Hóa học là khoa học nghiên cứu về thành phần cấu tạo các chất, sự biến đổi của các chất trong đời sống, sản xuất và trong tự nhiên. Qua đó thấy được ứng dụng và tác hại của chúng đối với đời sống sản xuất và con người. Môn hóa học ở trường phổ thông giúp học sinh có những tri thức về thế giới tự nhiên xung quanh thông qua việc khảo sát các chất, sự biến đổi các chất, chu trình các chất trong môi trờng xung quanh, thấy được mối liên hệ qua lại giữa công nghệ hóa học môi trường và con người. Những tri thức này rất quan trọng không thể thiếu được trong hệ thống tri thức phổ thông của nhân loại.
30 trang |
Chia sẻ: shironeko | Lượt xem: 1119 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đổi mới giờ luyện tập hoá học, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Đổi mới giờ luyện tập hoá học
Phần I- Đặt vấn đề
1) Lý do chọn đề tài:
Hóa học là khoa học nghiên cứu về thành phần cấu tạo các chất, sự biến đổi của các chất trong đời sống, sản xuất và trong tự nhiên. Qua đó thấy được ứng dụng và tác hại của chúng đối với đời sống sản xuất và con người. Môn hóa học ở trường phổ thông giúp học sinh có những tri thức về thế giới tự nhiên xung quanh thông qua việc khảo sát các chất, sự biến đổi các chất, chu trình các chất trong môi trờng xung quanh, thấy được mối liên hệ qua lại giữa công nghệ hóa học môi trường và con người. Những tri thức này rất quan trọng không thể thiếu được trong hệ thống tri thức phổ thông của nhân loại.
Không những thế, để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của xã hội về việc đào tạo nên những con người năng động, sáng tạo, biết cải biến một cách linh hoạt về kiến thức, phải hình thành cho các em những kiến thức cơ bản về hóa học nhưng kỹ năng quan sát, kỹ năng làm thí nghiệm, kỹ năng ứng dụng kiến thức vào giải luyện tập hóa học và vào trong thực tiễn cuộc sống. Phát hiện trong các em những tư duy sáng tạo, cách làm việc khoa học, tính trung thực, cẩn thận, niềm tin và say mê nghiên cứu khoa học. Bộ môn hóa học chính thức học sinh được học từ lớp 8, mặc dù rất nhiều các hiện tượng, sự vật biến đổi xung quanh ta các em đều đã đợc làm quen và tìm hiểu thông qua các môn học lồng ghép về tự nhiên và xã hội ở cấp I, qua các bộ môn sinh, vật lý, địa lý ở cấp 2, tuy nhiên để đi sâu nghiên cứu về các chất, biến đổi chất và hình thành các kỹ năng cần thiết như đã nêu ở trên thì đó là nhiệm vụ trọng tâm của bộ môn hóa học. Chương trình hóa học ở cấp THCS đã bố trí, thiết kế theo những mảng kiến thức, từng thể loại bài học nhằm giúp học sinh đạt được mục tiêu. Song để đạt được điều đó hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào người giáo viên đứng lớp. Tôi nhận thấy giờ luyện tập hoá là loại hình lên lớp mà đòi hỏi rất nhiều ở người giáo viên phải biết cách tổ chức, thiết kế về nội dung, chương trình và các hình thức luyện tập như thế nào để nhằm phát huy mọi khả năng của học sinh, thu hút các em tham gia vào giờ học và đạt được các mục tiêu của tiết luyện tập đề ra . Xuất phát từ điều đó, tôi xin trình bày một số suy nghĩ của mình về loại giờ luyện tập với nội dung : “Đổi mới việc sử dụng hệ thống bài tập trong giờ luyện tập hóa học ở bậc THCS”.
2) Mục đích nghiên cứu:
Thông qua hệ thống bài tập đã được đưa ra trong các tiết luyện tập, học sinh nắm được hệ thống kiến thức từ thấp đến cao. Từ đó các em lĩnh hội kiến thức một cách hệ thống hơn, nên học sinh không còn gặp khó khăn trước những bài tập hoá học nữa, các em sẽ xay xưa học tập, yêu thích bộ môn hơn.
3) Kết quả cần đạt:
Giúp học sinh nắm được kiến thức một cách chắc chắn, vững vàng. Để các em đạt được kết quả cao nhất trong các kiểm tra, kì thi . Học sinh có vốn hiểu biết từ kiến thức hoá học áp dụng sang thực tế và đời sống hàng ngày.
4) Đối tượng, phạm vi và kế hoạch nghiên cứu.
Nghiên cứu các tài liệu cơ sở lí luận của việc đổi mới phương pháp dạy học, các tài liệu thiết kế bài giảng môn hóa và tài liệu về các hệ thống câu hỏi và bài tập phục vụ cho giảng dạy hóa trong đó có giờ luyện tập hóa học. Nghiên cứu thực tế giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh trong nhà trường ( Cụ thể học sinh lớp 9D trường THCS Tiên Thắng - Tiên Lãng ).Các giải pháp thực hiện chuyên đề và có ví dụ minh hoạ kèm theo. Kiểm tra đối chứng và kết quả học tập của học sinh khi thực hiện chuyên đề. Lên lớp minh hoạ 1 tiết luyện tập hóa.
Phần II- Nội dung
1) Cơ sở lí luận:
Để đáp ứng được các mục tiêu của môn hóa học, thì một trong những nội dung rất quan trọng trong giảng dạy hóa học nhằm giúp học sinh củng cố kiến thức, biết ứng dụng kiến thức vào thực tế, vào làm bài tập, rèn kỹ năng một cách có hệ thống, đó chính là bài tập hóa học, đặc biệt trong giờ luyện tập hóa, bài tập hóa học đã trở thành công cụ hữu hiệu để kiểm tra kiến thức, kỹ năng của học sinh. Nó giúp giáo viên phát hiện được trình độ của học sinh, làm bộc lộ những khó khăn, sai lầm của học sinh trong học tập hóa học, đồng thời có biện pháp giúp họ vượt qua khó khăn và khắc phục những sai lầm. Trong giờ luyện tập hóa, nội dung và hình thức BTHH còn là phương tiện để rèn luyện và phát triển tư duy của học sinh, giúp học sinh mở mang tầm hiểu biết thực tiễn của mình, và đặc biệt với sự định hướng các phương án trong giải 1 bài tập hóa học, còn rèn cho các em phong cách làm việc có kế hoạch, có tổ chức trước khi làm việc cụ thể. Vì vậy việc lựa chọn các nội dung, các hình thức và phương án giải BTHH như thế nào trong một giờ luyện tập hóa là một việc làm hết sức cần thiết và quan trọng của người giáo viên.
2) Thực trạng vấn đề :
2.1- Thuận lợi:
Hiện nay với mục tiêu đổi mới chương trình thay SGK ở các khối lớp, cấu trúc chương trình SGK đã thay đổi tạo điều kiện rất thuận lợi cho giáo viên trong quá trình giảng dạy, cụ thể các kênh chữ, kênh hình đều rất rõ ràng, sống động, kiến thức được tinh giản theo hướng cụ thể hóa, hệ thống bài tập hóa học trong SGK cũng đã nhiều và phong phú hơn. Đội ngũ giáo viên cũng đã được đi học các lớp thay SGK, cùng được trao đổi về một số vấn đề trong công tác giảng dạy : Về SGK và về cách thiết kế 1 tiết lên lớp sao cho đáp ứng với mục tiêu đào tạo. Các đồ dùng, dụng cụ, hoá chất được cấp phát kịp thời tạo điều kiện thuận lợi cho một tiết lên lớp của người giáo viên đạt kết quả cao. Chính vì vậy mà trong các giờ lên lớp giáo viên cũng đã chú ý hướng dẫn học sinh học tập theo hướng chủ động tìm hiểu và nắm bắt kiến thức qua quan sát thí nghiệm, làm thí nghiệm, nghiên cứu SGK và kết hợp với các hình thức hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm để hoàn thiện kiến thức. Điều này đã thực sự gây hứng thú học tập trong học sinh và thu hút các em. Bên cạnh đó đời sống người dân ngày càng cao, các em học sinh đã được phụ huynh quan tâm hơn về chất lượng học tập.
Chính vì vậy các em tham gia tích cực hơn vào giờ học hóa. Tất cả những vấn đề trên đã là những điểm thuận lợi cho người giáo viên trong quá trình giảng dạy trong đó có tiết luyện tập.
2.2- Khó khăn:
Môn hóa là môn học mới và khó, bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì cũng còn không ít những khó khăn mà tôi cảm nhận được.Thứ nhất, đối với giáo viên vẫn còn không ít đồng chí cha thực sự coi trọng môn học này, nhất là với nền kinh tế hiện nay mà ngành giáo dục đang phải đối mặt với tình trạng dạy thêm, học thêm , thì môn hóa học bậc THCS vẫn còn bị coi là môn học phụ, nhất là từ năm học gần đây ở bậc THCS chỉ xét duyệt tốt nghiệp . Tất cả những vấn đề trên cũng phần nào tạo ra những tâm lí coi nhẹ môn học trong giáo viên, phụ huynh và trong học sinh. Do đó chưa có sự đầu tư thường xuyên cho các tiết học đặc biệt là giờ luyện tập . Bên cạnh đó ở một số giáo viên vẫn còn cha bắt nhập kịp với những kiến thức thay đổi trong SGK với các bài tập phong phú mà đòi hỏi ở người giáo viên phải nắm chắc kiến thức, định hướng được cách làm từ đó sử dụng những hình thức giảng dạy giúp học sinh thực hiện theo mục tiêu đề ra. Đặc biệt trong tiết luyện tập ở một số giáo viên mới chỉ dừng lại ở chữa bài tập và kiểm tra kiến thức cũ của học sinh mà cha thực sự chú ý đến tính hệ thống, rèn luyện kỹ năng giải bài tập cho học sinh. Do vậy từ hệ thống bài tập giáo viên đa ra cho đến khâu tổ chức khai thác các bài tập đó thì mới chỉ tập trung ở một số học sinh khá, giỏi do khả năng tư duy tốt, còn học sinh trung bình, yếu, kém chưa xác định cách làm và kết quả không biết đúng hay sai. Chính vì thế mà các em thường rụt rè, thiếu tự tin và nản chí. Từ thực trạng này tôi thiết nghĩ cần phải đổi mới một số hình thức, nội dung bài tập cho phù hợp với mọi đối tượng học sinh và với chương trình đổi mới hiện nay.
3) Các giải pháp:
3.1- Cần phải đổi mới về nội dung và hình thức hệ thống bài tập trong giờ luyện tập hoá học và hướng dẫn học sinh xác định phương hướng giải cho từng dạng bài tập. Đổi mới nội dung bài tập hoá học là phần cốt lõi của một giờ luyện tập hoá học, nó thể hiện được mục tiêu cần đạt được của một tiết luyện tập. Thông qua nội dung bài tập mà giáo viên đề ra, học sinh sẽ tiếp cận và thực hiện các thao tác tư duy, suy luận để hoàn thành chúng. Qua đó các em sẽ củng cố được kiến thức cơ bản, khắc sâu được kiến thức trọng tâm, rèn được các kỹ năng cần thiết trong việc ứng dụng và giải bài tập hoá học.
3.2- Nội dung bài tập hoá học phải đảm bảo tính kế thừa, củng cố kiến thức và phát triển mở rộng kiến thức đã học. Đối với học sinh đại trà mục tiêu trong tiết luyện tập là yêu cầu học sinh củng cố được những kiến thức cơ bản nhất và rèn cho các em những kỹ năng cần thiết. Vì vậy hệ thống bài tập bao giờ cũng nên được xây dựng từ mức độ cơ bản , từ những kiến thức chung sau đó mới xây dựng tiếp đến mức độ nâng cao, những vấn đề đặc biệt cần lưu ý.
Ví dụ 1: Bài tập luyện tập về nguyên tử - nguyên tố hoá học
Hệ thống bài tập phải bắt đầu từ những bài nhằm củng cố những khái niệm chung về nguyên tử như :
+ Có những từ, cụm từ sau: Hạt nhân, nơ tron, hạt vi mô, số p = số e, trung hoà về điện, proton, electron.
Hãy chọn từ (cụm từ) thích hợp điền vào chỗ trống trong câu sau “Nguyên tử là...........(1)................ và...............(2)............... Từ nguyên tử tạo ra mọi chất. Nguyên tử gồm...............(3)...............mang điện tích dương và vỏ tạo bởi.............(4)..............mang điện tích âm. Hạt nhân được tạo bởi ............(5)........ và...............(6)...............
Ví dụ 3: Thông tin về nguyên tử của nguyên tố K được biết đến như sau:
- NTK : 39 (đvc)
- Điện tích hạt nhân: 19+
- Hãy xác định số hạt proton, nơtron, electron trong nguyên tử nguyên tố K.
- Hãy vẽ sơ đồ cấu tạo nguyên tử K, biết trong nguyên tử có 4 lớp e, lớp sát hạt nhân có 2e, 2 lớp kế tiếp mỗi lớp có 8e.
Muốn làm BT này học sinh phải nắm được cách vẽ sơ đồ cấu tạo nguyên tử, xác định mối quan hệ giữa các hạt p, n, e trong nguyên tử, khối lượng từng loại hạt và cách tính khối lượng nguyên tử. Từ đó xác định, tính toán ra từng loại hạt và dựa vào đề bài, mới vẽ được cấu tạo nguyên tử K.
Ví dụ 4: Khi dạy bài luyện tập tính chất hoá học của oxit - axit
Nhất thiết phải có bài tập củng cố tính chất chung của oxit - axit có thể thông qua bài tập điền khuyết, bài tập thực hiện dãy biến hoá, các cặp chất tác dụng với nhau vv...Sau đó cũng cần có bài tập nâng cao vận dụng, ví dụ bài tập nhận biết, bài tập trong đó có sử dụng oxit trung tính, bài tập có liên quan đến tích chất của H2SO4 đặc nóng.
Cụ thể: + Sử dụng bảng sơ đồ câm về t/c hoá học của oxit và axit. ...............................................
- ....................................................
- Yêu cầu học sinh lên điền sơ đồ câm, sau đó viết các phương trình minh hoạ cho từng tính chất .Từ đó rút ra được tính chất hoá học của oxit và axit.
+ Hay cho một số chất cụ thể.:CaSO3; Ca(OH)2; H2SO3; H2O; CaO. Hãy điền vào ô trống cho phù hợp :
- …………………………………
- …………………………………..
- Từ sơ đồ cụ thể này học sinh tự rút ra tính chất hoá học của oxit và axit.
Sau đó tiếp theo là sử dụng bài tập nâng cao hơn.
Ví dụ 5:+ Bài tập 3 trong SGK/21 của bài luyện tập :
Khí CO được dùng làm chất đốt trong công nghiệp, có lẫn tạp chất là các khí CO2 và SO2. Làm thế nào có thể loại bỏ được những tạp chất ra khỏi CO bằng hoá chất rẻ tiền nhất ?Viết phương trình hoá học .
+ Bài tập 4 trong SGK/21 của bài luyện tập :
Cần phải điều chế một lượng muối đồng sunphat. Phương pháp nào sau đây tiết kiệm được axit sunfuric:
axit sunfuric tác dụng với đồng (II) oxit.
axit sunfuric đặc tác dụng với kim loại đồng.
Giải thích cho câu trả lời.
+ Bài tập tổng hợp :
Hoà tan 1,2 gam Mg bằng một lượng vừa đủ dung dịch HCl 2M.
a. Viết phương trình phản ứng .
b. Tính thể tích khí thoát ra (ở đktc).
c. Tính thể tích dung dịch HCl đã tham gia phản ứng .
d. Tính nồng độ mol của dung dịch thu được sau phản ứng (coi thể tích của dung dịch sau phản ứng thay đổi không đáng kể so với thể tích của dung dịch HCl đã dùng ).
Hay có thể lựa chọn một số bài tập trắc nghiệm mà tôi sẽ giới thiệu ở phần sau .
Hệ thống bài tập bao gồm cả bài tập định tính, định lượng và có thể cả bài tập thực nghiệm. Để đảm bảo hình thành cho các em những kỹ năng cơ bản, tính sáng tạo thì hệ thống bài tập đa vào cũng cần phải đảm bảo đủ các bài tập định tính, định lượng và kể cả bài tập thực nghiệm. Có như vậy mới thúc đẩy các em vận dụng những kiến thức đã học một cách linh hoạt vào các dạng bài lý thuyết, tính toán đảm bảo ở các mức độ phân hoá khác nhau và phù hợp với mọi đối tượng học sinh. Đồng thời học sinh được rèn các kỹ năng làm quen với các dạng bài tập một cách có hệ thống đặc biệt tạo điều kiện thuận lợi cho các em học tập ở những bài tiếp theo.
Ví dụ trong bài luyện tập 2:
Mục tiêu của bài: Học sinh được ôn tập về tính chất của đơn chất và hợp chất, học sinh đợc củng cố về cách lập công thức hoá học, cách tính phân tử khối của chất. Củng cố bài tập xác định hoá trị của một nguyên tố. Rèn luyện khả năng làm bài tập xác định nguyên tố hoá học.
+)Trên cơ sở đó những bài tập định tính có thể gồm hệ thống những bài tập sau:
(1) Hãy chọn CTHH đúng trong các trường hợp sau:
a. CTHH của phân tử H2SO4
A. H2SO4 B.H2sO4 C. HSO4 D. H2SO4
b. CTHH của phân tử khí nitơ là
A . 2N B . N2 C . N2 D . N
c. CTHH của kim loại kẽm
A . Zn B. Zn2 C. 2Zn D . ZN
d. CTHH của nhôm oxit:
A. AL2O3 B. Al2O3 C. O3Al2 D.Al2O3
(2) Dựa vào hoá trị các nguyên tố, cho biết công thức hoá học nào viết đúng, công thức hoá học nào viết sai: K2O, CaO, HO, NaCl, CaCl, HgCl3 .
(3) Hãy viết công thức phân tử của các chất dựa vào các dữ liệu sau:
a. Nhôm oxit có thành phần Al (hoá trị III) và oxi
b. Can xi photphat có thành phần gồm canxi (hoá trị II) và nhóm nguyên tử gốc Photphat (PO4) (hoá trị III)
c. Amoniac có thành phần gồm nitơ (hoá trị III) và H
(4) Hay sử dụng bài tập ..2,3 trong SGK/41 của bài luyện tập .
(5) Lựa chọn ví dụ ở cột II cho phù hợp với các khái niệm ở cột (I)
Các khái niệm (I) Các ví dụ (II)
A. Nguyên tử 1. Nước muối
B. Hợp chất 2. Fe, O2, C
C. Chất nguyên chất 3. Nước cất, muối ăn
D. Hỗn hợp 4. Muối iốt, nớc chất
E. Phân tử 5. NaOH; NaCl, CO2
6. S, Si, Ca
+) Bài tập định lượng gồm các BT sau:
1) Tính ra g khối lượng của 1 phân tử: Axitsunfuric (H2SO4), Magiecacbonat (MgCO3), Silicđioxit (SiO2).
2) Hợp chất M có thành phần gồm các nguyên tố C, H, O. Trong đó, tỉ lệ về số nguyên tử của các nguyên tố C, H, O lần lợt là : 1: 2: 1. Hợp chất M có PTK là 60. Xác định công thức cấu tạo của M.
3) Bài tập số 4SGK/ 41 của bài luyện tập này.
VD:Trong bài luyện tập chương 1 Các loại hợp chất vô cơ
Mục tiêu của bài : Biết được sự phân loại các hợp chất vô cơ, hệ thống hoá đợc các tính chất hoá học của mỗi loại hợp chất, biết cách viết các phương trình hoá học biểu diễn sơ đồ biến đổi hoá học, biết cách trả lời câu hỏi và giải bài toán hoá học có liên quan.
+ bài tập định tính có thể là :
1) Bài tập 1 : Em hãy phân loại các hợp chất sau:
Na2O; CuCl2; SO2; HCl;CaCO3; FeO; Mg(OH)2; KHCO3; NaOH; H2SO4.
2) Điền sơ đồ câm:
- ……………………………………………..
- ………………………………………………..
3) Điền các chất thích hợp và hoàn thành các phương trình phản ứng sau:
- oxit: a. Na2O + ? ---> NaOH
b. Na2O + ? ---> NaCl + H2O
c. CO2 + ? ---> Na2CO3 + H2O
d. SO3 + ? ---> H2SO4
- Bazơ: a. NaOH + ? ---> NaCl + H2O
b. NaOH + ? ---> Na2SO3 + H2O
c. NaOH + ? ---> Na2SO4 + Cu(OH)2
d. Fe(OH)3 ---> Fe2O3 + ?
-A xit : a. HCl + ? ---> FeCl2 + H2
b. HCl + ? ---> NaCl + H2O
c. HCl + ? ---> CaCl2 + H2O
d. H2SO4 + ? ---> Na2SO4 + CO2 + H2O
- Muối : a. Na2CO3 + ? ---> NaCl + CO2 + H2O
b. FeCl3 + ? ---> Fe(OH)3 + NaCl
c. NaCl + ? ---> AgCl +NaNO3
d. Fe + ? ---> FeSO4 + Cu
4) Cho các chất Mg(OH)2, CaCO3, K2SO4, HNO3, CuO, NaOH, SO2. Trong các chất trên , chất nào tác dụng được với
a.Dung dịch HCl.
b. Dung dịch Ba(OH)2
c. Dung dịch BaCl2. ( Viết các phương trình phản ứng xảy ra) .
5) 1. Thực hiện dãy chuyển hoá sau bằng phương trình phản ứng:
Na àNaOH à Na2CO3 à CO2 à CaCO3 à CaO
2. Trong những phương trình phản ứng trên, phương trình nào đợc sử dụng để giải thích những hiện tượng sau:
Để 1 mẩu natri hiđrôxit trên tấm kính trong không khí sau vài ngày thấy có chất rắn màu trắng phủ ngoài (1). Nếu nhỏ vài giọt dung dịch HCl vào chất rắn trắng thấy có khí thoát ra(2) , khí này làm đục nớc vôi trong(3).( Đây là bài tập mà tôi biến đổi một chút so với bài tập 2 trong SGk trong bài luyện tập này )
+ Bài tập định lượng có thể là :
1) Bài tập 3 SGK/43
2) Bài tập trắc nghiệm : Trộn một dung dịch có chứa 0,1 mol CuSO4 và một dung dịch chứa 0,3 mol NaOH, lọc kết tủa , rửa sạch rồi nung đến khối lợng không đổi, cân nặng m gam.Giá trị của m là :
a. 8,0 b. 4,0 c. 6.0 d. 12,0
3.4 - Hệ thống bài tập phải mang tính chất lôgic, đa dạng phù hợp mọi đối tượng và phát huy tính sáng tạo của học sinh.
- Một tiết luyện tập có thành công hay không, có đảm bảo được mục tiêu của bài không? có thu hút mọi đối tượng học sinh cùng tham gia hay không hoàn toàn phụ thuộc vào cách thiết kế bài tập và tổ chức của giáo viên. Vì vậy hệ thống bài tập cần đa dạng dưới nhiều hình thức phong phú: Sau đây tôi xin đa ra một số dạng bài tập có thể đa vào trong một giờ luyện tập .
1. Dạng bài tập trắc nghiệm.: bài tập trắc nghiệm là phương pháp kiểm tra kiến thức một cách chính xác, góp phần tích cực vào các hoạt động học tập của học sinh , nó giúp giáo viên phát hiện những học sinh thông minh quyết đoán và những học sinh còn thiếu tự tin để từ đó uốn nắn cho các em .Từ trong một phạm vi tiết luyện tập 45 phút Để đảm bảo được các mục tiêu của bài thì bài tập trắc nghiệm là hình thức bài tập tiết kiệm thời gian nhất mà chứa đựng một phần không nhỏ trong nội dung kiến thức, kĩ năng cần đạt được cho học sinh. Đồng thời bài tập trắc nghiệm là hình thức bài tập phù hợp với mọi đối tượng học sinh nhất, có thể có những phần trong bài tập thực nghiệm ở mức độ thấp và cũng có những phần mang tính chất suy luận, phán đoán và tính toán ở mức độ cao hơn. Như vậy sẽ thu hút được mọi đối tượng học sinh cùng tham gia. Tuỳ theo nội dung của bài tập, đối tượng học sinh mà có thể có những dạng bài tập trắc nghiệm khác nhau như: Bài tập trắc nghiệm dạng điền khuyết bài tập đúng - sai, trắc nghiệm ghép đôi, trắc nghiệm nhiều lựa chọn.
Một số Ví dụ (như tôi đã đa ở phần trên)
2. Bài tập tự luận: Bài tập tự luận vẫn là phần trọng tâm chiếm phần lớn hệ thống bài tập trong một giờ luyện tập. Thông qua nội dung bài tập tự luận học sinh được củng cố các kiến thức và đặc biệt rèn được những kỹ năng giải bài tập hoá học, bài tập tự luận có thể là: bài tập thực hiện dãy biến hoá, các cặp chất tác dụng với nhau, bài tập vận dụng giải thích một số vấn đề thực tế liên quan đến kiến thức đã học. Bài tập tách, điều chế chất, bài tập tính theo công thức hoá học, bài tập tính theo phương trình hoá học, bài tập sử dụng cân bằng phơng trình và các bài tập tổng hợp khác.
3. Bài tập thực nghiệm: Đây là nội dung bài tập mà hiện nay vẫn còn ít đưa vào giờ luyện tập bởi vì khi giải quyết bài tập thực nghiệm đòi hỏi học sinh ngoài việc phải nắm chắc kiến thức và vận dụng kiến thức để giải quyết bài tập về phương diện lý thuyết. Không những thế các em còn phải thực hiện các thao tác thực hành thí nghiệm để kiểm chứng lại kết quả của bài tập. Do vậy qua bài tập thực nghiệm còn rèn cho học sinh các kỹ năng thực hành cơ bản, sự vận dụng kiến thức lý thuyết vào thực tiễn góp phần tạo cho các em có thói quen làm việc, nghiên cứu khoa học, tính chính xác và tính thực tế. Dựa trên cơ sở mục tiêu bài học, bài tập thực nghiệm có thể gồm những dạng bài sau: Bài tập thực nghiệm về điều chế các chất trong phòng thí nghiệm , bài tập thực nghiệm nhận biết, bài tập thực nghiệm pha chế dung dịch, bài tập thực nghiệm tách riêng chất bằng phương pháp hoá học, bài tập thực nghiệm về đo lường.
Tôi xin đa ra một số VD:
* Bài tập nhận biết:
- Hãy trình bày và tiến hành nhận biết dung dịch NaOH trong số các dung dịch sau: NaCl, Na2SO4, NaOH, HNO3.
-Hãy tiến hành nhận biết dung dịch đựng trong các lọ mất nhãn sau bằng phơng pháp hoá học: BaCl2 , HCl; H2SO4, NaOH.
BT tách chất:
VD1: Hãy chọn phơng pháp thích hợp để tách các chất trong mỗi hỗn hợp sau:
Hỗn hợp cần tách Phương pháp thực hiện
1. Muối ăn và nớc 1. Chia cắt phân đoạn
2. Bột gạo và nớc 2. Lọc
3. Bột đồng và bột sắt 3. Lắng gạn
4. Kết tinh
5. Chiết
6. Từ tính
VD2: Từ một số hoá chất sau: KNO3, Na2SO4, BaCl2, HCl và các dụng cụ cần thiết , hãy lựa chọn và tiến hành điều chế BaSO4.
VD3: Hãy trình bày và tiến hành pha chế 0,2 lít dung dịch NaCl 1M.
VD4: Hỗn hợp chất rắn nào dưới dây có thể dễ tách riêng nhất bằng cách thêm nước vào rồi lọc.
A. Muối ăn và cát ; B. Muối ăn và đường
C. Cát và mạt sắt ; D. Đường và bột mì
* Một số VD dạng Bài tập thực nghiệm khác
VD5: Cho một dung dịch NaCl bị mất nhãn, hãy xác định C% của dung dịch đó bằng thực nghiệm .
VD6: Hãy điều chế CuO từ 4 gam CuSO4 và NaOH , từ kết quả thực nghiệm ,hãy tính hiệu suất phản ứng.
3.5- Định hướng các phương án để giải cho từng dạng Bài tập .
- Giải bài tập hoá học là 1 quá trình phức tạp. Việc HS không giải được hoặc
giải sai bài tập chưa đủ cơ sở để kết luận họ không hiểu biết gì về kiến thức và kỹ năng hoá học, mà do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do các em chưa nắm được phương pháp tiến hành để giải 1 BTHH nói chung và 1 BTHH ứng dụng kiến thức nói riêng. Các em không hiểu điều kiện của bài tập, không biết cần vận dụng kiến thức nào để giải BT, không biết cách thực hiện cụ thể, tính toán sai vì quá yếu về kỹ năng toán học và quá yếu về kĩ năng thực hành. Do đó để hình thành và rèn luyện kỹ năng giải BTHH nhằm nâng cao chất lượng, nắm vững kiến thức hoá học, một trong những biện pháp là dạy học sinh phương pháp tìm kiếm lời giải BTHH nói chung, giải bài tập lý thuyết và bài tập thực nghiệm nói riêng từ mức độ cơ bản đến phân hoá. Muốn vậy cần phải hướng dẫn học sinh để họ có thể nắm vững được phương hướng chung để giải BTHH. Trước 1 bài tập nhằm vận dụng kiến thức, học sinh coi như được trao một nhiệm vụ phải giải quyết vấn đề nêu ra trong đầu bài. hoạt động của học sinh nhất thiết phải trải qua các giai đoạn chủ yếu sau:
- Tìm hiểu đề bài: Xác định cái đã cho và cái cần tìm. Hiểu ý nghĩa mở rộng cái đã cho và cái cần tìm. Hiểu các thuật ngữ, kĩ năng mới quan trọng. Nếu là bài tập định lượng cần phải tóm tắt đề bài rõ ràng, bằng cách sử dụng kí hiệu và ngôn ngữ hoá học, đổi đơn vị nếu cần thiết.
- Xác định phương hướng giải bài tập: Nhớ lại các khái niệm , định luật , quy tắc, tính chất, bài giải mẫu vv... có liên quan. Từ đó tìm ra mối liên hệ giữa điều kiện và yêu cầu trong bài tập. Đề ra các bước thực hiện và huy động các kiến thức, kỹ năng vào để thực hiện.
- Trình bày lời giải: Thực hiện các bước giải đã vạch ra
- Kiểm tra kết quả: Sau khi thực hiện xong lời giải dù là bài tập lý thuýêt định tính, bài tập lý thuyết định lượng hay bài tập thực nghiệm cần phải kiểm tra lại: Trả lời đúng yêu cầu của bài chưa? đã sử dụng hết dữ liệu của bài cho chưa? Có tính toán sai không?
Trên cơ sở định hướng phương hướng giải chung ở trên, tôi xin đa ra một số phương hướng giải cụ thể ở một số dạng bài tập giúp các đồng chí tham khảo trong việc hướng dẫn học sinh giải bài tập.
3.6 - Hệ thống bài tập lý thuyết định tính.
3.6.1) Hướng dẫn học sinh giải bài tập viết PTHH thực hiện biến hoá gồm các bước:
Bước 1: Phân loại chất (Nếu là biến hoá gồm các CTHH). Hoặc viết CTHH của mỗi chất và phân loại (Nếu biến hoá gồm tên các chất) Ghi phân loại chất bên dưới CTHH tương ứng.
Bước 2: Xác định loại chất tác dụng, và loại chất tạo thành suy ra các chất trung gian sao cho phản ứng
File đính kèm:
- SKKN hoa.doc