Đề tài Dạy học nâng cao chất lượng môn Toán trong nhà trường

 Chúng ta đang tiến hành công cuộc chấn hưng nền giáo dục nước nhà với nhiều phương thức khác nhau nhằm nâng cao chất lượng dạy học, đào tạo thế hệ trẻ “ vừa

hồng vừa chuyên”. Nghị quyết TW 6(khoá IX) đã nhấn mạnh: phải tập trung vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Muốn vậy, trước hết phải nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, thực hiện giáo dục toàn diện.

 

doc21 trang | Chia sẻ: manphan | Lượt xem: 1031 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Dạy học nâng cao chất lượng môn Toán trong nhà trường, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang Phần I: Đặt vấn đề. 2 Phần II: Nội dung. 4 I. Cơ sở pháp lý và cơ sở lý luận. 4 1. Cơ sở pháp lý. 4 2. Cơ sở lý luận. 4 II. Thực trạng hoạt động dạy học Toán. 5 1. Đặc điểm chung. 5 2. Thực trạng dạy và học Toán. 5 3. Việc dạy học nâng cao chất lượng của bản thân. 9 III. Kết quả và bài học kinh nghiệm. 15 1. Kết quả tiến hành thực nghiệm. 15 2. Đánh giá kết quả thực nghiệm 15 3. Thực tiễn kinh nghiệm. 16 IV. Đề xuất một số biện pháp cải tiến góp phần trong dạy học nâng cao chất lượng. 16 Phần III: Kết luận 18 1. Ý nghĩa của việc dạy học nâng cao chất lượng môn Toán... 18 2. Mức độ áp dụng và khả năng vận dụng. 18 3. Đề xuất. 18 Tài liệu tham khảo. 19 Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ Chúng ta đang tiến hành công cuộc chấn hưng nền giáo dục nước nhà với nhiều phương thức khác nhau nhằm nâng cao chất lượng dạy học, đào tạo thế hệ trẻ “ vừa hồng vừa chuyên”. Nghị quyết TW 6(khoá IX) đã nhấn mạnh: phải tập trung vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Muốn vậy, trước hết phải nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, thực hiện giáo dục toàn diện. Thực hiện chương trình đổi mới, nội dung kiến thức môn học thay đổi nhiều so với sách cũ. Nặng về tầm nhận thức, hiểu biết, đáp ứng tốt nhu cầu nhận thức của học sinh hiện nay, phù hợp với thời kỳ công nghiệp hoá-hiện đại hoá, phát triển đất nước; nhưng nhẹ về thực hành,luyện tập,kém sâu rộng,làm giảm đi khả năng tự luận,tư duy,suy diễn, khai thác sâu, ứng dụng rộng, thiếu kỹ năng thực hành, phát triển . Trong nhà trường phổ thông, kiến thức học sinh được học là tất cả những gì cơ bản nhất đáp ứng được những yêu cầu cần thiết phải trang bị cho con người, nó hợp với thực tiễn khách quan và quy luật phát triển xã hội. Việc áp dụng các biện pháp dạy học nâng cao chất lượng trong nhà trường được thực hiện đồng bộ, khoa học, sáng tạo, hiệu qủa trong: bồi dưỡng và đổi mới phương pháp dạy học, tổ chức trao đổi tốt kinh nghiệm học tập trong học sinh sẽ nâng cao chất lượng học của học sinh. Công tác bồi dưỡng, đổi mới phương pháp của giáo viên rất quan trọng, cần thiết để nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, hoàn thiện mình và phát triển; Trong dạy học cần đặc biệt chú ý đổi mới phương pháp sao cho phù hợp với tình hình phát triển và đối tượng học sinh nhằm đạt mục tiêu giáo dục, giáo viên cần lấy hoạt động học của học sinh làm mục tiêu điều chỉnh hoạt động dạy; Tổ chức các hình thức học tập cho học sinh để học sinh có cách học không ngừng tiến bộ: chiếm lĩnh kiến thức, thạo thực hành, thích tìm tòi và sau đó, biết tổng hợp, khái quát, sáng tạo, ứng dụng trong phạm vi khác,... tích cực tự học, luyện tập để phát triển nội lực . Thực tế chất lượng dạy học hiện nay còn nhiều yếu kém, bởi nhiều nguyên nhân, một mặt cơ bản do chất lượng giáo viên chưa đồng bộ, không có phương pháp chuẩn dạy học, điều kiện dạy học đi sau mục tiêu; đối tượng học sinh không đồng nhất về mức độ, ảnh hưởng của tiêu cực xã hội còn nhiều, công danh sự nghiệp ở tương lai mong manh...Đặc biệt, bộ môn Toán là bộ môn khoa học cơ bản, bao gồm nhiều kiến thức đa dạng, phong phú, sâu sắc, trừu tượng, lôgic,...càng ngày chất lượng học của học sinh càng giảm sút, mà việc thi trắc nghiệm mặt nào đó đã tập cho họ tính lười tư duy, suy nghĩ, lập luận, chưa giải đã muốn có ngay kết quả. Giáo viên đã dạy theo huớng tích cực nhưng hiệu quả còn rất hạn chế, đặc biệt là khâu tổ chức, củng cố, hướng dẫn học ở nhà hầu như thực hiện cho có, còn phương pháp như thế nào, nội dung gì, trọng tâm bài chỗ nào, mức độ cần đạt đến đâu, hầu như không chú ý tới, cho nên học sinh thiếu sự tổ chức, hướng dẫn nội dung, biện pháp để rèn luyện, luyện tập, tu dưỡng kiến thức,dẫn đến chất lượng học kém hiệu qủa. Một số giáo viên thực hiện nhiệm vụ giáo dục thiếu nhất quán, thiếu đồng bộ, thiếu tính sư phạm, đặc biệt một bộ phận giáo viên mới ra trường giảng bài trên lớp như nói chuện ngoài đời không dùng kiến thức môn học để nói, để dẫn, hay khi giải bài toán nghĩ sao viết vậy không theo cách lập luận nào cả; Học sinh thì ngại học các môn khoa học tự nhiên nói chung, môn Toán nói riêng vì lười suy nghĩ, tính toán,biến đổi, suy luận, trông chờ vào các môn khoa học xã hội,thể dục để san xẻ đểm để được lên lớp, để đậu tốt nghiệp. Một số học sinh đi học để vui, tránh việc nhà, không có chí hướng phát triển để đáp ứng đòi hỏi kiến thức khoa học trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng sự phát triển xã hội. Phương tiện, thiết bị dạy học hầu như không có, chẳng hạn không có máy chiếu thì làm sao có thể dạy bằng giáo án điện tử, vẽ hình trực quan, công nghiệp hoá trong dạy học...mà hiện nay thực hiện khoán về tài chính, phấn viết bảng cho giáo viên không có đủ thì mơ gì đến phương tiện, thiết bị này nọ kia chứ. Trong khi đó nhu cầu cần thiết đang dâng cao để thực hiện đổi mới dạy học, nâng cao chất lượng. Sách tham khảo cho giáo vên và học sinh thì tràn ngập thị trường, một mặt thì có ích, một mặt khác thì cũng sao chép từ cuốn nọ sang cuốn kia gây tốn kém, thậm trí sai sót nhiều và quan trọng hơn là học sinh mua nhầm sách không định hướng chuẩn những nội dung cơ bản cần trang bị, phục vụ cho môn học. Từ trước đến nay chúng ta thấy đã bàn nhiều đến việc nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường, đã có nhiều biện pháp tích cực được ứng dụng rộng rãi trong hoạt động dạy và học, nhưng lại ít nói tới việc dạy học nâng cao chất lượng. Theo tôi, hoạt động dạy học dù lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính độc lập, sáng tạo của học sinh,...hay đổi mới ở mức độ nào đi chăng nữa thì cái chất của người thầy vẫn phải ở bậc nhất quan trọng trong hoạt động dạy học ; muốn dạy học nâng cao chất lượng, thầy phải sâu về kiến thức chuyên môn, vững về nghiệp vụ,sáng tạo...thạo nghề.Học sinh là người chủ động trong hoạt động học trên cơ sở sự định hướng, truyền đạt, dẫn dắt của người thầy, tích cực, biết phát huy và sáng tạo. Dạy học nâng cao chất lượng cần được hiểu một cách đúng đắn, phụ thuộc chính vào yếu tố người thầy, sự định hướng, làm rõ kiến thức và nội hàm của nó đưa học sinh đi đúng hướng, biết vận hành kiến thức vào thực tiễn bộ môn, xây dựng kỹ năng,phát triển nó và sáng tạo ở mức độ, phạm vi khác. Dạy học nâng cao chất lượng môn Toán với vai trò chủ đạo của giáo viên làm chủ thể tác động đến đối tượng học sinh, làm cho hoạt động dạy đi vào chiều sâu, hiệu qủa, làm cho hoạt động học của học sinh đạt chất lượng , phát triển toàn diện, tạo nguồn tri thức cho xã hội. Đó là một nội dung quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ dạy học theo hướng tích cực. Với tinh thần đó, nay tôi xin đề xuất biện pháp dạy học nâng cao chất lượng môn Toán trong nhà trường để trao đổi cùng đồng nghiệp. Phần II: NỘI DUNG I. CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN: 1. Cơ sở pháp lý: - Nguyên lý giáo dục: Nêu tại khoản 2, điều 3 – Luật giáo dục: “ Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội ”. - Nội dung giáo dục: Quy định tại khoản 1, điều 5 – Luật giáo dục: “ Nội dung giáo dục phải bảo đảm tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống; ..” - Tư tưởng giáo dục: Giáo viên là nhà sư phạm chứ không chỉ là chuyên gia truyền đạt kiến thức. Dạy học hướng vào hoạt động của người học. 2. Cơ sở lý luận: 2.1 Mục đích của hoạt động dạy học nâng cao chất lượng môn Toán: - Giáo viên giúp học sinh biến những tinh hoa của nội dung kiến thức học thành kiến thức của mình. - Học sinh làm chủ kiến thức và biết ứng dụng vào thực tiễn môn học, thực tiễn đời sống và thực tiễn xã hội. - Học sinh có ý thức, có nhu cầu và có tiềm năng để hoàn thiện. 2.2 Nguyên tắc dạy học nâng cao chất lượng môn Toán: - Đảm bảo sự cân bằng giữa dạy và học, bồi dưỡng liên tục. - Giáo viên thiết kế chương trình dạy học phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế của học sinh. - Học sinh coi hoạt động học là trách nhiệm và điều kiện để phát triển. 2.3 Tiêu chí dạy học nâng cao chất lượng môn Toán: - Kỳ vọng cao đối với học sinh. - Khuyến khích học sinh tích cực làm việc độc lập. - Tăng cường sự nỗ lực vượt khó của giáo viên và học sinh. - Cung cấp cho học sinh kinh nghiệm học tập. - Có tính nối tiếp qua các năm học và được tích hợp trong hoạt động dạy và học. - Đánh giá và báo cáo được sự tiến bộ của học sinh. - Cùng với phụ huynh theo dõi và hỗ trợ tốt việc học của học sinh. 2.4 Phương pháp dạy học nâng cao chấtlượng môn Toán: Một số phương pháp cơ bản gồm: - Phương pháp tổ chức. - Phương pháp hướng dẫn. - Phương pháp thảo luận. - Phương pháp kiểm tra. - Phương pháp đánh giá. II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TOÁN: 1. Đặc điểm chung: 1.1 Giới thiệu nhà trường: Trường THPT Phú Hưng được quyết định thành lập ngày 28/07/2002 trên nền tảng trường THCS Phú Hưng đã có.Từ đó đến nay chất lượng giáo dục liên tục có sự chuyển biến tích cực bởi có sự cố gắng của cán bộ giáo viên và học sinh, hàng năm đều hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình. a, Thuận lợi: - Được sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời, đồng bộ, dân chủ của Chi bộ Đảng, lãnh đạo trường - Các tổ chức trong nhà trường hoạt động đồng bộ. - Nội bộ đoàn kết, dân chủ, thống nhất, kỷ cương. - Đội ngũ giáo viên có phẩm chất tốt, trẻ- khoẻ, nhiệt tình, năng động công tác, ham học hỏi để nâng cao tay nghề, có tâm huyết với nghề. - Có giáo viên cốt cán, nhiều năm kinh nghiệm trong giảng dạy. b. Khó khăn: - Trình độ chuyên môn, tay nghề của giáo viên trong không đồng đều, các giáo viên mới còn thiếu kinh nghiệm trong giảng dạy, công tác. - Trường có 2 địa điểm cách xa nhau nên việc thăm lớp dự giờ để thường xuyên trao đổi, rút kinh nghiệm trong giảng dạy gặp trở ngại, giáo viên ở xa trường cũng gây khó khăn cho việc chỉ đạo, công tác chuyên môn. - Hoàn cảnh, đời sống của giáo viên còn nhiều khó khăn. - Học sinh phần lớn là yếu-kém, điều kiện học tập khó khăn, lý tưởng mờ nhạt. - CSVC, phương tiện dạy học không đáp ứng được yêu cầu dạy học, có 14 phòng học, 01 phòng vi tính, không có các phòng chức năng. 1.2 Chất lượng môn Toán năm học 2007 – 2008: KHỐI LỚP TỶ LỆ (%) GIỎI KHÁ T.BÌNH YẾU KÉM 10 9.28 28.74 32.64 25.75 3.59 11 7.45 25.53 32.98 29.08 4.96 12 6.29 19.58 37.07 32.16 4.90 2. Thực trạng dạy và học Toán: 2.1 Điểm mạnh: - Phát triển số lượng : Năm học 2007-2008, có 07 giáo viên Toán, 948 học sinh/ 22 lớp. So với năm học 2002-2003: giáo viên tăng 3,5 lần, học sinh tăng 5,5 lần. - Chất lượng giáo dục: + Tỷ lệ HS lưu ban, bỏ học giảm dần, năm học 2007-2008: bỏ học 4.5%, lưu ban 9,5% + Tỷ lệ tốt nghiệp môn Toán năm 2006: 86,50%; năm 2007: đợt 1 là 60.59%. - Hoạt động giáo dục: Tổ chức nhiều hình thức như Hội Giảng,thi giáo viên dạy giỏi cấp trường: 01 cuộc, Hội thảo cải tiến, sáng kiến kinh nghiệm: 02 cuộc, ngoại khoá: 01 cuộc - Môi trường sư phạm: Đoàn kết, trong sạch, tiến bộ. - Các nhân tố: + Có thông tin đại chúng về giáo dục trên báo, đài, mạng vi tính,... + Xã hội quan tâm công tác giáo dục hơn trước. + Nhu cầu học tập và phát triển của học sinh tăng lên. + Nhân dân chăm lo việc học tập của con em tốt hơn. - Cơ sở vật chất: 01 phòng vi tính, có đủ thiết bị dạy học lớp 10, đang được xây thêm 10 phòng học cơ bản và lát sân trường để sử dụng từ năm học tới. Nguyên nhân của những điểm mạnh: - Có đường lối giáo dục đúng đắn, mục tiêu đổi mới phù hợp với sự phát triển giáo dục - Được sự quan tâm chỉ đạo cụ thể, chặt chẽ của nhà trường. - Các tổ chức trong nhà trường có sự phối hợp trong các hoạt động công tác. - Hoạt động chuyên môn của Tổ thống nhất, khoa học, hiệu quả. - Giáo viên và học sinh có nhiều cố gắng trong việc nâng cao chất lượng dạy và học. - Mối đoàn kết, tính dân chủ, ý thức trách nhiệm trong giáo viên được phát huy. - Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng giáo viên và học sinh được chú ý. - Kinh tế – xã hội phát triển, đời sống nhân dân khá lên. - Vị thế, danh dự nhà giáo được khẳng định rõ hơn. - Chế độ chính sách đối với cán bộ giáo viên dần được nâng lên để đảm bảo cuộc sống. - Phụ huynh học sinh quan tâm việc học của con em họ hơn trước. 2.2 Điểm yếu kém: - Chất lượng giáo dục và hiệu quả đào tạo còn thấp: P Tầm nhận thức, tìm hiểu, phân biệt, chiếm lĩnh kiến thức của học sinh còn yếu. P Năng lực thực hành, phương pháp tư duy khoa học không tốt. P Khả năng vận dụng, rèn luyện, tu dưỡng rất hạn chế. P Tỷ lệ yếu-kém gia tăng, tỷ lệ khá-giỏi thấp; không có học sinh giỏi các cấp. P Thiếu kinh nghiệm học tập khoa cử. P Nhiều học sinh không theo kịp nhiệm vụ đổi mới nội dung, phương pháp dạy học. P Phong trào thi đua học tốt thiếu sự hưởng ứng tích cực. P Thiếu được tổ chức, hướng dẫn, quan tâm đúng mức. P Một bộ phận học sinh yếu kém về đạo đức, lối sống, mờ nhạt lý tưởng cách mạng. - Chất lượng đội ngũ giáo viên còn yếu: P Trình độ kiến thức, năng lực chuyên môn chưa đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục. P Phương pháp sư phạm, kỹ năng dạy học còn yếu. P Khả năng tổ chức các hoạt động dạy học còn nhiều hạn chế. P Hiệu quả giảng dạy thấp. P Kinh nghiệm nghề nghiệp, nghiệp vụ sư phạm chưa sâu P Chậm thích ứng với sự đổi mới. P Thiếu tính mô phạm và sự bền vững tâm lý. P Thiếu thông tin. - Công tác xã hội hoá giáo dục kém hiệu quả: P Thiếu sự đồng bộ, nhất quán trong các hoạt động dạy học trong nhà trường. P Một bộ phận không nhỏ phụ huynh học sinh thiếu sự phối hợp làm công tác giáo dục P Lực lượng tham gia công tác giáo dục của nhà trường hầu như không có. - Cơ sở vật chất không đáp ứng được yêu cầu dạy học: P Không có các phòng làm việc, thư viện, thí nghiệm. P Không có phương tiện dạy học, còn dạy học thủ công. - Động lực thúc đẩy chưa đáp ứng tốt nhu cầu: P Truyền thống hiếu học của địa phương thấp. P Không có cơ sở sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn, nên không tạo cho học sinh những động lực học tốt để lập thân, lập nghiệp. P Các hoạt động khoa học, văn hoá- xã hội ít diễn ra ở địa phương, nên không tác động được tư tưởng tích cực, ý thức tiếp cận cái mới và tính vượt khó vươn lên trong học sinh. Nguyên nhân của những điểm yếu kém: - Trường mới thành lập được 6 năm, chưa có bề dày thành tích và kinh nghiệm. P Sản phẩm trí tuệ tạo ra chưa nhiều, lượng học sinh ra trường học tập và làm việc góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn ít, chưa tạo ra nhiều tiền lượng nhân tài. P Thương hiệu nhà trường chưa gây được tiếng vang, chưa tạo được niềm tin vững chắc trong nhân dân, chưa thu hút tốt nguồn học sinh vào học. P Chưa rút ra được nhiều kinh nghiệm trong quản lý, tổ chức và thực hiện nhiệm vụ. P Mọi hoạt động chỉ là mới bắt đầu vào cuộc. - Chất lượng giáo viên yếu kém bởi các nguyên nhân: P Quá trình được đào tạo, bồi dưỡng kém chất lượng. Từ phổ thông đến Đại học có những kiến thức chưa chắc, chưa sâu, đào tạo sư phạm chưa thực sự đúng nghĩa đào tạo nghề, mà những năm gần đây ở Đại học, 2 năm đầu học đại cương, năm thứ 3 mới học chuyên môn, năm thứ 4 thì đi kiến tập, thực tập và tập trung viết tiểu luận tốt nghiệp, khi đi thực tập sư phạm ở các trường phổ thông thường là tập việc và được đánh giá qua loa(tốt cả), trong khi đó ở mmọt số nước tiên tiến tuyển và đào tạo nghề giáo viên mất 2 năm, sau đó thi chọn qua nhiều khâu( đức, trí, thể, mỹ,..) mới được vào đoà tạo chuyên môn và nghiên cứu sư phạm; Công tác bồi dưỡng thường xuyên cũng thực sự yếu kém, ngành phối hợp với các trường Đại học mở bồi dưỡng thoe đợt, trao đổi một vài nội dung chuyên môn nhưng không thực tế, không mang lại nhiều tác dụng tích cực. Bồi dưỡng và tự học tại chỗ có khi lại chất lượng hơn. P Không có phương pháp sư phạm chuẩn. Trong trường Đại học chỉ được trao đổi một phần phương pháp trên cơ sở lý thuyết, trong thực tế dạy học có người chưa hiểu rõ nội hàm từng phương pháp, áp dụng lúng túng, phát huy không được, chủ yếu thực hiện theo suy nghĩ của mình. P Chưa được rèn luyện kỹ năng dạy học, diễn trình, giải quyết một nội dung theo cảm nhận, giải bài toán không chú ý các bước đi cơ bản, không tìm thấy căn cứ dẫn,.. P Không thường xuyên tham gia các hoạt động thành viên, tổ chức nhóm, tập thể, xã hội nên thiếu năng động, sáng tạo và hạn chế phương pháp trong việc tổ chức thực hiện các hoạt động dạy học. P Công tác tự học, tự bồi dưỡng chưa được bản thân chú trọng thật sự, nghiên cứu nội dung bài dạy là chủ yếu, chưa soi xét kỹ, khai thác sâu, liên hệ rộng kiến thức, kiến thức liên quan; chưa tinh tế rút ra được những mặt tốt làm vốn kinh nghiệm, nghiệp vụ cho mình từ trong trao đổi, hoạt động chuyên môn diễn ra trong nhà trường, đồng thời chế ngự những hạn chế của mình xuống mức thấp. P Giáo viên không tự đặt mình vào vị trí học sinh, không hiểu suy nghĩ của học sinh, hoàn cảnh của học sinh,...coi học sinh còn bé, khoảng cách thầy trò còn xa. P Việc tiếp cận và thực hiện mục tiêu đổi mới giáo dục chưa tốt, tiếp cận mạch kiến thức và cách xây dựng từng nội dung còn theo lối cũ, chưa hiểu rõ mục tiêu giáo dục ghi ở các Nghị quyết của Đảng và Luật giáo dục. P Phong cách dạy học, giao tiếp, xử sự với học sinh chưa chú ý tính sư phạm, còn bị tác động các yếu tố khách quan trong dạy học. Nặng thực hiện bản năng giáo dục, vui buồn hay trút lên đầu học sinh, dễ gây sự chán và mất nghị lực trong học sinh, làm mờ đi những ấn tượng tốt đẹp trong nhu cầu đòi hỏi ở lứa tuổi học sinh. P Thiếu phương tiện tìm hiểu, ít tìm hiểu để mang lại hiểu biết, nắm bắt kịp thời đại. - Nguyên nhân dẫn đến chất lượng giáo dục và hiệu quả đào tạo thấp là: P Là học sinh nông thôn, nên trí tuệ có phần phát triển thấp, khả năng bao quát một vấn đè hẹp, chờ những gì tác động từ bên ngoài vào mới nhận và giữ, đặc biệt là kiến thức khoa học. P Lười suy nghĩ, tư duy lôgíc vấn đề. P Học trước quên sau; không sáng tạo vận dụng kiến thức khi giải quyết một yêu cầu, bài toán, muốn đạt ngay mục tiêu, ngại khó, ngại khổ. P Thích điểm cao, thích được lên lớp, dự vào các môn khoa học xã hội để san xẻ điểm cho các môn khoa học tự nhiên, không có động cơ phấn đấu. P Không tích luỹ các kỹ năng học tập, luyện tập, lý luận, theo nhận định và cách giải quyết chủ quan. P Chưa va chạm thực tiễn, thiếu năng động, ít được tiếp cận những cái mới, tiến bộ của khoa học, của xã hội. P Ngại tập thể,thể hiện mình;không nhận thấy tiềm lực bản thân;thiếu chắc chắn,tự tin. P Hạn chế được tổ chức các hoạt động học tập nhóm, tổ, ngoại khoá, thi tài,...các hình thức tự học, trao đổi; Sự định hướng, hướng dẫn học chưa tích cực và hiệu quả; Việc kiểm tra, đánh giá chủ yếu thông qua các bài kiểm tra thường xuyên trên lớp; Thiếu sự tận tâm... của giáo viên và nhà trường; Hạn chế được sự chăm chuốt của gia đình. P Sự giáo dục trong gia đình một bộ phận học sinh thiếu chú ý đến nhân cách, tính cách, lối sống. P Những tiêu cực của xã hội ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức, hoài bão, lý tưởng, chí khí,... của học sinh. 3. Việc dạy học nâng cao chất lượng môn Toán của bản thân: 3.1 Nội dung kiến thức phải được nghiên cứu sâu và làm rõ: Nội dung kiến thức, học sinh được nhận thức đi đến nắm vững, có liên quan đến khả năng lĩnh hội và tư duy khi học. Để có khả năng tư duy tốt phải có khả năng nhận thức tốt, rèn luyện tốt. Học sinh phải bắt đầu từ nguyên tắc: Chủ động hoạt động học, tự biểu hiện và khẳng định mình trong học tập, coi đó là nhu cầu, là giá trị và lợi ích của bản thân. Giáo viên phải bắt đầu từ nguyên tắc: Chủ động goạt động dạy, dạy học bằng tất cả tâm hồn, trí tuệ và trách nhiệm, coi đó là việc đáp ứng sự phát triển nhân tố con người, là giá trị và mục tiêu nâng cao chất lượng dạy. a, Về khái niệm Toán học: - Nhận định chính xác khái niệm học sinh phải tiếp cận, khám phá và nắm vững. Đặc biệt chú ý đến khái niệm không được định nghĩa tường minh. - Xác định các bước hình thành khái niệm toán học choi học sinh. - Làm cho học sinh nắm rõ dấu hiệu bản chất của các khái niệm thông qua tính tích cực của các em. Ví dụ: + Dùng khái niệm hàm số liên tục được định nghĩa bằng ngôn ngữ “số gia” để chứng minh “ quan hệ giữa sự tồn tại của đạo hàm và tính liên tục”, học sinh khó nhận biết được ngay: liên tục tại + Khái niệm “đường cong tiếp xúc với nhau” chưa được định nghĩa vì lý do tính sư phạm, không thể giải thích bằng kiến thức phổ thông. + Khái niệm “hàm số” - cần được làm rõ cấu trúc “hội” của định nghĩa hàm số: một và chỉ một. + Khái niệm lồi, lõm và điểm uốn không được định nghĩa mà mô tả bằng h vẽ. + Khái niệm đường elíp định nghĩa bằng hình học và trực quan. + Khái niệm tích có hướng của hai vectơ thông qua giải thích để định nghĩa. ... b, Về tính chất, quy tắc, định lý Toán học: - Xác định rõ điều kiện cần, điều kiện đủ và ý nghĩa. - Bảo đảm tính chính xác và cấu trúc. - Xét phạm vi áp dụng. - Tổ chức hướng dẫn chứng minh và chứng minh. - Suy ra phương pháp áp dụng và thực hiện áp dụng thực tiễn . Ví dụ: + Quy tắc tìm GTLN,GTNN của hàm số bằng phương pháp đạo hàm áp dụng cho hàm số liên tục và có hữu hạn điểm trên . + Định lý về điều kiện tiếp xúc của đường thẳng và elíp, ta chứng minh được và thì là điều kiện cần và đủ. + Định lý về dấu tam thức bậc hai, trường hợp áp dụng xét dấu tam thức, giải PT,BPT, xét tính đơn điệu của hàm số,... c, Về bài toán rèn luyện kỹ năng: - Xác định rõ đặc điểm của bài toán thể hiện ở mối liên hệ giữa các đối tượng tham gia - Tìm kiến thức cần vận hành, thực hiện các thao tác giải Toán. - Kiểm tra và kết luận. - Khái quát hoá, mở rộng, và phát hu

File đính kèm:

  • docDay hoc nang cao CL mon Toan.doc