Để ôn tập và làm tốt bài thi tốt nghiệp môn Địa lí

Khi ôn tập

1. Không được học tủ, học lệch: cấu trúc đề thi môn Địa của Bộ Giáo dục ban hành phủ toàn bộ chương trình, vì vậy khi ôn không nên bỏ bất cứ bài nào. Thà bỏ mươi phút học còn hơn phải ôm hận vì “tủ lệch”.

2. Trong từng bài ôn tập, cần lưu ý mấy điểm sau:

- Bất kì bài học nào cũng nằm trong mối quan hệ với nhiều bài khác, vì vậy phải nắm được bài đó nằm ở phần nào của chương trình (muốn nhanh chóng nhất, hãy xem ở phần mục lục).

- Không nên ôn theo kiểu đọc lần lượt từ đầu đến cuối bài vì như vậy ghi nhớ được rất ít. Nên xem bài có bao nhiêu mục lớn, từng mục lớn có những mục nhỏ nào ( SGK Địa lí thể hiện rất rõ các tiêu mục này), trong các mục có những ý lớn nào, ý lớn bao gồm những ý nhỏ nào. Ôn theo nguyên tắc từ tổng thể đến chi tiết, từ khái quát đến cụ thể.

 

doc4 trang | Chia sẻ: lephuong6688 | Lượt xem: 548 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Để ôn tập và làm tốt bài thi tốt nghiệp môn Địa lí, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Để ôn tập và làm tốt bài thi TN môn Địa lí -Mỗi học sinh có thể đã có những cách ôn tập riêng, lại thêm sự hướng dẫn của thầy cô trực tiếp giảng dạy mình. Ở bài viết này, thầy Lê Huy Hiếu - giáo viên Địa lý Trường THPT chuyên ĐHSP Hà Nội sẽ chia sẻ cùng các em một số kinh nghiệm khi ôn tập và làm bài thi Địa lí để đạt kết quả cao nhất. Cuốn Át-Lát sẽ là "vũ khí" học ôn, làm bài thi hiệu quả nêúHS biết sử dụng đúng cách I. Khi ôn tập 1. Không được học tủ, học lệch: cấu trúc đề thi môn Địa của Bộ Giáo dục ban hành phủ toàn bộ chương trình, vì vậy khi ôn không nên bỏ bất cứ bài nào. Thà bỏ mươi phút học còn hơn phải ôm hận vì “tủ lệch”. 2. Trong từng bài ôn tập, cần lưu ý mấy điểm sau: - Bất kì bài học nào cũng nằm trong mối quan hệ với nhiều bài khác, vì vậy phải nắm được bài đó nằm ở phần nào của chương trình (muốn nhanh chóng nhất, hãy xem ở phần mục lục). - Không nên ôn theo kiểu đọc lần lượt từ đầu đến cuối bài vì như vậy ghi nhớ được rất ít. Nên xem bài có bao nhiêu mục lớn, từng mục lớn có những mục nhỏ nào ( SGK Địa lí thể hiện rất rõ các tiêu mục này), trong các mục có những ý lớn nào, ý lớn bao gồm những ý nhỏ nào. Ôn theo nguyên tắc từ tổng thể đến chi tiết, từ khái quát đến cụ thể. - Đánh dấu lại những ý, những câu, những từ, số liệu quan trọng. Lần sau xem lại, không cần đọc hết bài, những chỗ đánh dấu này sẽ giúp các em nhanh chóng tái hiện toàn bộ bài học. - Ghi tóm tắt lại bài học. Có thể viết tắt, dùng kí hiệu. Mỗi câu, mỗi ý chỉ dùng một vài từ “chốt” để phần ghi lại thật ngắn gọn, đỡ mất thời gian khi xem lại. - Phần nào không hiểu thì ghi lại để trao đổi với bạn bè hoặc hỏi thầy cô giáo. Không hiểu rất khó nhớ. Chỉ nhớ mà không hiểu nội dung lúc làm bài dễ bị vận dụng sai. 3. Học bằng sơ đồ. Nên hệ thống hóa kiến thức bằng sơ đồ. Có những cách lập sơ đồ khác nhau. Dễ làm và thích hợp với việc hệ thống kiến thức là vẽ sơ đồ cây thư mục. Sơ đồ cho cả chương trình, cho từng phần nên dựa vào mục lục. Đối với từng bài, trước hết dựa vào các đề mục của bài, sau đó phát triển các nhánh ý chính, ý phụ. Vẽ sơ đồ để khi nhìn vào, các em sẽ nhanh chóng nắm được các ý quan trọng nhất của nội dung bài. 4.Số liệu trong địa lí rất nhiều. Nếu không thể nhớ chính xác các số liệu thì có thể nhớ gần đúng theo kiểu khoảng, gần bằng, lớn hơn.Đường bờ biển nước ta dài 3260 km, có thể viết hơn 3000 km cũng được chấp nhận. Nên dùng số liệu trong Atlat để đỡ phải nhớ nhiều vì phần lớn số liệu sách giáo khoa có ở đây. 5. Ôn tập luôn gắn với Atlat địa lí Việt Nam. Đây là cuốn tài liệu quan trọng được phép mang vào phòng thi tốt nghiệp. Biết sử dụng Át lát thì việc ôn tập trở nên rất nhẹ nhàng. Khi sử dụng cuốn tài liệu này cần lưu ý: - Cần nắm được cấu trúc của Atlat, việc xắp xếp các bản đồ như thế nào để khi học bài có thể nhanh chóng tìm đến các trang có liên quan. - Nhớ các kí hiệu càng nhiều càng tốt để khi học không phải giở đi giở lại mất thời gian. Atlat phần lớn sử dụng các kí hiệu tượng hình, hiểu các tượng hình này sẽ dễ nhớ hơn nhiều. Công nghiệp cơ khí kí hiệu bánh xe răng cưa, vật liệu xây dựng là ba viên gạch, cây cao su kí hiệu một đoạn cây có rãnh nghiêng và bát hứng mủ, sân bay kí hiệu máy bay, cảng kí hiệu là mỏ neo. - Phần bản đồ chủ yếu cho thấy sự phân bố theo không gian của các đối tượng địa lí. Chú ý tới nền màu bản đồ, các kí hiệu và các biểu đồ trong các tỉnh, vùng. Phần biểu đồ ngoài bản đồ cho biết tình hình phát triển, sự thay đổi, quy mô, cơ cấu đối tượng. - Tùy theo bài học mà sử dụng một hay nhiều bản đồ. Thông thường là phải dùng nhiều trang trong đó có trang chủ đạo của nội dung bài. II. Một số lỗi học sinh hay mắc khi làm bài và cách khắc phục - Đọc không kĩ đề nên trả lời dễ lạc đề hoặc trả lời không đúng trọng tâm. Cần đọc thật kĩ đề để xác định xem câu hỏi đó thuộc dạng nào ( trình bày, chứng minh, phân tích, so sánh hay giải thích). Chú ý trả lời theo nguyên tắc “hỏi cái gì trả lời cái đó”. - Phân bố thời gian làm bài không hợp lí, một số câu thường được dành quá nhiều thời gian làm quá kĩ, chi tiết nên không đủ thời gian làm các câu còn lại, phải làm sơ sài, bỏ ý, bỏ câu, mất số điểm lớn. Đề thi tốt nghiệp có 4 câu, cần làm đều cả 4 câu, không thiên lệch câu nào. Từng câu đã quy định số điểm. Việc phân bổ thời gian làm bài chủ yếu dựa vào số điểm này. - Không nháp dàn bài trước khi viết vào bài làm nên rất dễ bị sót ý. Cần phác nhanh dàn bài cho từng câu. Vừa viết vừa rà soát lại các ý. Viết theo dàn bài, bài viết sẽ mạch lạc và dễ phát hiện các ý thiếu để bổ sung. - Không biết cách trình bày cũng dễ bị mất điểm. Trình bày sơ sài theo kiểu dàn bài cho dù đúng ý cũng không được điểm tối đa, chỉ thường đạt khoảng 50 đến 75% số điểm của ý. Trình bày dài dòng quá vừa mất thời gian làm bài vừa không làm nổi bật ý trọng tâm. Các ý khác nhau viết lẫn lộn thường chỉ được điểm của một ý. Đáp án môn Địa thường rất rõ ràng, chi tiết theo từng ý. Nên trình bày rõ từng câu bằng các mục 1, 2 hoặc a,b. Trong từng ý nên thông báo ngay ý các em định trình bày ở dòng đầu tiên, sau đó mới triển khai ra. - Đối với phần biểu đồ, học sinh mắc lỗi nhiều nhất là không xác định được đúng kiểu biểu đồ cần vẽ và vì thế mất rất nhiều điểm. Hai yếu tố để xác định kiểu biểu đồ là yêu cầu của đề và bảng số liệu. Những học sinh xác định sai kiểu vẽ phần lớn là do chỉ chú ý tới bảng số liệu mà không đọc kĩ yêu cầu của đề. Vì vậy quan trọng nhất là xem đề yêu cầu như thế nào, thể hiện cơ cấu, so sánh hay thay đổi, phát triểnTheo yêu cầu đó có thể bao nhiêu cách vẽ, sau đó kết hợp bảng số liệu mới quyết định chính xác kiểu vẽ thích hợp nhất. Những lỗi thông thường khác cần tránh là thiếu tên biểu đồ, thiếu chú giải, không điền những số liệu cần vào biểu đồ, chia khoảng cách thời gian sai, không ghi đơn vị tính. Các lỗi này sẽ làm mất điểm thành phần. Khi vẽ cũng cần tính toán kích cỡ biểu đồ vừa phải, trực quan, đẹp. Vẽ to quá mất thời gian, nhỏ quá khó nhìn. Không cần cầu kì quá đối với với các kí hiệu. Trừ đường tròn, tất cả phần còn lại của biểu đồ không được vẽ bằng bút chì mà phải vẽ bẳng bút cùng màu với chữ viết. - Phần nhận xét và giải thích bảng số liệu và biểu đồ nhiều học sinh làm rất lộn xộn và không thể hiện được các ý cần nhận xét, giải thích. Cần đọc kỹ câu hỏi để làm rõ đề yêu cầu gì, mức độ ra sao. Không xác định rõ yêu cầu chính của đề dễ bị lạc đề. Bảng số liệu thường có các tiêu chí hàng dọc, hàng ngang, dựa vào đây đưa ra các ý cần nhận xét căn bản. Bao quát toàn bộ số liệu, chú ý tới các giá trị lớn nhất, nhỏ nhất, trung bình, những đột biến. Cần thiết thì chế biến, xử lý số liệu. Có thể xắp xếp ghép nhóm lại số liệu theo thời kì, độ lớn, vùngĐưa ra các ý nhận xét theo nguyên tắc từ khái quát đến cụ thể. Đưa ra bất cứ nhận xét gì đều phải có số liệu dẫn chứng nhưng không lắt nhắt, chi tiết quá sẽ làm cho ý nhận xét bị xé vụn. Phần giải thích (nếu đề yêu cầu) lỗi nhiều nhất là nhận xét một đằng, giải thích một nẻo. Chỉ cần giải thích những vấn đề đã nhận xét.Tùy từng đề mà có thể nhận xét đến đâu giải thích đến đấy hoặc nhận xét xong mới giải thích sau. - Với các câu hỏi gắn với Atlat, đề thường ra là “ Dựa vào Atlat Địalí Việt Nam và kiến thức đã học”, làm bài học sinh thường chỉ sử dụng một trong hai cơ sở trên là không đủ, sẽ bị sót một số ý. Thiếu sót thứ hai là học sinh chỉ sử dụng một trang Atlat. Kể cả câu hỏi đơn giản nhất cũng cần thận trọng vì rất ít nội dung Địa lí chỉ nằm ở một trang. Nếu làm theo những góp ý trên, tất nhiên cùng với cách ôn tập có kế hoạch, thày tin là các em sẽ thành công. Trong một chương trình tư vấn trực tuyến, GS Nguyễn Viết Thịnh – Hiệu trưởng trường ĐHSP Hà Nội chia sẻ những kinh nghiệm học ôn và làm bài thi môn địa lý. Theo đó, thông thường đề thi môn Địa lý có 3 câu lớn, chia ra thành 6 câu nhỏ. Thi lý thuyết là phần cơ bản nhất. Ngay cả trong câu hỏi về thực hành vẫn có phần nhận xét bảng số liệu hay biểu đồ đã vẽ. Như vậy, ở đây vẫn đòi hỏi phải nắm chắc lý thuyết. Đề thi môn Địa lý đòi hỏi thí sinh phải vận dụng kiến thức, phải thể hiện được tư duy độc lập. Vì vậy, nếu chỉ học thuộc lòng SGK thì chưa đảm bảo đạt điểm cao trong khi thi. Cách ôn thi ở môn Địa lý tốt nhất là nên ôn thi theo chủ điểm vì khi đó em sẽ học được cách tổng hợp kiến thức trong chương trình theo những cách sát với yêu cầu khi đi thi. Hơn nữa các chủ điểm thường có liên quan đến nhau, tạo điều kiện để em củng cố và mở rộng kiến thức. Môn Địa lý là một môn học có tính tổng hợp cao, bao gồm cả Địa lý tự nhiên và Địa lý kinh tế xã hội. Trong chương trình Địa lý lớp 12 chỉ đề cập đến Địa lý kinh tế xã hội Việt Nam. Để học tốt môn Địa lý ở lớp 12 cần nắm vững kiến thức Địa lý lớp 10 (Địa lý kinh tế xã hội đại cương). Học Địa lý không có nghĩa là học thuộc lòng mà phải hiểu được những đặc điểm chung nhất về sự phát triển và phân bố các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, cần biết liên hệ với thực tế của đất nước. Trong các vấn đề của Địa lý lớp 12 có thể gộp thành các nhóm vấn đề sau đây: 1. Các nguồn lực phát triển kinh tế xã hội. 2. Dân cư và lao động. 3. Các ngành kinh tế. 4. Các vùng kinh tế. Trước hết phải nắm vững các nguồn lực ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố các ngành kinh tế, ảnh hưởng đến sự phát triển của các vùng kinh tế. Những kiến thức này (trong chương trình) không nhiều và có thể vận dụng vào các tình huống khác nhau. Các số liệu và các địa danh cũng chỉ cần nhớ những cái gì là tiêu biểu. Khi học Địa lý nếu biết sử dụng bản đồ và Atlas thì việc ghi nhớ sẽ dễ dàng hơn nhiều. Những vấn đề này có đề cập đến trong SGK thì cũng có nghĩa là không loại trừ khi ra đề. Tuy nhiên, có nhiều cách kiểm tra kiến thức của HS. Ví dụ: Có thể hỏi về sự phân bố của một số loại khoáng sản chủ yếu nhất (dầu khí, than...). Về khí hậu, đây là một thành phần rất quan trọng của tự nhiên và đặc điểm của khí hậu nước ta (khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, phân hóa đa dạng) có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và phân bố nông nghiệp. Như vậy có thể hỏi riêng về khí hậu nhưng cũng có thể hỏi về khí hậu như là một nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Về biển, trong chương trình Địa lý lớp 12 hiện hành không có bài riêng về biển nhưng 6/7 vùng kinh tế của nước ta giáp biển. Vì vậy những kiến thức về kinh tế biển rất quan trọng khi nói về các vùng này. Hàng loạt câu hỏi có thể liên quan đến biển. Ví dụ: Vấn đề lương thực thực phẩm có nội dung về ngành thủy sản; Vấn đề phát triển giao thông vận tải có nội dung về các cảng biển; giao thông vận tải biển nói chung. Kinh tế biển đặc biệt được nhấn mạnh đối với Đông Nam Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ. Muốn học tốt môn Địa lý phải tìm được lôgíc trong khi học và trình bày một vấn đề nào đó. Thông thường một vấn đề có liên quan đến một ngành kinh tế chẳng hạn có lôgíc như sau: 1. Ý nghĩa của ngành kinh tế này đối với sự phát triển kinh tế xã hội. 2. Các nhân tố (nguồn lực) ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố của ngành. 3. Hiện trạng phát triển và phân bố. 4. Một số phương hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả phát triển ngành. Như vậy, trong khi học Địa lý phải nhớ một số số liệu để chứng minh hiện trạng phát triển của ngành. Nhưng điều quan trọng là hiểu được tầm cỡ và ý nghĩa của số liệu. Không nhất thiết phải nhớ thật chi tiết. Ví dụ: Khi nói đến Đông Nam Bộ có thể nêu rằng đây là vùng chiếm hơn 50% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước hoặc nêu rằng đây là vùng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu công nghiệp cả nước hoặc nhấn mạnh rằng giá trị sản xuất công nghiệp ở Đông Nam Bộ lớn hơn tất cả các vùng khác cộng lại. Về câu hỏi về biểu đồ, hiện nay trong đề thi chỉ đề cập đến một số dạng biểu đồ khá phổ biến. Thứ nhất: Các biểu đồ đường được sử dụng khi chuỗi số liệu là các năm khác nhau và trong đề thi không đề cập đến nội dung về cơ cấu mà đề cập đến tình hình phát triển (của dân số, của một ngành...). Thứ hai: Các biểu đồ đường lấy năm gốc bằng 100% được sử dụng khi đề cập đến sự tăng trưởng của một số chỉ tiêu và chuỗi năm không liên tục. Thứ ba: Các biểu đồ cột đơn có thể dùng thay cho biểu đồ đường trong một số trường hợp. Biểu đồ kết hợp cột và đường được sử dụng khi phải vẽ về 2 đại lượng (ví dụ: Số dự án đầu tư nước ngoài và quy mô vốn trung bình của dự án) và khi đó biểu đồ có 2 trục tung. Trong trường hợp này cũng có thể vẽ biểu đồ có 2 đường và 2 trục tung. Biểu đồ hình tròn để biểu diễn cơ cấu của hiện tượng (ví dụ: Cơ cấu GDP). Chú ý là không phải trường hợp nào cũng vẽ biểu đồ có kích thước to nhỏ khác nhau. Thông thường chỉ so sánh kích thước biểu đồ khi các đại lượng được đưa ra là các đại lượng Vật lý (ví dụ: triệu tấn, nghìn mét...) hoặc theo giá so sánh. Trong trường hợp có nhiều năm, thì biểu đồ miền (hình chữ nhật) được sử dụng thay thế cho biểu đồ hình tròn. Như vậy, trước khi lựa chọn kiểu biểu đồ thích hợp, cần đọc kỹ yêu cầu của đề, đặc điểm của chuỗi số liệu, phải chú ý đến một số từ trong đề. Ví dụ: tỷ trọng (biểu đồ tròn hoặc biểu đồ miền hoặc biểu đồ cột chồng). Nếu trong bài có đến 2 cách vẽ biểu đồ thì biểu đồ được điểm tối đa phải diễn tả trực quan nhất chuỗi số liệu và phải đáp ứng được yêu cầu của đề thi. Một số dạng biểu đồ có thể được chỉ định cho thí sinh vẽ.

File đính kèm:

  • docDe on tap va lam tot bai thi TN mon Dia Li.doc