độ chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ.
Có tri thức cơ bản về tâm lý học, giáo dục học và các kĩ năng sư phạm (biết tiếp cận các đối tượng học sinh, giao tiếp sư phạm, kĩ năng làm việc với học sinh)
Biết xây dựng kế hoạch hoạt động toàn diện của lớp, có khả năng bồi dưỡng đội ngũ tự quản cho học sinh, có năng lực dự báo sự phát triển nhân cách của học sinh.
Có khả năng truyền đạt thông tin từ nhà trường đến học sinh. Có khả năng phối hợp các lực lượng trong và ngoài nhà trường để thực hiện tốt công tác giáo dục.
Có khả năng đánh giá, nhận định kết quả rèn luyện của học sinh và phong trào hoạt động của lớp.
Nắm được đặc điểm, nguyện vọng của học sinh, ý kiến của cha mẹ học sinh.
Gương mẫu có tinh thần trách nhiệm cao, có năng lực sư phạm, đặc biệt có tình yêu thương học sinh, có sức thuyết phục đối với học sinh.
Có điều kiện thuận lợi và sức khõe tốt để đảm đương công việc.
Nhiệm vụ và quyền hạn của giáo viên chủ nhiệm.
Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm.
Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ chức giáo dục sát đối tượng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp;
Cộng tác chặt chẻ với gia đình học sinh, chủ động phối hợp với các giáo viên bộ môn, Đoàn, Đội, các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt động giảng dạy và giáo dục học sinh của lớp mình chủ nhiệm;
Nhận xét đánh giá và xếp loại học sinh cuối kì và cuối năm học, đề nghị khen thưởng và kĩ luật học sinh, đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kì nghỉ hè, phải ở lại lớp, hoàn chỉnh việc ghi vào sổ điểm và học bạ học sinh;
Báo cáo thường kì hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng;
Giáo viên chủ nhiệm có những quyền sau đây.
Được dự các giờ học, hoạt động giáo dục khác của học sinh lớp mình;
Được dự các cuộc họp của hội đồng khen thưởng và Hội đồng kỉ luật khi giải quyết những vấn đề có liên quan đến học sinh của lớp mình;
Được dự các lớp bồi dưỡng, Hội nghị chuyên đề về công tác chủ nhiệm;
Được quyền cho phép cá nhân học sinh nghỉ học không quá 03 ngày;
Được giảm giờ lên lớp hàng tuần theo qui định khi làm chủ nhiệm lớp.
Đặc điểm lao động sư phạm của giáo viên hiện nay.
Đào tạo thế hệ trẻ thành nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu đổi mới đâùt nước.
Đối tượng lao động sư phạm là con người đang hình thành và phát triển nhân cách, có tiềm năng, là tương lai của đất nước đang tiến dần đến nền kinh tế công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại.
Công cụ chủ yếu của lao động sư phạm là nhân cách của người Thầy.
Sản phẩm của lao động sư phạm là nhân cách học sinh mà xã hội yêu cầu. Không được có phế phẩm.
Là nghề lao động trí óc chuyên nghiệp, cá nhân giáo viên tự chịu trách nhiệm là chính, có sự phối hợp với các lực lượng giáo dục để tạo ra sản phẩm tốt.
Những tiêu chí cơ bản của người giáo viên hiện nay.
- Là nhà sư phạm.
- Là nhà tổ chức.
- Là người biết đổi mới.
- Là người vững vàng về chuyên môn.
- Là huấn luyện viên trong quá trình học sinh học tập và phát triển nhân cách.
- Là người đồng hành với cha mẹ học sinh và các lực lượng giáo dục khác.
- Là thành viên tham gia các hoạt động văn hóa xã hội.
- Là một thành viên của cộng đồng nhà trường.
- Là nhà nghiên cứu.
- Là thành viên của tổ.
Giáo viên chủ nhiệm tạo động lực phát triển nhân cách học sinh.
Tạo môi trường làm việc tốt: Tạo các qui định phù hợp, thái độ cởi mở, chia sẻ, thân thiện, tạo bầu không khí tâm lý tốt đẹp.
Khen thưởng khi thấy xứng đáng: Không nhất thiết phải bằng vật chất.
Tỏ ra rộng rải khi khen ngợi thành tích của học sinh.
Cảm ơn những nổ lực của cá nhân học sinh.
Ghi nhận những nhu cầu và đóng góp của cá nhân học sinh.
Cố gắng cải thiện mối quan hệ, trao đổi thông tin cừng học sinh.
Tăng tính tự chủ và tự kiểm soát cho học sinh.
Các hành vi cần thiết của giáo viên.
Hành vi, ngôn ngữ, ứng xử và trang phục phải mẫu mực, có tác dụng giáo dục học sinh.
Không xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể học sinh.
Không gian lận trong kiểm tra, đánh giá, thi cử, báo cáo kết quả thi đua…
Không uống rượu bia khi lên lớp và khi tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường.
Quy trình công việc của giáo viên chủ nhiệm.
Đầu năm.
Tiến hành điều tra cơ bản để nắm vững đặc điểm của học sinh lớp. Nội dung gồm:
Họ tên học sinh, ngày và nơi sinh, quê quán, dân tộc, nữ dân tộc.
Họ tên, nghề nghiệp, địa chỉ cha mẹ học sinh.
Kết quả 2 mặt giáo dục, khen thưởng và kĩ luật của năm học trước.
Tình trạng sức khõe: bệnh tật, khuyết tật.
Năng khiếu, những chức vụ đã kinh qua…
Trên cơ sở điều tra cơ bản, GVCN hình thành tổ chức lớp.
Bầu ban cán sự lớp, cán sự bộ môn, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng em và thường xuyên theo dõi giúp đỡ các em hoàn thành nhiệm vụ.
Tổ chức cho học sinh học tập,thảo luận nội qui và các qui định khác của trường trên cơ sở đó đưa các hoạt động của lớp sớm đi vào nề nếp ổn định.
Căn cứ vào kế hoạch của nhà trường, GVCN xây dựng kế hoạch, các chỉ tiêu toàn năm học của lớp, cùng nhau bàn bạc biện pháp thực hiện.
Lập các sổ theo qui định:
Sổ chủ nhiệm: theo mẫu chung.
Sổ ghi nội dung các buổi sinh hoạt lớp: Sổ đầu bài, sổ sinh hoạt giờ CN, sổ ghi điểm gọi tên, sổ theo dõi cho điểm lao động và đạo đức hàng tháng,sổ liên lạc giữa gia đình và nhà trường, học bạ học sinh, cùng với thư viện tham gia vào việc cho mượn SGK, quản lý danh sách học sinh mượn SGK, sổ theo dõi trực ĐCĐ…
Tham gia tổ chức hội nghị cha mẹ học sinh, bầu ban đại diện cha mẹ học sinh lớp.
Đề nghị nhà trường hỗ trợ học sinh có hoàn cảnh khó khăn, nhận CSVC văn phòng phẩm.
Cuối học kì I.
Xếp loại 2 mặt giáo dục của học sinh.
Cung cấp số liệu cho bộ phận tổng hợp thi đua, xét thi đua lớp.
Báo kết quả học tập và rèn luyện học sinh cho PHHS biết thông qua buổi họp PHHS, liên hệ phụ huynh.
Cuối năm học.
Xếp 2 mặt giáo dục học sinh, xét duyệt kết quả học sinh.
Phê học bạ học sinh.
Tham gia việc trả sách cho thư viện.
Cung cấp số liệu cho bộ phận thi đua.
Báo kết quả học tập và rèn luyện học sinh cho PHHS biết thông qua buổi họp PHHS, liên hệ phụ huynh.
Bàn giao cho trường các loại hồ sơ cần thiết.
Hàng tháng.
Đầu tháng: Căn cứ trên kế hoạch hàng tháng của trường, phối hợp chương trình của Đội và tình hình cụ thể của lớp GVCN lên kế hoạch tháng của lớp và phổ biến đến học sinh ở tiết sinh hoạt chủ nhiệm đầu tháng.
Trong tháng: Tổ chức học sinh thực hiện kế hoạch của lớp ,thường xuyên theo dõi để biểu dương những nhân tố tích cực, uốn nắn, động viên những hiện tượng tiêu cực.
Cuối tháng: Sơ kết công tác trong tháng, biểu dương khen thưởng những học sinh và nhân tố làm tốt, uốn nắn những học sinh và nhân tố chưa làm tốt. Cung cấp số liệu cho bộ phận thi đua.
Hàng tuần.
Lên kế hoạch tuần của lớp, nhận thêm công việc của BGH (nếu co)ù để bàn bạc triển khai trên lớp.
Nhận phân công lao động, các công việc khác (nếu có)
Tiết sinh hoạt lớp:
Kiểm điểm tình hình sinh hoạt trong tuần.
GVCN phát biểu nhận xét và phổ biến kế hoạch tuần tới.
Tổ chức học sinh hoạt động mang tính giáo dục bằng nhiều hình thức kể chuyện, đố vui, hái hoa dân chủ, vấn đáp, hát cho nhau nghe… tạo bầu không khí vui tươi, thoải mái.
(tiết sinh hoạt chủ nhiệm, GVCN cố gắng tránh tạo bầu không khí căn thẳng, nặng nề, nhàm chán… gây áp lực cho học sinh- đừng biến tiết sinh hoạt chủ nhiệm thành một tiết hành hạ cả thầy lẩn trò)
Tiết sinh hoạt ngoài giờ lên lớp.
Theo quy định 2 tiết/ tháng.
Tiết sinh hoạt ngoài giờ lên lớp GVCN chuẩn bị kỉ về nội dung, hình thức tổ chức hoạt động, cố vấn, hướng dẩn các em tự thực hiện. Trong tiết sinh hoạt ngoài giờ lên lớp, GVCN chỉ là một người đại biểu đến dự các em hoạt động.
Phát biểu góp ý những mặt mạnh, mặt còn hạn chế để lớp rút kinh nghiệm.
Ä Mối liên hệ công tác của GVCN với các tổ chức trong nhà trường.
Đối với bộ phận đoàn, đội.
Thường xuyên liên hệ với đoàn, đội trường để trao đổi về tình hình hoạt động của đoàn đội nắm được chủ trương kế hoạch của đoàn, đội.
Phát huy vai trò của đội cờ đỏ lớp, tạo điều kiện để các em hoạt động, đấu tranh với những sai sót và những hiện tượng tiêu cực trong lớp.
Với phụ huynh lớp và hội phụ huynh trường.
Đầu năm: tổ chức bình bầu PHHS có tâm huyết, tiêu biểu tham gia vào BCH hội phụ huynh học sinh lớp.
Trong năm:
Thường xuyên liên hệ phối hợp với đại diện PHHS lớp, họp phụ huynh của những học sinh cá biệt, chậm tiến để phối hợp giáo dục.
Những trường hợp học sinh vi phạm bình thường GVCN tiếp xúc với phụ huynh có thể qua điện thoại.
Những trường hợp học sinh vi phạm nghiêm trọng, GVCN phải gặp trực tiếp PHHS tại trường hoặc đến nhà để phối hợp giáo dục.
Có kế hoạch đi thăm hoặc liên hệ bằng điện thoại những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học lực yếu, kém; hạnh kiểm chưa tốt để phối hợp gia đình giáo dục các em.
Với giáo viên bộ môn.
Thường xuyên liên hệ với giáo viên bộ môn để nắm tình hình học tập của học sinh lớp mình.
Bàn bạc với GVBM về biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém.
Với ban giám hiệu.
Phản ánh kịp thời với BGH những ý kiến đề nghị của PHHS tình hình trường lớp.
- Đề nghị với BGH những việc làm tốt của học sinh trong lớp để động viên khen thưởng và những hiện tượng tiêu cực quá tầm tay để giáo dục ngăn chặn.
VII . Một số vấn đề về giao tiếp sư phạm.
- Giao tiếp sư phạm là giao tiếp có tính chất nghề nghiệp giữa giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục, nhằm tạo ra sự tiếp xúc tâm lý, xây dựng bầu không khí tâm lý thuận lợi để tạo ra kết quả tối ưu trong quan hệ Thầy và Trò trong nội bộ tập thể học sinh và trong hoạt động dạy cũng như hoạt động học.
Giao tiếp sư phạm là điều kiện đảm bảo cho hoạt động sư phạm đạt hiệu quả cao. Nó là loại giao tiếp có tính chất nghề nghiệp của giáo viên và học sinh ở trong lớp và ngoài giờ lên lớp. Nó là một thành phần cơ bản của hoạt động sư phạm, không có giao tiếp giữa thầy và trò không thể đạt được mục đích giáo dục.
Đặc trưng cơ bản của giao tiếp sư phạm.
Thứ nhất: Trong giao tiếp sư phạm, người giáo viên luôn phải có sự thống nhất giữa lời nói và việc làm. Không bao giờ có mâu thuẩn xảy ra trong hành vi ứng xử. Người giáo viên không chỉ giao tiếp với học sinh thông qua nội dung bài giảng, tri thức khoa học mà còn là tấm gương mực về nhân cách cho học sinh noi theo. Vì thế nhân cách của người giáo viên có ảnh hưởng rất lớn tới nhân cách của học sinh. Không nên nói với học sinh rằng: “các em hãy làm theo điều tôi nói, chứ đừng làm theo điều tôi làm”
Thứ hai: Trong giao tiếp sư phạm, người giáo viên cần phải dùng biện pháp giáo dục tình cảm để thuyết phục, vận động đối với học sinh, chứ không nên dùng biện pháp trách phạt, đánh đập, trù dập học sinh. Trong giao tiếp sư phạm giáo viên phải biết khéo xử sư phạm, phải luôn quan tâm gần gũi để hiểu tâm lý của học sinh, dự đoán trước được những phản ứng có thể xãy ra ở học sinh để có biện pháp giáo dục thích hợp, đồng thời biết giữ đúng mức độ khi giải quyết các tình huống.
Tóm lại: Để giao tiếp sư phạm đạt hiệu quả thì cần tạo ra bầu không khí tâm lý giao tiếp tích cực giữa giáo viên và học sinh. Trong đó giáo viên thực sự là chủ theercos ý thức tổ chức, xây dựng mối quan hệ này. Trong giao tiếp học sinh thường hay e ngại, sợ tiếp xúc với giáo viên. Sự căn thẳng tâm lý này là hàng rào tâm lý ngấm ngầm hình thành trong quá trình học tập và rèn luyện. Muốn xóa bỏ hàng rào tâm lý này thì hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ và hành vi ứng xử cảu giáo viên. Giao tiếp sư phạm hợp lý có nghĩa là biết tạo ra những cảm xúc, tình cảm tích cực ở thầy và trò.
Các loại phong cách giao tiếp sư phạm.
Phong cách giao tiếp dân chủ.
-Thực chất trong giao tiếp dân chủ là giáo viên phải biết tôn trọng nhân cách của học sinh, phải hiểu được những đặc điểm tâm lí cá nhân, vốn kinh nghiệm sống, trình độ nhận thức, nhu cầu động cơ hứng thú, mức độ nhận thức tích cực của học sinh. Nhờ đó giáo viên mới dự đoán đúng, chính xác các mức độ phản ứng, hoạt đôïng của học sinh trong và sau quá trình giao tiếp.
- Phong cách dân chủ trong giao tiếp còn thể hiện ở chor giáo viên phải biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của học sinh và luôn tin tưởng các em. Những nguyện vọng chính đáng của các em phải được giáo viên đáp ứng kịp thời hoặc có lời giải thích rõ ràng. Giáo viên phải luôn quan tâm gần gũi các em, giúp các em giải quyết những vướng mắc trong học tập cũng như trong sinh hoạt. Từ đó giáo viên sẽ tạo được niền tin , sự kính trọng của học sinh đối với mình , nhằm xây dựng tốt mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh, tạo bầu không khí tâm lý thân mật, gần gũi, yêu thương giữa mọi người với nhau, nhằm đem lại hiệu quả cac trong hoạt động sư phạm.
- Phong cách dân chủ tạo ra ở học sinh tính độc lập sáng tạo, sự say mê, lòng ham hiểu biết…Làm cho các em ý thức được vai trò, vị trí của mình trong hoạt động học tập, các hoạt động khác trong các nhóm bạn bè. Giúp các em có ý thức giáo dục lẩn nhau và tự giáo dục, tự rèn luyện mình để nhân cachs càng phát triển và hoàn thiện từng bước theo yêu cầu của xã hội.
- Dân chủ trong giao tiếp không có nghĩa là nuông chiều , thả mặc học sinh quá mức, đề cao vai trò của cá nhân hoặc thỏa mãn những đòi hỏi không xuất phát từ lợi ích chung của tập thể. Dân chủ trong quan hệ thầy trò không phải là xóa đi ranh giớ giữa thầy và trò, không theo kiễu “cá mè một lưa”, dân chủ thì phải tôn sư trọng đạo. Dân chủ trong giao tiếp là giáo viên phải biết tôn trọng học sinh, nhưng cũng phải có yêu cầu cao của học sinh về mọi mặt, phải làm cho học sinh có thái độ tôn trọng đối với giáo viên. Đối với giáo viên dân chủ trong giao tiếp là thể hiện tấm gương sáng sống động cho học sinh noi theo.
Phong cách độc đoán.
Phong cách độc đoán trong giao tiếp biểu hiện là giáo viên thường xem nhẹ những đặc điểm riêng về nhận thức, cá tính, nhu cầu, động cơ hứng thú của học sinh và thường thực hiện công việc theo nguyên tắc cứng nhắc mà ít chú ý đến khả năng của học sinh. Vì vậy khi tiếp xúc với học sinh, nhất là khi giao việc cho các em, giáo viên thường có những đòi hỏi mà học sinh khó có thể thực hiện được trong hoạt động.
Giáo viên có phong cách độc đoán trong giao tiếp thường có cách đánh giá và hành vi ứng xữ đơn phương một chiều theo ý chủ quan của bản thân giáo viên.
Ví dụ: Trong hoạt động nếu có học sinh nào tích cực hoạt động nổi bậc lấn át các học sinh khác thì thường được giáo viên coi là bướng bỉnh, muốn chơi trội. Còn học sinh nào nhút nhát, thụ động thì lại cho em đó là chay lười, biếng nhác. Trong quá trình đánh giá học sinh thì giáo viên thường cho là học sinh bây giờ vừa kém cỏi, dốt nát lại vừa vô lễ hơn trước đây.
Phong cách giao tiếp độc đoán làm mất đi sự tự do của học sinh, kiềm chế sự sáng tạo, sự suy nghĩ độc lập của học sinh làm học sinh cảm thấy bất hạnh hơn là hạnh phúc. Trong cách giao tiếp này sẽ hình thành ở học sinh tâm thế chống đối ngầm, trước mặt giáo viêm thì các em tỏ ra rất ngoan ngoãn, lễ phép hoặc có thể thờ ơ, lãnh đạm, miễn cưỡng không quan tâm, có những em thì chống đối ra mặt…Những giáo viên có phong cách này thường bi học sinh đánh giá là người khô khan, vụn về, thiếu tế nhị, cứng nhắc, đó là những con người của công việc…. Tuy nhiên phong cách độc đoán có tác dụng nhất định đối với những công việc đòi hỏi phải giải quyết trong thời gian ngắn, cấp bách có tính chất lễ hội, phong trào…
Phong cách tự do.
Bản chất của phong cách giao tiếp tự do là thái độ hành vi cữ chỉ, điệu bộ ứng xử của giáo viên đối với học sinh dễ dàng thay đổi trong những tình huống hoàn cảnh giao tiếp khác nhau. Phong cách này thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo đôi khi pha lẫn sự khéo xử sư phạm. Cũng có những trường hợp biểu hiện như là giao tiếp ngẫu nhiên.
Phong cách tự do trong giao tiếp sư phạm sẽ phát huy được tính tíh cực hoạt động nhận thức ở học sinh. Kích thích tư duy độc lập sáng tạo ở các em, làm cho học sinh cảm thấy thoãi máivì nó được xây dựng trên nền tảng là tôn trọng nhân cách học sinh. Nhưng đòi hỏi học sinh phải có trình độ nhận thức cao, có tinh thần tự giác và có ý thức trách nhiệm cao đối với công việc được giao.
Phong cách này dễ nảy sinh tư tưởng tự do quá trớn, trong tập thể có sự lộn xôn do kĩ luật không nghiêm. Quan hệ thầy trò bị coi nhẹ, học sinh có những hành vi ứng xử vô lễ, coi thường nhân cách của thấy,cách nói năng xã giao đơn điệu nhàm chán… Vì vậy khi xử dụng phong cách này giáo viên cần phải suy nghĩ kỹ về hậu quả của nó.
Tóm lại: Ba loại phong cách sư phạm nói trên đều có ưu nhược điểm nhất định. Do đó trong hoạt động sư phạm giáo viên cần phải có sự kết hợp linh hoạt cả ba loại phong cách trên sao cho phù hợp với từng tình huống cụ thể nhằm đem lại hiệu quả cao trong quá trình giao tiếp sư phạm.
Các nguyên tắc giao tiếp sư phạm.
Nhân cách mẫu mực trong giao tiếp.
Giao tiếp sư phạm là sự giao tiếùp giữa giáo viên và học sinh , nên người giáo viên cần phải gương mẫu trước học sinh về mọi mặt: Hành vi, cử chỉ, tư thế tác phong, trang phục lời nói…Nhân cách giáo viên mẫu mực được biểu hiện cụ thể như sau:
- Biểu hiện mẫu mực về trang phục, hành vi, cử chỉ, lời nói…tất cả những biễu hiện đó phải thống nhất với nhau. Nói năng phải rõ ràng mạch lạc, cử chỉ phải đường hoàng, đĩnh đạc, tự tin…, không thể nói một đường làm một nẻo.
- Thái độ và những biễu hiện của thái độ phải phù hợp với các phản ứng hành vi. Ví dụ: Khi giáo dục học sinh vi phạm thì mặt dù giáo viên thể hiện sự khoan dung độ lượng nhưng giọng nói phải dứt khoát, ánh mắt phải nghiêm nghị, cử chỉ phải rõ ràng. Còn muốn khen ngợi học sinh thì lời nói, hành vi phải nhẹ nhàng, sôi nổi, ánh mắt vui tươi, nét mặt rạng rỡ…
- Khi xữ dụng ngôn ngữ thì phải chọn từ , dùng từ…phải phù hợp với tình huống, nội dung và đối tượng giao tiếp. Không dùng lối nói mày, tao, mi, tớ hay đùa cợt quá trớn với học sinh vì như thế sẽ để lại ấn tượng không tốt về nhân cách người thầy trong lòng học sinh có thể suốt cả cuộc đời.
Trong giao tiếp sư phạm cần có sự thống nhất giữa lời nói và hành động. Sự tế nhị lịch thiệp của giáo viên là một nhân tố quan trọng cho sự thành công của quá trình dạy học và giáo dục học sinh. Nếu có sự mâu thuẩn trong lời nói và việc làm của giáo viên thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Giáo viên có nhân cách mẫu mực sẽ tạo ra uy tín đối với học sinh, đảm bảo sự thành công trong giao tiếp sư phạm.
Tôn trọng nhân cách học sinh trong giao tiếp.
Trong giao tiếp sư phạm cần tôn trọng nhân cách học sinh, phải coi đối tượng giao tiếp như là một con người, một chủ thể với dấy đủ các quyền được học tập, vui chơi, lao động… phù hợp với những đặc trưng tâm lí riêng. Phải tạo điều kiện cho học sinh bộc lộ những nét tính cách, nhu cầu, nguyện vọng của học sinh. Giáo viên không nên áp đạt học sinh theo ý mình một cách máy móc, mà phải gây ấn tượng ban đầu tốt đẹp đối với học sinh. Phải biết đạt vị trí của mình vào vị trí của học sinh để tạo ra sự thông cảm hiểu biết và tôn trọng lẩn nhau.
- Tôn trọng nhân cách đối tượng giao tiếp là giáo viên phải biết cách nói và biết cách lắng nghe ý kiến của học sinh, dù nó là đúng hay sai thì cũng không nên cắt ngang hay ngoảnh mặt đi chổ khác tỏ vẽ khó chịu … làm cho đối tượng gico tiếp sợ hãi mà không tiếp tục cuộc đối thoại, không dám bày tỏ hết nguyện vọng của mình. Khi nghe học sinh trình bày thì thường học sinh khó nói khó diễn đạt ý của mình, giáo viên phải gợi ý nhẹ nhàng, có thể biểu lộ thái độ khích lệ, động viên để các em nói hết những
File đính kèm:
- CSKKN ONG TAC CHU NHIEM.doc