A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
* Giúp học sinh:
- Hiểu được vai trò, vị trí và đặc điểm của văn bản thuyết minh trong đời sống con người.
- Nhận rõ yêu cầu của phương pháp thuyết minh
- Rèn luyện năng lực quan sát, nhận thức, dùng kết quả quan sát và làm bài thuyết minh => học sinh thấy được muốn làm bài văn thuyết minh chủ yếu phải dựa vào quan sát, tìm hiểu, tra cứu, nghiên cứu, học hỏi tri thức thì mới làm được.
B. MỘT SỐ ĐIỀU CẦN LƯU Ý:
- Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản lần đầu tiên được đưa vào chương trình TLV - THCS Việt Nam
=> Vì văn bản thuyết minh là văn bản được sử dụng rất rộng rãi, ngành nghề nào cũng cần đến.
- Hai chữ "thuyết minh" ở đây bao hàm cả ý giải thích, trình bày, giới thiệu cho được hiểu rõ. Đưa văn bản thuyết minh vào nhà trường là cung cấp cho học sinh một văn bản thông dụng, rèn kỹ năng trình bày các tri thức có tính khách quan, khoa học, nâng cao tư duy và biểu đạt cho học sinh. Loại văn bản này giúp học sinh quen với lối làm văn có tri thức, có tính khách quan khoa học, chính xác.
- Giáo viên phải cho học sinh thấy đây là một loại văn bản khác hẳn với các văn bản nghị luận, tự sự, miêu tả, biểu cảm, hành chính - công vụ.
=> Văn bản thuyết minh chủ yếu trình bày tri thức một cách khách quan, giúp con người hiểu biết được đặc trưng, tính chất của sự vật, hiện tượng và biết cách sử dụng chúng vào mục dích có lợi cho con người. Văn bản thuyết minh gắn liền với tư duy khoa học. Nó đòi hỏi chính xác, rạch ròi
25 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2794 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Tự chọn: văn thuyết minh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chuyên đề tự chọn:
văn thuyết minh
A. Mục tiêu cần đạt:
* Giúp học sinh:
- Hiểu được vai trò, vị trí và đặc điểm của văn bản thuyết minh trong đời sống con người.
- Nhận rõ yêu cầu của phương pháp thuyết minh
- Rèn luyện năng lực quan sát, nhận thức, dùng kết quả quan sát và làm bài thuyết minh => học sinh thấy được muốn làm bài văn thuyết minh chủ yếu phải dựa vào quan sát, tìm hiểu, tra cứu, nghiên cứu, học hỏi tri thức thì mới làm được.
B. Một số điều cần lưu ý:
- Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản lần đầu tiên được đưa vào chương trình TLV - THCS Việt Nam
=> Vì văn bản thuyết minh là văn bản được sử dụng rất rộng rãi, ngành nghề nào cũng cần đến.
- Hai chữ "thuyết minh" ở đây bao hàm cả ý giải thích, trình bày, giới thiệu cho được hiểu rõ. Đưa văn bản thuyết minh vào nhà trường là cung cấp cho học sinh một văn bản thông dụng, rèn kỹ năng trình bày các tri thức có tính khách quan, khoa học, nâng cao tư duy và biểu đạt cho học sinh. Loại văn bản này giúp học sinh quen với lối làm văn có tri thức, có tính khách quan khoa học, chính xác.
- Giáo viên phải cho học sinh thấy đây là một loại văn bản khác hẳn với các văn bản nghị luận, tự sự, miêu tả, biểu cảm, hành chính - công vụ.
=> Văn bản thuyết minh chủ yếu trình bày tri thức một cách khách quan, giúp con người hiểu biết được đặc trưng, tính chất của sự vật, hiện tượng và biết cách sử dụng chúng vào mục dích có lợi cho con người. Văn bản thuyết minh gắn liền với tư duy khoa học. Nó đòi hỏi chính xác, rạch ròi …
=> Văn bản thuyết minh là một kiểu văn bản riêng, mà các loại văn bản ấy không thay thế được.
C. Tiến trình thực hiện:
A. Tiết 1: Ôn tập về văn bản thuyết minh
I. Các khái niệm cần nhớ
1. Văn bản thuyết minh là loại văn bản thông dụng, có phạm vi sử dụng rộng rãi trong đời sống. Văn bản thuyết minh là văn bản trình bày tính chất, cấu tạo, cách dùng, cùng lý do phát sinh, quy luật phát triển, biến hoá của sự vật cần thiết nhằm cung cấp hiểu biết cho con người. Ngành nghề nào cũng cần đến loại văn bản này.
Thuyết minh: Đã bao hàm cả ý giải thích, trình bày, giới thiệu.
2. Văn bản thuyết minh khác với văn bản nghị luận, tự sự, miêu tả, biểu cảm, hành chính công vụ … ở chỗ chủ yếu nó trình bày tri thức một cách khách quan, giúp con người sử dụng tri thức ấy nhằm phục vụ thiết thực cho cuộc sống; nó gắn liền với tư duy khoa học; nó đòi hỏi chính xác, rạch ròi.
3. Muốn làm tốt văn bản thuyết minh: phải tiến hành điều tra, nghiên cứu, học hỏi để kiến thức phong phú hoặc đến tận nơi tham quan, tìm hiểu, thì mới làm được. Bài văn thuyết min phải làm nổi bật: Hiểu biết sâu rộng kiến thức, tính khách quan khoa học, sự chính xác của vấn đề:
4. Có sáu phương pháp thuyết minh cần được chú ý: định nghĩa, so sánh, phân tích và phân loại, dùng số liệu, dùng ví dụ cụ thể, liệt kê …
II. Cách làm các kiểu bài thuyết minh với các đối tượng khác nhau:
Ví dụ:
- Đối tượng thuyết minh là các thể loại: thơ, truyện ngắn …
- Đối tượng thuyết minh là các loại đồ dùng gia đình và dụng cụ học tập…
- Đối tượng thuyết minh là về một cách làm, một phương pháp, một thí nghiệm …
- Đối tượng thuyết minh một di tích lịch sử, một danh lam thắng cảnh …
- Đối tượng thuyết minh về phần trình bày một hiệu sách tự chọn, một ngôi trường của em.
- Đối tượng thuyết minh có thể là lời giới thiệu một tập sách, một tập thơ, một tác giả thơ, văn …
III. Quan trọng nhất vẫn là việc rèn các kỹ năng để làm bài thuyết minh.
- Tìm hiểu đề, xác định đối tượng thuyết minh
- Đi tìm kiến thức để viết văn bản sao cho sát đối tượng cần thuyết minh. Muốn vậy phải: quan sát, mô tả khi đến tham quan, học hỏi mọi người xung quanh, đọc sách báo có kiến thức về đối tượng; Ghi chép lại.
- Sắp xếp các kiến thức theo một trình tự hợp lý so với đối tượng cần thuyết minh theo một dàn ý.
- Sau đó, dựa vào dàn ý, viết thành bài thuyết minh hoàn chỉnh.
* Bài tập:
Bài tập 36: Năm học lớp Bảy, các em đã được học bài thơ nổi tiếng Qua đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan.
1. Hãy chép chính xác bài thơ ấy. Cho biết bài thơ được viết theo thể thơ nào?
2. Trình bày những hiểu biết của em trong một văn bản thuyết minh về thể thơ đã nêu trên.
Bài tập 37: Nhà thơ Nguyễn Khuyến có một chùm thơ ba bài viết về mùa thu làng cảnh Việt Nam rất nổi tiếng. Sau đây là bài Thu Điếu (Câu cá mùa thu) của ông.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
1. Có bạn cho rằng bài thơ trên thuộc thể thơ Dường thất ngôn bát cú, luật trắc (thể trắc). Em có đồng ý với ý kiến của bạn không? Vì sao?
2. Trong một bài thơ thất ngôn bát cú, hai cặp câu 3 - 4 và 5 - 6 đối nhau. Hãy chỉ ra những từ ngữ đối nhau trong bài thơ và tìm hiểu ý nghĩa tu từ của nghệ thuật đối trong bài thơ nói riêng và thơ Dường luật nói chung.
3. Hãy viết một đoạn văn thuyết minh những hiểu biết của em về tác giả Nguyễn Khuyến. Cho biết: Em tìm kiến thức về tác giả ở đâu?
Bài tập 38: Tuần 23 của chương trình Ngữ văn 8, các em sẽ được học tác phẩm Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn và tuần 4 của chương trình Ngữ văn 8, các em sẽ được trích học Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi (đoạn trích Nước Đại Việt ta).
1. Theo em, nên tìm các kiến thức về hai thể văn cổ: hịch và cáo ở đâu, tài liệu nào?
2. Hãy viết một đoạn hay một bài văn ngắn thuyết minh về những hiểu biết ban đầu, cơ bản về hai thể văn cổ này.
Bài tập 39. Cho văn bản sâu đây:
Người ta gọi chúng là gấu trúc vì chúng rất thích ăn lá tre, lá trúc. Chúng ăn cả chuột, bò sát nhỏ, côn trùng, trứng chim, mật, nhưng với chúng chả có gì sánh được với tre, trúc. ở bàn chân trước của gấu trúc có một bộ phận đặc biệt - như là ngón thứ sáu - rất thuận tiện cho việc giữ lá và thân cây trúc. Ngồi trong các bụi tre, trúc, chúng bứt lá và ăn ngon lành. Gấu trúc sống trên núi cao tới hơn 3000 mét ở phía Tây Nam Trung Quốc. Địa hình nơi này rất hiểm trở. Đã vậy, số lượng gấu trúc còn lại rất ít - chỉ khoảng gần 1000 con. Người ta biết đến gấu trúc từ cuối thế kỷ XIX, nhưng đến năm 1936 người Châu Âu lần đầu tiên mới nhìn thấy nó. Sau một thời gian dài nghiên cứu, đến cuối thế kỷ XX, các nhà sinh vật học mới công nhận gấu trúc chính là gấu. Gấu trúc bò trên cây rất khéo, bám được cả vào những cành cây mảnh như những nghệ sĩ nhào lộn vậy. ở các vườn thú, người ta còn để cả đu quay cho các gấu giải khuây. Có cả những chú gấu đặc biệt thông min được tuyển làm diễn viên xiếc. Mỗi gấu trúc mẹ một lần chỉ sinh được một con. Rất hiếm khi gấu trúc sinh đôi, sinh ba; mà nếu có thì cũng chỉ một chú gấu trúc con mới sin không có lông và chẳng nhìn thấy gì cả. Ba đến bốn tháng liền, gấu mẹ phải ngồi trong hang với con, cho chúng búng sữa, rồi dần dần mới dạy con các kĩ năng của nòi giống mình.
(Theo báo Nhi đồng chăm học, số 32,2003)
1. Theo em, trên đây có phải văn bản thuyết minh không? Vì sao? Hãy đặt tên cho văn bản.
2. Có được kiến thức như văn bản trên có dễ dàng không? Đó là công lao của những người làm công tác gì? Công việc của họ có ý nghĩa như thế nào với nhân loại?
3. Đọc văn bản trên en có cảm giác thú vị không? Vì sao vậy?
Bài tập 40: Cho các văn bản sau:
1. Có ít nhất hai loại ngô đồng. Một là loại ngô đồng mà các cụ vẫn mua về trồng ở chậu cảnh trong sân nhà. Cây này thấp, lá to, phần gốc phình to ra. Loại ngô đồng thứ hai là cây ngô đồng thân gỗ, to cao, trồng làm bóng mát mà chúng…………………….
IV. Cách làm các kiểu bài thuyết minh với các đối tượng khác nhau:
VD:
-
-
V. Rèn kỹ năng để làm bài thuyết minh
-
-
* Dàn ý chung:
- Mở bài: Giới thiệu khái quát về đối tượng thuyết minh.
- Thân bài: Giới thiệu cụ thể về đối tượng (trình bày tri thức về sự vật, hiện tượng. VD: Về lai lịch, cấu tạo, hoạt động, tác dụng của sự vật ấy…).
- Kết bài: Nêu vai trò, vị trí, ý nghĩa … của đối tượng thuyết minh trong đời sống …
B. Tiết 2: thuyết minh về một thể loại văn học
I. Một số điều cần lưu ý:
* Để làm được bài văn thuyết minh về một thể loại văn học, học sinh phải có một số tri thức công cụ như bằng, trắc, vần, niêm, ngắt nhịp.
* Dàn bài chung của bài văn thuyết minh về một thể loại văn học.
1. Mở bài: Nêu định nghĩa chung về một thể loại văn học đó.
2. Thân bài:
- ý 1: Thuyết minh về đặc điểm của một thể loại văn học ấy.
- ý 2: Nhận xét về ưu điểm, nhược điểm và vị trí của một thể loại văn học trong nền văn học đó.
3. Kết bài: Nêu vai trò của một thể loại văn học này từ xưa tới nay ra sao …
II. Luyện tập về một số thể loại văn thơ cổ.
1. Thơ Đường luật:
Luật thơ được đặt ra từ đời nhà Đường nên gọi là thơ Đường luật. Thơ cổ trước khi có thơ Đường luật thì gọi là thơ cổ phong.
a. Thơ Đường luật 7 chữ 8 câu (thất ngôn bát cú).
- Học sinh tìm ví dụ trong chương trình đã học, nếu có thể nhớ lại và nói về cách kết cấu một bài thất ngôn bát cú đã được học qua một số bài thơ loại này.
- GV nêu ngắn gọn một số đặc điểm của thể thơ này, ví dụ: bài Qua Đèo ngang". Giáo viên dựa vào bài thơ để chỉ rõ những đặc điểm sau:
+ Số chữ và câu; 7 x 8
+ Kết cấu chia làm 4 phần, mỗi phần 2 câu; đề (nêu vấn đề), thực (miêu tả cụ thể), luận (mở rộng), kết (kết luận).
+ Bắt buộc phải đối nhau giữa 2 câu: 3 và 4; 5 và 6.
+ Chỉ dùng vần bằng và chỉ được gieo một vần, có 5 câu phải hiệp vần (1, 2, 4, 6, 8).
+ Luật phối hợp thanh bằng và trắc trong toàn bài gọi là niêm và trong từng câu gọi là luật. Niêm luật rất phức tạp, không đi sâu ở đây.
* Bài tập 1: Học sinh tập nhận biết đặc điểm của loại thơ này qua bài "Chiều hôm nhớ nhà" cuả bà Huyện Thanh Quan.
(Số chữ, số câu? Đâu là đề, thực luận, kết? Hai câu thực đối nhau? Hai câu luận đối nhau? Vần gì, bằng hay trắc, những câu nào phải vần với nhau?
b. Thơ Đường luật 7 chữ 4 câu (tứ tuyệt).
- Nói qua để học sinh có ý niệm. Lấy bài "Bánh trôi nước" làm ví dụ. GV dựa vào bài thơ chỉ ra mấy đặc điểm:
+ Số chữ, số câu: 7 x 4.
+ Vần bằng và chỉ có một vần: Câu 1, 2, 4 vần với nhau.
+ Có thể có đối hoặc không có đối giữa câu 1 và 2, giữa câu 3 và câu 4.
Chú ý: GV cần biết nhưng không cần nói với học sinh điều sau đây: Tại sao có thể có đối? Vì "tuyệt" là cắt ra, thơ tứ tuyệt như cắt ở bài thất ngôn bát cú chỉ lấy 4 câu. Có 4 cách cắt, nghĩa là 4 cách làm:
+ Cắt 4 câu đầu (câu 3 - 4 có đối).
+ Cắt 4 câu cuối (câu 1 - 2 có đối).
+ Cắt 4 câu giữa (câu 1 - 2 đối nhau, câu 3 - 4 đối nhau).
+ Cắt 2 câu đầu và 2 câu cuối (không có đối).
(Bài "Bánh trôi nước" và bài "Đề đề Sầm Nghi Đống" không có đối) thuộc dạng thứ 4 là dạng phổ biến nhất không có đối).
* Bài tập 2: Học sinh tập nhận biết đặc điểm của loại thơ này qua bài "Đề đền Sầm Nghi Đống".
(Số chữ, số câu? Vần gì, bằng hay trắc, những câu nào phải vần với nhau?).
2. Truyện thơ: Một loại truyện cổ của nước ta, còn gọi là truyện nôm:
- Loại truyện dài
- Viết bằng thơ lục bát.
* Hỏi:
- Tìm ví dụ? Truyện Kiều, Lục Vân Tiên.
- Tại sao gọi là truyện? Có cốt chuyện, tình tiết, nhân vật để phản ánh đời sống, học sinh dẫn chứng bằng Truyện Kiều hay truyện Lục Vân Tiên.
- Tại sao gọi là thơ? Dùng thơ lục bát nhưng cái chính là ở chỗ nó chứa chan cảm xúc, giàu sức gợi cảm, giàu chất thơ, viết bằng ngôn ngữ thơ. Học sinh tìm một ví dụ trong Truyện Kiều (Kiều ở lầu Ngưng Bích) hoặc trong Lục Vân Tiên (lời ông Ngư nói về cuộc đời mình).
3. Hịch và cáo: GV giới thiệu. Ví dụ: Hịch tướng sĩ văn Bình Ngô đại cáo.
- Thuộc loại văn xuôi cổ có tính chất chính trị.
- Bắt buộc phải đối nhau từng cặp giữa các vế và giữa các đoạn, gọi là văn biền ngẫu (biền là hai con ngựa kéo xe sóng nhau, ngẫu là từng cặp).
* Bài tập: GV lấy một ví dụ trong "Hịch tướng sĩ văn" hoặc "Bình Ngô đại cáo" để học sinh tìm xem văn biền ngẫu (đối nhau) ở chỗ nào. Có thể lấy những đoạn sau để học sinh tập.
VD1: "Hịch tướng sĩ văn".
"Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù, dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng".
Kết cấu câu như sau:
tới bữa …. / nửa đêm….
Ta thường Chỉ căm tức rằng chưa
ruột đau … /nước mắt …
xả thịt lột da trăm thây
dẫu cho ta cũng cam lòng
nuốt gan uống máu nghìn xác
VD2: Bình Ngô đại cáo
Đối
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Đối
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
Đối
Cơn gió to trút sạch lá khô
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ
* GV nói rõ thêm sự khác nhau giữa hịch và cáo.
- Hịch: Kêu gọi chiến đấu (việc đang làm hoặc sắp làm).
- Cáo: tổng kết một công việc, có tính chất tuyên ngôn (việc đã làm).
Học sinh đọc SGK để phân biệt hịch và cáo.
* Luyện tập ở nhà:
Vẽ to, đẹp bằng sơ đồ phân loại các thể loại văn cổ mà GV đã trình bày trên bảng. GV sẽ thu, chấm một số bảng.
C. Tiết 3: Thực hành
I. Đề bài:
Thuyết minh truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao.
Gợi ý:
* MB: Định nghĩa truyện ngắn là gì (xem bài tham khảo trong SGK) (trang 154).
* TB: Giới thiệu các yếu tố của truyện ngắn.
1. Tự sự:
a. Là yếu tố chính, quyết định cho sự tồn tại của một truyện ngắn.
b. Gồm: Sự việc và nhân vật chính.
Ví dụ:
- Sự việc chính: Lão Hạc giữ tài sản cho con trai bằng mọi giá.
- Nhân vật chính: Lão Hạc.
* Ngoài ra còn có các sự việc, nhân vật phụ.
Ví dụ:
- Sự việc phụ: Con trai lão Hạc bỏ đi: Lão Hạc đối thoại với cậu Vàng, bán con Vàng, đối thoại với ông giáo, xin bả chó, tự tử…
- Nhân vật phụ: ông giáo, con trai lão Hạc, Bình Tư, vợ ông giáo, con Vàng …
2. Miêu tả, biểu cảm, đánh giá
- Là các yếu tố bổ trợ, giúp cho truyện ngắn sinh động, hấp dẫn.
- Thường đan xen vào các yếu tố tự sự.
3. Bố cục, lời văn, chi tiết.
- Bố cục chặt chẽ, hợp lý.
- Lời văn trong sáng, giàu hình ảnh.
- Chi tiết bất ngờ, độc đáo.
* KB: Vai trò của thể loại truyện ngắn trong nền văn học…
II. Bài tham khảo:
Đề bài: Viết bài thuyết minh về thể loại truyện ngắn theo hiểu biết của em.
Bài làm:
Từ trước tới nay, chúng ta đã được đọc nhiều tác phẩm viết dưới nhiều thể loại: truyền thuyết, truyện cười, truyện ngắn, tiểu thuyết … Nhưng thích nhất vẫn là truyện ngắn. Nó có nhiều điểm khác với các thể loại truyện khác. Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về truyện ngắn.
Truyện ngắn đúng là rất ngắn, phù hợp với tên gọi của truyện, nó là một hình thức tự sự nhỏ. Truyện ngắn có dung lượng nhỏ, kể người thật việc thật nên nó khác với các thể loại khác, truyền thuyết là truyện dân gian truyền miệng, truyện cười gây cười … Truyện ngắn khắc sâu vào lòng người đọc một hình ảnh, một suy nghĩ sâu sắc, một ấn tượng khó phai vì vậy khi đọc truyện ngắn dù chỉ một lần cũng nhớ mãi về nội dung của nó. Truyện ngắn thường tập trung mô tả một mảnh của cuộc sống, một biến cố, một hành động, một trạng thái nào đó trong cuộc sống nhân vật, thể hiện một khía cạnh của tính cách hay một mặt nào đó của đời sống xã hội đương thời. Như trong tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao, truyện đã tập trung mô tả một mảnh cuộc sống của Lão Hạc, đưa ra một hoàn cảnh éo le, con trai không lấy được người yêu, bỏ làng ra đi để lại người cha già và con chó Vàng. Người con trai ra đi có thể sẽ không bao giờ trở về nhưng Lão Hạc cứ mong đợi, dành dụm chắt chiu cho con. Cuối cùng lão đã phải ra đi, phải lìa xa cõi đời để giữ được tiền cho con. Lão là một nạn nhân của xã hội thời xưa, qua đó, tác phẩm đã tố cáo xã hội đương thời xấu xa nhỏ nhen, người tốt phải chết để giữ được nhân phẩm của mình. Tác phẩm khắc sâu vào lòng người đọc bằng nghệ thuật của truyện ngắn. Các tác phẩm truyện ngắn thường nêu cao phẩm chất của con người, phê phán thói hư tật xấu, giáo dục con người đi theo hướng tích cực. Như truyện Chiếc lá cuối cùng của O Hen-ri đã đề cao lòng nhân ái, sự hi sinh cao cả của cụ Bơ - men, một hoạ sĩ nghèo đã cứu mạng sống cho Giôn-xi, một cô hoạ sĩ trẻ, cũng rất nghèo mắc bệnh sưng phổi đang tron cơn tuyệt vọng. Đức hi sinh cao cả này làm cho người đọc thấy cảm động, sâu xa … Truyện ngắn thật phi thường! Vì nội dung của truyện ngắn, tuy nhiên, những nhân vật và sự kiện đó phải thật đặc sắc, thật nổi bật; có ý nghĩa sâu rộng bao quát toàn bài viết. Cốt truyện đơn giản, đời sống nhân vật phức tạp, diễn ra trong một không gian, thời gian hạn chế. Truyện ngắn không kể trọn vẹn một quá trình biến đổi, một quá trình sống của một đời người mà nó thường chọn lấy những khoảnh khắc, lát cắt quan trọng, bất ngờ, đặc biệt để thể hiện. Nhờ sự lắp đặt, bố cục chọn lựa rõ ràng, có các biện pháp tu từ, những phép đối chiếu, tương phản, lời kể hấp dẫn, mạch lạc, giàu cảm xúc, hình ảnh, đã làm bật ra chủ đề chính của toàn bài, chủ đề ấy có thể nằm sâu bên trong, cũng có thể ở bên ngoài. Truyện ngắn do đó mà ngắn nhưng hay, được mọi người chấp nhận.
Truyện ngắn tuy ngắn nhưng rất hay và có ý nghĩa, thường đề cập đến những vấn đề lớn của cuộc đời. Truyện ngắn thường cho con người những bài học quý về cách sống và cách làm người, tu dưỡng cho con người những tư tưởng tốt đẹp. Truyện ngắn cần được quan tâm và phát triển hơn nữa.
Qua thí nghiệm trên, chúng ta biết cách điều chế ô-xi trong phòng thí nghiệm. Những thí nghiệm quan trọng đã cho chúng ta rất nhiều kiến thức bổ ích và lí thú.
Bài 2: Thuyết minh thực hành mổ giun trong môn Sinh học.
Những môn tự nhiên như: Toán, lý, hoá, sinh nếu được làm thí nghiệm trong giờ học thì thú vị biết bao. Vì thế mà chúng ta hãy cùng bàn luận về những giây phút tuyệt vời này. Trước hết, về vấn đề mổ giun trong môn sinh học.
Phần chuẩn bị thì phải có một "chiến sĩ" giun khổng lồ mới dễ mổ. Sau đó là một số dụng cụ để mổ như: manh-xơ-lam dùng để cắt vỏ ngoài khi mũi kéo không lách vào được, kéo để cắt da. Ghim lớp da vào bàn mổ để quan sát bên trong giun. Kẹp da giun (vì da giun trơn). Còn bàn mổ (bằng xốp hoặc thân chuối) dùng để đặt giun lên và ghim khi mổ phanh con giun.
Quan trọng nhất vẫn là phần thực hành mổ giun. Có nhiều bạn nữ hét lên vì sợ giun, nhưng khi mổ thì xông xáo lắm. Thế mới thấy được cái sức hút thú vị của công việc này. Bước vào thực hành mổ, các bạn cần thực hiện các bước mổ như sau:
+ Tẩm cồn ê-te để giun không quẫy.
+ Đặt giun lên bàn mổ và ghim vào hai đầu thân giun ( phần đầu phải ghim thật cao lên trên nếu không sẽ đụng vào thuỳ bán cầu não). Rồi dùng manh-xơ-lam để mổ lớp da (da giun rất trơn nên chưa dùng kéo được). Mổ được một đoạn bạn phải dùng kẹp để kéo lớp da và dùng ghim để ghim ra vào bàn mổ. Mổ phải rất cẩn thận, nếu không các nội quan bên trong sẽ bị bung ra, chệch khỏi vị trí chuẩn ban đầu.
Sau đó chúng ta quan sát. Cứ như vậy, bạn sẽ thấy rõ hệ thần kinh bên trong. Đó là hai quả cầu nhỏ mà trắng là thần kinh não ở trên; và dọc theo sống lưng là từng đốt dây thần kinh khác. Thế là bạn đã đạt được mục đích của thí nghiệm rồi đấy, rất thú vị phải không?
Mổ giun cũng như nhiều thí nghiệm khác đều rất tuyệt vời. Nó sẽ làm cho bạn hứng thú với giờ học + hơn, tiếp thu bài nhanh hơn. Chao ôi! Thí nghiệm quả thật là việc làm thú vị nhất trong một buổi học đấy. Các bạn có đồng ý không?
Cái dí dỏm, châm biếm cũng là một nét cá tính dân tộc thể hiện rõ trong thơ Bác:
Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong tù dánh bạc được công khai
Bị tù, con bạc ăn năn mãi
Sao trước không vô quách chốn này.
Tất nhiên đây chỉ muốn nói cá tính cộng sản Việt Nam phong phú, chứ không thể trách phong cách Tố Hữu nghèo, Không thể bắt hoa hồng phải đẹp luôn cả cái sắc của hoa cúc và hoa mai.
Trên cơ sở nhận thức sự nhất trí về phương pháp của một nền văn học, tìm tòi khám phá thêm phong cách riêng của mỗi nhà văn là rất cần thiết cho việc học tập, thưởng thức. Đối với văn học vô sản là như vậy, mà đối với văn học cổ đại, cận đại cũng như vậy. Cùng viết theo phương pháp hiện thực phê phán nhưng Nam Cao và Nguyễn Công Hoan độc đáo ở những mặt khách nhau. Cũng cùng là văn học cách mạng trước năm 1930, nhưng Phan bội Châu khác Ngô Đức Kế. Cùng theo xu hướng hiện thực trào phúng, nhưng Nguyễn Khuyến và Tú Xương không giống nhau. Khám phá cho được thế giới nghệ thuật riêng biệt của từng nhà văn mới hiểu được hết chân giá trị thẩm mỹ trong sáng tác của họ.
Tiết 4: Tư liệu tham khảo
I- Giới thiệu:
Về các thể thơ văn cổ(1) Đây chỉ viết theo chương trình phổ thông.
1. Thơ đường luật:
a. Bát cú: là lối thơ có 8 câu và thường dùng nhất.
- Vần: Suốt bài thơ chỉ gieo theo một vần và đặt ở cuối cấu. Chỉ dùng vần bằng chứ không dùng vần trắc. Trong một bài bát cú có 5 vần gieo ở cuối câu đầu và cuối các câu chẵn (1, 2, 4, 6, 8).
- Đối: Đối y là tìm hai ý cân nhau đặt thành hai câu sóng nhau. Đối thanh là thanh bằng đối với thanh trắc và ngược lại. Đối từ là danh từ đối với danh từ, động từ đối với động từ v.v... Trừ hai câu đầu và hai câu cuối, còn 4 câu giữa thì câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối với câu 6.
- Luật: Tức là cách xếp đặt tiếng bằng, tiếng trắc trong các câu. ằng gồm có thanh không và thanh huyền; trắc gồm các thanh sắc, hỏi, ngã, nặng. Có thể làm theo hai luật: luật bằng là luật thơ bắt đầu bằng hai tiếng bằng, luật trắc là luật bắt đầu bằng hai tiếng trắc. Dưới đây là bảng kê các luật thơ (b = bằng, t= trắc, v = vần); những từ in chữ ngả, là phải theo đúng luật, những từ khác không theo đúng luật cũng được, theo tỷ lệ "bất luận" sẽ nói sau.
Luật bằng:
Vần bằng
Vần trắc
Ngũ ngôn bát cú
Thất ngôn bát cú
Ngũ ngôn bát cú
b b t t b (v)
b b t t t b b (v)
b b b t t (v)
t t t b b (v)
t t b b t t b (v)
t t b b t (v)
t t b b t
t t b b b t t
t t t b b
b b b t t b (v)
b b t t t b b (v)
b b b t t (v)
b b b t t
b b t t b b t
b b t t b
t t t b b (v)
t t b b t t b (v)
t t b b t (v)
t t b b t
t t b b b t t
t t t b b
b b t t b (v)
b b t t t b b (v)
b b b t t (v)
Luật trắc:
Vần bằng
Vần trắc
Ngũ ngôn bát cú
Thất ngôn bát cú
Ngũ ngôn bát cú
t t t b b (v)
t t b b t t b (v)
t t b b b t t (v)
b b t t b (v)
b b t t t b b (v)
b b t t b b t (v)
b b b t t
b b t t b b t
b b t t t b b
t t t b b (v)
t t b b t t b (v)
t t b b b t t (v)
t t b b t
t t b b b t t
t t b b t t b
b b t t b (v)
b b t t t b b (v)
b b t t b b t (v)
b b b t t
b b t t b b t
b b t t t b b
t t t b b (v)
t t b b t t b (v)
t t b b b t t (v)
Vì theo đúng luật bằng trắc như trên là khó nên có lệ bất luận (không kể). Đối với thơ 5 tiếng thì có lệ nhất tam bất luận (tiếng thứ 1, thứ 3 không cần đúng luật). Đối với thơ 7 tiếng thì có lệ nhất tam ngũ bất luận (tiếng thứ 1, thứ 3, thứ 5 không cần đúng luận).
- Niêm: Hai câu thơ niêm với nhau, khi nào tiếng thứ 2 của hai câu cùng theo một thanh, hoặc bằng, hoặc trắc. Trong một bài thơ bát cú, những câu sau này phải niêm với nhau: 1 với 8, 2 với 3, 4 với 5, 6 với 7.
- Cách bố cục: bài thơ bát cú gồm có 4 phần: Đề gồm có phá đề (câu 1) là mở bài, và thừa đề (câu 2) là nối với câu phá mà vào bài. Thực hoặc trạng (2 cấu 3 và 4) là giải thích đầu bài cho rõ ràng, Luận (2 câu 5 và 6) là bàn cho rộng nghĩa đầu bài. Kết (2 câu cuối) là tóm tăt ý nghĩa của cả bài.
b. Tứ tuyệt: Là thể thơ 4 câu ngắt từ thơ tám câu mà thành:
- Ngắt 4 câu trên, bài thơ do đó có 3 vần, câu 1 và 2 không đối nhau, câu 3 và 4 đối nhau. Thí dụ ài "Khoa thi Đinh dậu" của Tú Xương so sánh với biểu thất ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở trên).
Một đàn thằng hỏng đứng mà trông
Nó đõ khoa này có sướng không
đối nhau
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới dân ông cử ngỏng đất rồng.
- Ngắt 4 câu giữa, bài thơ do đó chỉ có 2 vầ, song các câu lại đối nhau. Thí dụ bài "Khóm gừng tỏi" của Ôn Như Hầu (so sánh iểu với Ngũ ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở trên):
đối nhau
Lởm chởm vài hàng tỏi
Lơ thơ mấy khóm gừng
đối nhau
Vẻ chi là cảnh mọn
Mà cũng đến tang thương
- Ngắt 4 câu dưới, bài thơ do đó chỉ có 2 vần, hai câu trên đối nhau, hai câu dưới không đối nhau. Thí dụ bài "Tụng giá hoàn kinh sư" (Theo vua về kinh đô) của Trần Quang Khải (so sánh với biểu Ngũ ngôn bát cú, luật ằng, vân bằng ở trên).
đối nhau
Đoạt sáo Chương dương độ
Cầm Hồ Hàm tử quan
Thái bình tu nỗ lực
Vạn cổ thử giang san
- Ngắt hai câu đầu và hai câu cuối, bài thơ do đó có 3 vần, cả 4 câu không đối. Thí dụ bài "Cái pháo" của Nguyễn Hữu Chỉnh (so sánh với Thất ngôn bát cứ, luật bằng , vần bằng ở trên):
Xác không, vốn những cậy tay người.
Bao nả công trình, tạch cái thôi!
Kêu lắm, lại càng tan tác lắm
Thế nào cũng mộ tiếng mà thôi.
- Ngắt hai câu 1,2 và 5, 6, bài thơ do đó có 3 vần, hai câu cuối đối nhau. Thí dụ bài (Con cóc) của Lê Thánh Tôn (so sánh với Thất ngôn bát cú, luật trắc, vần bằng ở trên):
Bác mẹ sinh ra vốn ao rồi
Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi
đối nhau
Tép miệng năm ba con kiến gió
Nghiến răng chuyển động bốn phương trời
2. Các lối thơ đặc biệt
a. Liên hoàn: Là lối thơ có nhiều khổ mà cứ câu cuối khổ trên lấy làm câu đầu khổ dưới, hoặc vài ba tiếng khổ trên láy lại ở đầu khổ dưới. Thí dụ bài "Hủ nho tự trào" của Tú Xương:
Ngán nỗi nhà nho bọn hủ ta,
Hủ sao hủ gớm hủ ghê mà!
Phen này cái hủ xua đi hết
Cứ để cười nhau hủ mãi à?
ả
Cứ để cười nhau hủ mãi à?
Cười ta ta cũng biết rằng ta:
Nay đương buổi học ganh đua mới,
Còn giữ lề xưa mãi thế a?
b. Lục ngôn:
Là thơ 6 t
File đính kèm:
- Chuyeddeeef van thuyet minh.doc