Đại văn hào william shakespeare với bi kịch “romeo và juliet"

William Shakespeare (1564-1616) là nhà viết kịch và nhà thơ bậc nhất của nước Anh, đồng thời cũng là tác giả danh tiếng nhất trên Thế Giới. Không một nhà văn nào có các tác phẩm được nhiều người tại nhiều quốc gia tìm đọc hơn William Shakespeare bởi vì Đại Văn Hào Shakespeare đã hiểu rõ bản chất của con người, đã nhìn rõ các hoàn cảnh đặc biệt mà con người sinh hoạt, đã tạo ra các nhân vật trong các vở kịch mang nhiều ý nghĩa ra ngoài thời gian và không gian. Những nhân vật này đã tranh đấu giống như mọi người trong đời sống hàng ngày, đôi khi họ thành công, nhưng cũng có khi họ gặp thất bại cay đắng, bi thương.

 

William Shakespeare đã có một kiến thức rộng rãi về nhiều đề tài gồm cả Thánh Kinh, Luật Pháp, Chính Trị, Lịch Sử, Nghệ Thuật, Âm Nhạc, Thể Thao, Săn Bắn, Thủ Công đó là sự hiểu biết của một học giả nhưng ông lại chỉ có kinh nghiệm về Sân Khấu. William Shakespeare đã viết ra 37 vở kịch, được chia thành 3 loại là hài kịch, lịch sử và bi kịch với mọi loại nhân vật như vua chúa, tướng lãnh, các nhà triết học, các kẻ chăn cừu, các tay nghiện rượu, các kẻ móc túi cho đến những tên giết mướn. Các vở kịch của William Shakepeare đã được phổ biến khắp nơi, gây nên ảnh hưởng lớn lao về Văn Hóa trên toàn Thế Giới. Nhiều từ và câu trong các vở kịch và bài thơ của William Shakespeare đã ở trong câu nói hàng ngày của nhiều dân tộc. Các tác phẩm của William Shakespeare đã giúp công vào việc hình thành Văn Chương của tất cả các quốc gia nói tiếng Anh và không nói tiếng Anh như hai nước Đức và Nga.

 

Các ý tưởng của William Shakespeare về các vấn đề như tình yêu lãng mạn, tính anh hùng hay bản chất của bi kịch đã tạo ảnh hưởng tới thái độ của hàng triệu người. Hơn nữa, các hình ảnh do William Shakespeare mô tả như Julius Caesar, Mark Anthony và Cleopatra đã gây ấn tượng đến chúng ta hơn các cuốn sách dạy về Lịch Sử.

 

Các vở kịch, các bài thơ của William Shakespeare đã được in thành sách, dịch sang các ngôn ngữ khác nhau và hàng ngàn học giả vẫn nghiên cứu các tác phẩm của William Shakespeare cũng như các nhà soạn nhạc đã dựa vào các câu chuyện và nhân vật của William Shakespeare để soạn ra các nhạc kịch danh tiếng. Ngày nay, đã có các bộ sách nghiên cứu đặc biệt, các thư viện đặc biệt với chuyên đề là William Shakespeare như Thư Viện Folger Shakespeare tại Thủ Đô Washington D.C., Thư Viện và Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Henry E. Huntington tại San Marino, Calif., Viện Bảo Tàng Anh Quốc (the British Museum) tại thành phố London, Thư Viện Bodleian của Đại Học Oxford, nước Anh, đồng thời các nhà làm phim đã chuyển các vở kịch của William Shakespeare thành các bộ phim hấp dẫn trình chiếu khắp nơi trên Thế Giới.

 

 

doc17 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4781 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đại văn hào william shakespeare với bi kịch “romeo và juliet", để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI VĂN HÀO WILLIAM SHAKESPEARE VỚI BI KỊCH “ROMÉO VÀ JULIET 1. ĐẠI VĂN HÀO WILLIAM SHAKESPEARE VỚI BI KỊCH “ROMÉO VÀ JULIET” William Shakespeare (1564-1616) là nhà viết kịch và nhà thơ bậc nhất của nước Anh, đồng thời cũng là tác giả danh tiếng nhất trên Thế Giới. Không một nhà văn nào có các tác phẩm được nhiều người tại nhiều quốc gia tìm đọc hơn William Shakespeare bởi vì Đại Văn Hào Shakespeare đã hiểu rõ bản chất của con người, đã nhìn rõ các hoàn cảnh đặc biệt mà con người sinh hoạt, đã tạo ra các nhân vật trong các vở kịch mang nhiều ý nghĩa ra ngoài thời gian và không gian. Những nhân vật này đã tranh đấu giống như mọi người trong đời sống hàng ngày, đôi khi họ thành công, nhưng cũng có khi họ gặp thất bại cay đắng, bi thương. William Shakespeare đã có một kiến thức rộng rãi về nhiều đề tài gồm cả Thánh Kinh, Luật Pháp, Chính Trị, Lịch Sử, Nghệ Thuật, Âm Nhạc, Thể Thao, Săn Bắn, Thủ Công… đó là sự hiểu biết của một học giả nhưng ông lại chỉ có kinh nghiệm về Sân Khấu. William Shakespeare đã viết ra 37 vở kịch, được chia thành 3 loại là hài kịch, lịch sử và bi kịch với mọi loại nhân vật như vua chúa, tướng lãnh, các nhà triết học, các kẻ chăn cừu, các tay nghiện rượu, các kẻ móc túi… cho đến những tên giết mướn. Các vở kịch của William Shakepeare đã được phổ biến khắp nơi, gây nên ảnh hưởng lớn lao về Văn Hóa trên toàn Thế Giới. Nhiều từ và câu trong các vở kịch và bài thơ của William Shakespeare đã ở trong câu nói hàng ngày của nhiều dân tộc. Các tác phẩm của William Shakespeare đã giúp công vào việc hình thành Văn Chương của tất cả các quốc gia nói tiếng Anh và không nói tiếng Anh như hai nước Đức và Nga. Các ý tưởng của William Shakespeare về các vấn đề như tình yêu lãng mạn, tính anh hùng hay bản chất của bi kịch đã tạo ảnh hưởng tới thái độ của hàng triệu người. Hơn nữa, các hình ảnh do William Shakespeare mô tả như Julius Caesar, Mark Anthony và Cleopatra đã gây ấn tượng đến chúng ta hơn các cuốn sách dạy về Lịch Sử. Các vở kịch, các bài thơ của William Shakespeare đã được in thành sách, dịch sang các ngôn ngữ khác nhau và hàng ngàn học giả vẫn nghiên cứu các tác phẩm của William Shakespeare cũng như các nhà soạn nhạc đã dựa vào các câu chuyện và nhân vật của William Shakespeare để soạn ra các nhạc kịch danh tiếng. Ngày nay, đã có các bộ sách nghiên cứu đặc biệt, các thư viện đặc biệt với chuyên đề là William Shakespeare như Thư Viện Folger Shakespeare tại Thủ Đô Washington D.C., Thư Viện và Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Henry E. Huntington tại San Marino, Calif., Viện Bảo Tàng Anh Quốc (the British Museum) tại thành phố London, Thư Viện Bodleian của Đại Học Oxford, nước Anh, đồng thời các nhà làm phim đã chuyển các vở kịch của William Shakespeare thành các bộ phim hấp dẫn trình chiếu khắp nơi trên Thế Giới. 1/ Cuộc đời của William Shakespeare. Vào thời đại của Nữ Hoàng Elizabeth Đệ Nhất, người dân nước Anh chỉ quan tâm đến các sự việc liên quan tới nhà thờ và quốc gia. Các chi tiết về tiểu sử, nhất là tiểu sử của một nhà soạn kịch, lại càng không được chú ý, ngoài ra nghề viết kịch không phải là một nghề cao quý trong xã hội. Do thiếu các tài liệu chính xác, nhiều người cùng tin rằng William Shakespeare sinh vào năm 1564, năm thứ 6 của triều đại Nữ Hoàng Elizabeth I và được rửa tội có lẽ vào ngày 26 tháng 4 tại Stratford-upon-Avon, trong khu vực Warwickshire nằm cách thành phố London 120 cây số về phía tây bắc. William Shakespeare là người con thứ ba của ông John và bà Mary Arden Shakespeare. Ông John Shakespeare, cha của William, vốn là một người thợ thuộc da và bà Mary Arden là con gái của một chủ trại giàu có hơn, theo đạo Thiên Chúa Catholic. Hai ông bà kết hôn vào năm 1557. Hai người chị của William đã qua đời trước khi William sinh ra và các người em khác là Gilbert, Joan thứ hai, Anne, Richard và Edmund. Chỉ có em gái Joan thứ hai sống lâu hơn William. Stratford-upon-Avon là một thị xã thịnh vượng và tiến bộ, hãnh diện vì có một trường tiểu học gồm nhiều thầy giáo tốt nghiệp Đại Học Oxford. William bắt đầu đi học vào tuổi lên 7, có lẽ theo học trường tiểu học Stratford với các trẻ em cùng giai cấp. Vào cuối thế kỷ 16, thị xã Stratford có dân số vào khoảng 1,500 tới 2,000 người nhưng lại là nơi họp chợ quan trọng của cư dân các vùng chung quanh. Cuộc sống của người dân nơi thị xã này khá tấp nập nhờ các buổi họp chợ, nhờ các đoàn kịch đến trình diễn các vở hát như Robin Hood. Bên ngoài thị xã là các cánh đồng, các khu rừng, ngoài ra gần thị xã còn có giòng sông Avon, là nơi có nhiều người câu cá, thả lưới.William Shakespeare đã yêu mến thiên nhiên và đời sống nông thôn với chim muông, sâu bọ và các người dân quê hiền lành, nên về sau đã phản ánh những tình cảm này qua các bài thơ và các vở kịch. Vào năm 1576, ông John Shakespeare đã gặp một tai nạn khiến cho ông phải bán đi nhiều tài sản và William không thể theo học được nữa. Ông John đưa con trai về nhà để phụ giúp cửa hàng. Một sự việc bất lợi khác xẩy ra khiến cho William phải cưới vợ vội vã vào tuổi 18, khi đó cô dâu Anna Hathaway 26 tuổi, là con gái của một chủ trại giàu có, sinh sống trong làng Shottery, cách Stratford vào khoảng một dặm đường. Họ đã có con gái đầu lòng tên là Susanna, rồi tới đầu năm 1585, một cặp sinh đôi đã ra chào đời là Hamnet, con trai, và Judith, con gái. Trong khoảng thời gian từ năm 1585 tới năm 1592, đã không có chi tiết nào ghi về cuộc đời của William Shakespeare. Một câu chuyện khác nói rằng William Shakespeare sống tại thành phố London vào năm 1588, làm nghề coi ngựa cho chủ rạp hát và cũng làm người hầu. Từ năm 1592, William Shakespeare đã hoàn toàn dấn thân vào sinh hoạt kịch nghệ của thành phố London với vai trò của một diễn viên và của người có cổ phần trong công ty kịch nghệ "The Lord Chamberlain's Men". Đây là đoàn hát danh tiếng thường hay trình diễn trong triều đình của Nữ Hoàng Elizabeth I. Trung bình mỗi năm William Shakespeare sáng tác được 2 vở kịch và là nhà soạn kịch danh tiếng nhất của thành phố London. Trong cuốn sách có tên là "Palladio Tamia : Witt's Treasury", xuất bản vào năm 1598, nhà văn trẻ tuổi Francis Meres đã viết về William Shakespeare như sau :"Giống như Plautus và Seneca nổi danh về các hài kịch và bi kịch viết bằng tiếng La Tinh, Shakespeare là tác giả người Anh xuất sắc nhất về cả hai loại kịch kể trên dùng cho sân khấu". Lời khen ngợi của Francis Meres đã xác nhận rằng vào cuối thập niên 1590, William Shakespeare đã là nhà văn hữu hạng dù cho vào thời gian này, ông chưa viết ra các vở bi kịch lớn lao như Hamlet, Othello, Vua Lear và Macbeth. Từ năm 1592 tới năm 1594, bệnh dịch đã khiến cho các rạp hát tại thành phố London phải đóng cửa nên William Shakespeare quay sang làm thơ. Năm 1593, tập thơ dài của William Shakespeare với tên là "Venus và Adonis" được in ra và đề tặng cho Henry Wriothesley, Hầu Tước miền Southampton. Tập thơ "Venus và Adonis" đã sớm thành công. Sau đó vào năm 1594 tập thơ dài thứ hai của William Shakespeare có tên là "Cuộc Hiếp Dâm Nàng Lucrece" (the Rape of Lucrece). Vào cuối thập niên 1590, không những là một nhà văn danh tiếng, William Shakespeare còn là một nhà kinh doanh giàu có nhờ các cổ phần khai thác bằng các đoàn kịch. Năm 1597, William Shakespeare đã mua được tòa nhà New Place, một trong hai kiến trúc lớn nhất của thị xã Stratford. Năm 1599, Shakespeare cùng với 6 người hùn cổ phần, đã mua lại Rạp Hát "Hoàn Cầu" (The Globe) tại ngoại ô của thành phố London. Đây là rạp hát mới, loại ngoài trời, rất rộng lớn, có thể chứa tới 3,000 khán giả. Năm 1603, Nữ Hoàng Elizabeth I qua đời. Nối ngôi là một người trong họ của Nữ Hoàng, là Vua James VI của xứ Tô Cách Lan (Scotland). Khi lên làm vua nước Anh, James VI trở thành James I và nhà vua này rất ưa thích sân khấu nên đã trợ giúp các đoàn kịch. Vua James I cũng cho phép đoàn kịch của Shakespeare được trình diễn trong triều đình vì vậy đoàn kịch này trở thành "The King's Men" hay "Đoàn Kịch của Nhà Vua", một loại người giúp vui chuyên nghiệp cho Triều Đình Anh. "The King's Men" đã thực hiện được nhiều thành công và là đoàn kịch dẫn đầu của thành phố London. Trong các năm từ 1599 tới 1608, William Shakespeare đã hoạt động tích cực, đã viết ra nhiều hài kịch và hầu như tất cả bi kịch, do đó danh tiếng của ông đã vang lừng. Năm 1609, một nhà xuất bản tại thành phố London tên là Thomas Thorpe đã cho ra đời một cuốn sách có nhan đề "Các bài thơ Sonnet của Shakespeare". Cuốn này gồm hơn 150 bài thơ loại 14 câu mà Shakespeare đã làm trong nhiều năm. Vào 8 năm cuối đời, William Shakespeare đã viết 4 vở kịch là Cymbeline, Henry VIII, "Bão Tố" (the Tempest) và "Câu chuyện của Mùa Đông" (the Winter 's Tale). Vào ngày 10 tháng 2 năm 1616, người con gái nhỏ của William Shakespeare tên là Judith, lập gia đình với Thomas Quiney, con trai của một người hàng xóm. 6 tuần lễ sau đó, Shakespeare viết di chúc rồi trong vòng một tháng, ông qua đời và được chôn tại nghĩa trang của nhà thờ Stratford. 7 năm về sau, tức là vào năm 1623, các tác phẩm lừng danh của Đại Văn Hào William Shakespeare bắt đầu được in thành sách và được phổ biến. 2/ Bối cảnh xã hội của thời Shakespeare. Các tác phẩm của William Shakespeare đã phản ảnh các hoàn cảnh văn hóa, xã hội và chính trị của thời đại Elizabeth I. Vào cuối thế kỷ 16 tại nước Anh, phần lớn dân chúng vẫn còn tin tưởng vào các hồn ma, các mụ phù thủy và các nhà quỷ thuật (magicians). Không có tài liệu nào chứng tỏ Shakespeare có các niềm tin như thế nhưng Đại Văn Hào Shakespeare đã dùng các dị đoan trong các tác phẩm của ông một cách hữu hiệu như hồn ma đóng vai trò quan trọng trong các vở kịch Hamlet, Julius Caesar, Macbeth và Richard III, các mụ phù thủy là những nhân vật chính trong vở kịch Macbeth, và Prospero là một nhà quỷ thuật trong vở kịch "Bão Tố" (The Tempest). Vào thập niên 1580, thành phố London với dân số vào khoảng 150,000 người, đã trở nên một nơi thị tứ sầm uất của châu Aâu. Trên giòng sông Thames đã có hàng ngàn con tầu buôn xuôi ngược và đôi khi Con Phà Hoàng Gia (the Royal Barge) rực rỡ cũng xuất hiện trên giòng sông này. Cây Cầu London (the London Bridge) cũng là nơi danh tiếng với trên đầu cầu về phía nam có Tháp London (the Tower of London), nơi hay trưng bày các đầu lâu của những kẻ bị xử tội phản bội và đây là dấu tích của cảnh bạo lực thuộc Thời Đại Nữ Hoàng Elizabeth I. London có hơn 100 nhà thờ mà danh tiếng nhất là ngôi giáo đường St. Paul cổ kính. Ngoài ra về phía tây, còn có Inns of Court là một trường đại học đào tạo các luật sư, còn có Lâu Đài Hoàng Gia Whitehall (the Whitehall Royal Palace) và Cung Điện Westminster. Tới cuối thập niên 1580, Nữ Hoàng Elizabeth I đang ở trên đỉnh cao danh vọng. Cuộc âm mưu của người Tây Ban Nha tìm cách ám sát Nữ Hoàng đã gặp thất bại và Nữ Hoàng Mary of Scots đã bị hành quyết vào năm 1587. Hạm Đội Armada hùng hậu của Tây Ban Nha đã bị tan tác vào năm 1588. Cảnh thịnh vượng, sang trọng của triều đình Anh là dấu hiệu về quyền lực của Triều Đại Elizabeth I. Trong Thời Đại Elizabeth I, Văn Chương đã phát triển. Triều Đình Anh đã trợ cấp cho các nhà văn, nhà thơ khi viết ra các tác phẩm. Một số nhà văn quý tộc như Sir Walter Raleigh, Sir Philip Sidney… cũng sáng tác ra các áng văn thơ phản ánh vẻ rực rỡ của triều đại, đồng thời các nhà thơ có nguồn gốc bình dân cũng được bảo trợ như Christopher Marlowe, Edmund Spencer và Michael Drayton. Trong hoàn cảnh kinh tế, xã hội này, ngành Kịch Nghệ đã phát triển và bắt nguồn từ hai chiều hướng. Chiều hướng thứ nhất hoàn toàn thế tục, bình dân, kể lại các truyền thuyết cổ, các câu chuyện trong Thánh Kinh, các mẩu chuyện Lịch Sử cổ kim, còn loại thứ hai do các sinh viên của Trường Inns of Court, họ là các cựu sinh viên của Viện Đại Học Oxford hay Cambridge, đã từng hiểu biết Lịch Sử và Kịch Nghệ của các Thời Đại Hy Lạp, La Mã. Sự phối hợp nền văn học cổ điển với loại sân khấu bình dân hiện đại đã cho ra đời vào năm 1587 các vở kịch xuất sắc như "Tamburlaine" của Christopher Marlowe, hay "Bi Kịch Tây Ban Nha" (the Spanish Tragedy) của Thomas Kyd… Về môi trường sống, thành phố London vào năm 1600 có độ 200,000 dân. Theo các tiêu chuẩn hiện nay thì thành phố này rất đông người và thiếu vệ sinh, nhưng do là thủ đô của nước Anh, London đã thu hút đủ mọi loại người tới đây tìm các cơ hội thăng tiến : các quan chức, thầy giáo, nghệ sĩ, nhạc sĩ, sinh viên… và các nhà văn. Việc dấn thân sâu xa vào đời sống của thành phố London của William Shakespeare đã khiến ông hiểu biết rất rộng rãi, nhờ đó ông đã tạo ra được nhiều nhân vật đa dạng trong các vở kịch. Vào cuối thế kỷ 16, khi Shakespeare bắt đầu viết các kịch bản, người dân nước Anh mang vẻ lạc quan. Năm 1588, nước Anh vừa chiến thắng Hạm Đội hùng hậu Armada của Tây Ban Nha, tinh thần ái quốc của người dân Anh lên cao. Qua đầu thế kỷ 17, khi Nữ Hoàng Elizabeth I qua đời vào năm 1603, tại nước Anh đã xuất hiện nhiều vấn đề kinh tế và xã hội, các cuộc chiến nhỏ với vài nước khác đang diễn ra, các bệnh dịch lan tràn, giết hại hàng trăm người. Đời người trở nên bị đe dọa, ngắn ngủi. Các vụ xáo trộn chính trị đã gây nên nhiều pháp trường với cảnh chặt đầu các kẻ phản bội, cảnh treo cổ các phạm nhân nơi công cộng. Vì thế các kịch bản của William Shakepeare cũng phản ảnh sự thay đổi, từ lạc quan sang bi quan. Các hài kịch không còn thấy xuất hiện mà thay vào là các bi kịch như vở "Measure for Measure" (Mạt cưa, mướp đắng) hay vở "All's Well that Ends Well" (Cây lành cho quả ngon). Bi kịch "Vua Lear" đã là một tiếng kêu trong thất vọng. Nền văn chương của Thời Đại Elizabeth I phản ảnh các cảnh bạo lực (violence) hay cảnh chết chóc nên đồng thời, các bi kịch của Shakespeare cũng hàm chứa các cảnh tự sát hay giết người của các nhân vật chính trong kịch. Nhưng, dù cho mang đặc tính tàn bạo, người dân của thời đại này vẫn nhậy cảm đối với vẻ đẹp và thơ mộng. Văn Chương đã mang nhiều hình thức, kể cả kịch thơ (poetic drama), chuyện giả tưởng và các bài tham luận (essays). Người dân nước Anh vẫn yêu thích Aâm Nhạc với các nhạc sĩ tài danh của nước Anh đứng ngang hàng với các nhạc sĩ của châu Aâu. Aâm Nhạc dùng các nhạc cụ, các bài hát và các bài nhẩy múa là ba yếu tố quan trọng trong các vở kịch của Thời Đại Elizabeth I. Cho tới năm 1576, các diễn viên kịch nghệ chưa có các rạp hát cố định, họ trình diễn trong các ngôi nhà lớn của thành phố. Do Nữ Hoàng ưa thích các vở kịch từ đầu thập niên 1570 nên các diễn viên được nâng đỡ và các rạp hát bắt đầu được xây dựng. James Burbage vốn là một thợ mộc, đã trở thành một diễn viên và mở ra rạp hát "The Theatre" vào năm 1576 tọa lạc tại vùng đông bắc của thành phố London. Một rạp hát thứ hai tên là "The Curtain" được xây dựng vào năm 1577. Tại bờ phía nam của giòng sông Thames, vào năm 1587 Philip Henslowe đã dựng nên rạp hát thứ ba tên là "The Rose Theater" (Rạp Hát Hoa Hồng) rồi rạp hát thứ tư "The Swan Theater" (Rạp Hát Con Thiên Nga) mở cửa vào năm 1596. Cho tới năm 1596, William Shakespeare cư ngụ tại Bishopgate, gần các rạp hát và đã theo một trong các công ty kịch nghệ từ trước năm 1594. Các rạp hát ban đầu là các tòa nhà bằng gỗ, hình tròn, ở giữa là một sân rộng và khán giả (gọi là groundlings) đứng tại sân coi hát. Nếu chịu mua vé đắt tiền hơn, khán giả có thể ngồi trên 3 khán đài (galleries) có mái che nắng và che mưa. Vào thời kỳ đó, khán giả là loại người bình dân, thường uống rượu, nói năng ồn ào và có cử chỉ thô tục khi coi hát. Người viết kịch có tài thỉnh thoảng phải xen vào các pha khôi hài để làm cho khán giả vui thích. Các buổi trình diễn thường được tổ chức vào ban ngày, khi thời tiết tốt và để báo cho dân chúng quanh vùng biết có đoàn hát tới trình diễn, một lá cờ được kéo lên trên đỉnh tháp của rạp hát. Trên sân khấu của rạp hát vào thời đó, không có màn, không có phông cảnh, trên mái có vẽ các ngôi sao tượng trưng cho bầu trời và từ phần lầu của rạp hát (gọi là heavens) có thể hạ xuống sân khấu một thiên thần ngồi trên một cái ghế buộc bằng các sợi dây thừng. Rạp hát cũng có phần dưới sân khấu (gọi tên là hell) nhờ đó một diễn viên có thể xuất hiện hay biến đi khi vở kịch đòi hỏi. Mặc dù thiếu cảnh trí, sân khấu thời đó cũng dùng tới các dụng cụ phụ như bàn, ghế, ngai vàng, gươm súng, cờ xí, lều … Cũng có kèn, trống và các nhạc cụ khác. Tiếng sấm được tượng trưng bằng tiếng động do lăn mạnh các trái cầu bằng sắt. Có khi một khẩu đại bác bắn ra mà không có đạn, gây nên tiếng nổ lớn nhưng cũng dễ gây ra hỏa hoạn. Khi một vở kịch được trình diễn, một chậu cây tượng trưng cho một khu rừng và đôi khi có một người cầm một tấm bảng viết hàng chữ như "tại một khu rừng gần thành phố Athens", hay một diễn viên bước ra sân khấu và nói lớn "nơi đây là khu rừng Arden". Y phục của các diễn viên thời đó cũng khá lịch sự. Theo tục lệ, các nhà quý tộc khi qua đời, thường để lại các y phục cho kẻ hầu trung thành và những người hầu này đã bán loại quần áo đó cho đoàn hát. Vào thời đại Nữ Hoàng Elizabeth I, các vở kịch thường hay trình bày cảnh giết người nên diễn viên đeo sẵn một bọc máu heo bên trong áo ngoài nhờ đó khi nạn nhân bị đâm, mới có cảnh đổ máu trông giống như thực. Cũng vào thời đại Nữ Hoàng Elizabeth I, Thanh Giáo (the Puritans) là nhóm tôn giáo có thế lực mạnh nhất. Họ rất nghiêm khắc về vấn đề đạo đức và cho rằng các vở kịch chỉ trình bày các cảnh tội lỗi, không thánh thiện, các rạp hát là nơi tụ họp của đám đông thiếu kỷ luật và các tội phạm. Cũng do ảnh hưởng của nhóm Thanh Giáo, các rạp hát chỉ được xây dựng bên ngoài biên giới của thành phố London và họ muốn chấm dứt hoạt động của các đoàn kịch nhưng Nữ Hoàng Elizabeth I và một số quan đại thần lại ưa thích kịch nghệ và đã bảo vệ các diễn viên. Do một đoàn kịch được một nhà quý tộc bảo trợ nên họ có tên là "The Admiral 's Men" (Các người của Ngài Đô Đốc) hay "Lord Chaimberlain 's Men" (Các người của Hầu Tước Chaimberlain), và đôi khi chính Nữ Hoàng cũng có các diễn viên riêng, được gọi là "The Queen 's Men" (Các người của Nữ Hoàng). Tên của người bảo trợ từ đó đi theo đoàn kịch khi họ trình diễn tại các rạp hát hay khi họ đi lưu diễn tại các tỉnh. Mỗi đoàn kịch thường gồm 12 người đàn ông vừa là diễn viên, vừa chung cổ phần với nhau trong nhiều năm và cũng có các trẻ em học nghề, các người phụ việc. Thời đó, phụ nữ không được làm diễn viên và vai đàn bà do các em trai đóng nhờ giọng nói thanh và không có râu. Đoàn hát cũng mướn các nhạc công và các vở kịch với cốt truyện hất dẫn, với các bài thơ hay, được viết ra do những người có học, hay nhóm nhân tài, được gọi tên là "The University Wits" (các bậc trí thức đại học). Nhà viết kịch danh tiếng nhất thời bấy giờ là Christopher Marlowe. Thời gian sáng tác ra các vở kịch của William Shakespeare được chia thành 4 giai đoạn : (1) các năm cho tới 1594, (2) các năm từ 1594 tới 1600, (3) các năm từ 1600 tới 1608 và (4) giai đoạn cuối cùng là thời gian sau năm 1608. Giai đoạn sáng tác thứ nhất của William Shakespeare là thời kỳ học nghề, vào tuổi từ 26 tới 30. Shakespeare đã dựa theo các hài kịch và bi kịch La Mã, đặc biệt là loại bi kịch của Seneca (Senecan tragedy) hay "bi kịch có máu" (tragedy of blood), đã bắt chước văn phong của các nhà viết kịch thời trước và đương thời, và có thể tác giả cũng cộng tác với Christopher Marlowe. Các vở kịch của giai đoạn này nhấn mạnh tới các biến cố (events) hơn là diễn tả hình ảnh và nội tâm của các nhân vật. Giai đoạn sáng tác thứ hai của William Shakespeare nổi danh vì các vở kịch như "Roméo và Juliet", "Người lái buôn thành Venice" (the Merchant of Venice), và "Vua Henry IV", với vở hài kịch xuất sắc tên là "Giấc Mộng Đêm Hè" (A Midsummer Night 's Dream). Văn phong của William Shakespeare trưởng thành, hàm chứa sức mạnh và chứng tỏ thiên tài của tác giả do các vở kịch vui tươi, châm biếm các mối tình lãng mạn, với nhiều bài thơ mô tả xúc tích. Vở kịch "Hamlet" viết vào khoảng năm 1601, mở đầu cho giai đoạn thứ ba. Trong 8 năm, William Shakespeare đã thăm dò các điều ác, và thế giới của kinh hãi được trình bày bằng các bi kịch lớn vì tác giả đã bi quan trước các tư tưởng tuyệt vọng của con người, trước các hoàn cảnh đau thương của xã hội. Trong giai đoạn thứ tư và cũng là giai đoạn cuối cùng, William Shakespeare dùng tới một thể văn mới, đó là bi hài kịch (the tragicomedy) hay tình yêu lãng mạn bi thương (dramatic romance). "Bão Tố" (The Tempest) có lẽ là vở kịch hay nhất của thời kỳ này, đã kết hợp cả sức mạnh và sự khôn ngoan. Các tình tiết, cốt truyện và tâm lý các nhân vật trong các vở kịch chứng tỏ William Shakespeare là một người uyên bác, hiểu rõ về con người, biết phối hợp kỹ thuật kịch với khả năng thơ phú, tất cả đã khiến cho ông trở nên nhà viết kịch bậc nhất (the greatest of playwrights). Nghệ thuật của William Shakespeare thì hiện thực (realistic), tức là hàm chứa sự thực của đời người và đây là sự thực mang tính vĩnh cửu (eternally true). Các nhân vật trong các vở kịch vừa sống động, vừa có tính ba chiều, họ có thể là tốt, là xấu, cao cả hay tầm thường, và gồm đủ mọi hạng người : các vua chúa, quan lớn, nhân viên hàng giáo phẩm, các kẻ gian tà, mơ mộng, điên khùng, các kẻ hoạt động… nam cũng như nữ, quê cũng như tỉnh… Cách mô tả các anh hùng của Shakespeare thực là tuyệt vời, và ngay cả các nhân vật phụ cũng thế, chẳng hạn như 20 phụ nữ trẻ trong các vở kịch đã được tạo dựng nên với tuổi tác gần bằng nhau, gần có cùng quá trình xã hội, gần có cùng lối sống bên ngoài, nhưng 20 phụ nữ này lại khác hẳn nhau trong đời thực. Các vở kịch của William Shakespeare đã làm cho khán giả coi kịch bị xúc động mạnh, đã gây ảnh hưởng sâu xa tới độc giả khiến họ phải đọc lại các kịch bản nhiều lần, thí dụ như vở kịch "Vua Lear" được coi là bi kịch bậc nhất của Shakespeare. Cuộc đời của William Shakespeare đã không có các biến cố đáng kể. Shakespeare là một con người chăm chỉ, điều độ, thuộc giai cấp trung lưu, biết chăm lo gia đình và chịu khó kinh doanh. Nhiều người đã tin rằng một người với cuộc đời bình thường như vậy, với thời gian đi học ngắn ngủi như vậy, không thể viết ra được các vở kịch xuất sắc, không thể có được chiều sâu tư tưởng, làm sao biết được ngôn từ và các tư cách của giai cấp thượng lưu, không thể biết được các môn thể thao, săn bắn của giới quý tộc … Vì thế kể từ các năm 1800, đã có một số người không chịu tin tưởng rằng "người diễn viên của thị xã Stratford" là tác giả thực sự của các vở kịch lừng danh. Những người không chịu tin này được gọi là "anti-Stratfordians" và họ đã đề nghị vài nhà văn khác của thời đại Nữ Hoàng Elizabeth I, là tác giả đích thực, bởi vì các tác phẩm kịch lừng danh phải do một người học cao, uyên bác, thuộc giai tầng thượng lưu. Trong nhiều năm và cho tới ngày nay, nhân vật được đề nghị là Sir Francis Bacon. Đã có rất nhiều sách vở viết về đề tài tranh luận này. Sau Sir Bacon là Edward de Vere hay Hầu Tước Oxford thứ 7, được cho là tác giả không chịu đứng tên. Ngoài ra còn có các nhân vật được đề nghị khác như Roger Manners, Hầu Tước Rutland thứ 5, William Stanley hay Hầu Tước Derby thứ 6 và ngay cả Sir Walter Raleigh. Và cũng lại có người cho rằng tác giả chính là Christopher Marlowe. Nhưng, biện luận rằng một "con người bình thường của thị xã Stratford" không thể trở nên một "đại văn hào" tức là đã quên đi các điều bí ẩn của một thiên tài! Kiến thức của một thiên tài không phải là thứ học được nơi trường học. Thiên tài học ít, hiểu nhiều, là người biết áp dụng trí tưởng tượng thiên phú, cách nhạy cảm về nghệ thuật, sự hiểu biết sâu rộng về con người vào các sáng tạo và đã từng có một số nhà văn danh tiếng mà học vấn còn thấp hơn William Shakespeare. Hơn nữa, có vài người quen biết William Shakespeare như Francis Meres vào năm 1598 và Ben Jonson vào năm 1623, đã vài lần xác nhận William Shakespeare là một nhà văn có tài trong số các nhà văn thường hay tụ họp tại quán rượu Mermaid (the Mermaid Tavern) và William Shakespeare đã được nhiều người khác nể trọng vì tài năng, yêu mến vì lòng tử tế. 3/ Bi kịch "Roméo và Juliet". Ngày xưa, tại một thành phố nóng nực của nước Ý tên là Verona, người dân đã đối xử tồi tệ với nhau và họ còn khuyên nhắc vợ con, bạn bè phải thù ghét lẫn nhau, và các mối thù được truyền đi từ thế hệ này qua thế hệ khác. Cũng tại thành phố Verona có hai gia đình Montague và Capulet căm thù nhau : các người già cãi nhau om sòm ngoài đường phố, làm mất nhân cách còn các người trẻ đánh nhau nơi công cộng khiến cho có kẻ mất mạng. Sự ngu xuẩn của hai gia đình này làm cho Hoàng Tử của thành phố tức giận, ông ta đã ra một đạo luật ngăn cấm việc gây lộn ngoài đường phố và kẻ phạm pháp sẽ bị xử tử hình. Hai gia đình Montague và Capulet đành phải phục tùng luật lệ nhưng thực ra, mối thù vẫn còn bên trong lòng của họ. Khi thấy con trai Roméo không dính dáng vào các vụ tranh chấp, Hầu Tước và bà Montague rất vui mừng nhưng họ không hiểu tại sao con trai quý của họ không được vui tươi. Họ hỏi thăm Benvolio, người trong họ và cũng là bạn của Roméo thì sau đó, Benvolio mới khám phá ra rằng Roméo đang yêu. Và người yêu của Roméo là Rosaline, một cô gái rực rỡ, lại chẳng đáp lại mối tình này. Để làm cho Roméo vui lên, Benvolio đề nghị cả hai người nên cải trang, bí mật tham dự buổi dạ hội của gia đình Capulet. Rosaline cũng sẽ tới đó và Benvolio hứa rằng

File đính kèm:

  • docÐAI VAN HÀO WILLIAM SHAKESPEARE VAI BI KACH.doc
Giáo án liên quan