Đổi mới phương pháp dạy và học, đổi mới phương thức tổ chức, cách thức quản lý các hoạt động trong và ngoài giờ lên lớp giúp nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn là nhiệm vụ cấp thiết đang đặt ra cho ngành giáo dục hiện nay. Chúng ta cần vận dụng một cách sáng tạo các phương pháp dạy học hiện đại theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức, tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Chúng ta cần học sinh của mình chủ động, sáng tạo trong học tập, trong giải quyết vấn đề nhưng đa phần học sinh của chúng ta không đủ tự tin thì làm sao chủ động, làm sao để sáng tạo. Do đó, hơn ai hết giáo viên chúng ta cần tiếp sức cho các em, giúp các em lấy lại sự tự tin vốn đã tiềm ẩn trong bản thân mỗi các em, tạo điều kiện cho các em thể hiện sự tự tin đó và hoàn cảnh tốt nhất để các em thể hiện nó là hoạt động tập thể, hoạt động nhóm.
15 trang |
Chia sẻ: manphan | Lượt xem: 5692 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đổi mới phương pháp kiểm tra bài cũ và hoạt động nhóm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH ĐỒNG NAI
Trường THPT Long Phước
&
Mã số:
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA BÀI CŨ VÀ HOẠT ĐỘNG NHÓM”
Người trình bày:Trần Thị Kim Lan
Lĩnh vực nghiên cứu:
-Quản lí giáo dục
-Phương pháp dạy học bộ môn : Toán
- Lĩnh vực khác
Có đính kèm:Các sản phẩm khác không thể hiện trong bản in sáng kiến kinh nghiệm
Mô hình: Phần mềm: Phim ảnh: Hiện vật khác:
Năm học: 2011-2012
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
Họ và tên: Trần Thị Kim Lan
Ngày tháng năm sinh: 19-10-1976
Giới tính: nữ
Địa chỉ: F 85, ấp 6 Tân Hiệp, Long Thành, Đồng Nai
Điện thoại: 0905332540
Fax:
Đơn vị công tác: Trường THPT Long Phước
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
Học vị: cử nhân
Năm nhận bằng: 1999
Chuyên ngành đào tạo: Toán
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy Toán
Số năm có kinh nghiệm: 12
Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây :
Phương pháp giúp học sinh yếu học lượng giác tốt hơn
Mở rộng một số bài toán lượng giác
Ứng dụng của đồ thị hàm số bậc hai
Nâng cao tính tích cực của học sinh trong tiết ôn tập
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
II/ TỔ CHÚC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
A/ Cơ sở lí luận-Cơ sở thực tiễn
B/Nội dung chuyên đề- biện pháp thực hiện
Kế hoạch dạy ở lớp
1.1 Kế hoạch kiểm tra bài cũ, bài tập về nhà
1.2 Kế hoạch hoạt động nhóm
2. Kế hoạch tổng hợp nội dung
3. Kế hoạch phối hợp giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm, gia đình và nhà trường.
III/ HIỆU QUẢ
IV/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
V/ ĐỀ XUẤT
VI/ TÀI LIỆU THAM KHẢO
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA BÀI CŨ
VÀ HOẠT ĐỘNG NHÓM
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đổi mới phương pháp dạy và học, đổi mới phương thức tổ chức, cách thức quản lý các hoạt động trong và ngoài giờ lên lớp giúp nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn là nhiệm vụ cấp thiết đang đặt ra cho ngành giáo dục hiện nay. Chúng ta cần vận dụng một cách sáng tạo các phương pháp dạy học hiện đại theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức, tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Chúng ta cần học sinh của mình chủ động, sáng tạo trong học tập, trong giải quyết vấn đề nhưng đa phần học sinh của chúng ta không đủ tự tin thì làm sao chủ động, làm sao để sáng tạo. Do đó, hơn ai hết giáo viên chúng ta cần tiếp sức cho các em, giúp các em lấy lại sự tự tin vốn đã tiềm ẩn trong bản thân mỗi các em, tạo điều kiện cho các em thể hiện sự tự tin đó và hoàn cảnh tốt nhất để các em thể hiện nó là hoạt động tập thể, hoạt động nhóm.
Hòa với không khí chung về đổi mới phương pháp dạy và học của toàn trường, bản thân là giáo viên giảng dạy bộ môn Toán, tôi cũng mạnh dạn thử nghiệm đổi mới phương pháp kiểm tra bài cũ và phương pháp hoạt động nhóm nhằm thu hút sự tập trung của các em.
II/ TỔ CHÚC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
A/ CƠ SỞ LÍ LUẬN- CƠ SỞ THỰC TIỂN
1/ CƠ SỞ LÍ LUẬN
Môn Toán là một trong những môn học chính trong nhà trường phổ thông. Đặc điểm cấu tạo chương trình với nội dung toán học có sự liên quan mật thiết, kết cấu chặt chẽ với nhau. Chúng sắp xếp theo một trình tự có logic từ đầu đến cuối, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp và sát với thực tế, gần gũi với đời sống. Do đặc thù của môn Toán nên mỗi bước suy diễn phải chỉ ra căn cứ cụ thể đòi hỏi học sinh phải nắm vững cái trước để có cơ sở suy diễn vấn đề sau. Với những điều như vậy khi giải quyết vấn đề toán học phải có sự logic chặt chẽ, liên tục để đi đến kết quả cuối cùng .
Phần lớn học sinh học tốt môn Toán thì học tốt các môn học khác. Bởi lẽ các em đã có những khả năng tư duy toán học thì cũng có thể đủ khả năng để hiểu các vấn đề khác . Qua môn Toán đã rèn lại cho các em những đức tính : chịu khó, cẩn thận, tỉ mỉ, thận trọng , chính xác, suy luận chặt chẽ có phương pháp làm việc khoa học, sắp xếp thứ tự hợp lý trước sau để giải quyết vấn đề. Đó là đặc trưng nổi bật của môn toán trong nhà trường phổ thông. Chính vì vậy qua bài viết “Đổi mới phương pháp kiểm tra bài cũ và hoạt động nhóm” tôi mong muốn đưa ra giải pháp hợp lý nhằm thúc đẩy, giúp các em tự tin làm bài tập, đặc biệt nhắc nhở hàng ngày các đối tượng học sinh yếu kém chăm lo học tập, góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn Toán của học sinh.
2/ CƠ SỞ THỰC TIỂN
Về thời gian:
Thời gian dành cho việc kiểm tra bài cũ không nhiều.
Thời gian 45 phút chia cho nhiều hoạt động, trong đó chỉ dành thời lượng nhỏ cho hoạt động nhóm nên chưa khai thác hết hiệu quả của hoạt động nhóm
Về phía học sinh( đối với học sinh trường THPT Long Phước)
Tính tự giác, khả năng tự học của học sinh chưa cao.
Không nhận thấy tiềm lực của bản thân; thiếu chắc chắn, tự tin.
Học sinh lười suy nghĩ, tư duy logic vấn đề.
Mặt bằng kiến thức của học sinh nói chung thuộc mức trung bình ngoại trừ hai lớp khá giỏi ở mỗi khối.
Học sinh chưa hệ thống được kiến thức, khả năng tư duy tổng hợp của học sinh còn yếu
Về phía giáo viên
Việc đổi mới phương pháp dạy –học là vấn đề cấp bách hiện nay, tuy nhiên việc lựa chọn phương pháp, tình huống thích hợp và nhất là đối với việc tổ chức hoạt động nhóm, giáo viên vẫn còn nhiều lúng túng.
Nhận thấy, trong thời gian qua, đối với việc kiểm tra bài cũ, đa số giáo viên gọi vài học sinh lên bảng trả lời câu hỏi của giáo viên. Một tiết học giáo viên chỉ kiểm tra được vài học sinh, vì thế chưa đánh giá tình hình chuẩn bị bài cũ của học sinh trong lớp. Còn đối với hoạt động nhóm, học sinh chưa thực sự phát huy tính tích cực trong học tập dẫn đến hiệu quả của hoạt động nhóm chưa được như mong muốn.
B/NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ-BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Vấn đề dạy một tiết toán đạt tốt, học sinh nắm vững kiến thức của một tiết học thì việc đầu tư vào một giáo án là không thể thiếu được trong quá trình dạy học. Do đặc điểm của môn Toán là một môn học rất gần gũi với thực tế đời sống nên người giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo trong từng tiết dạy của mình để làm nổi rõ sự kết hợp, gắn bó của Toán học với cuộc sống hàng ngày. Ngôn ngữ phải dễ hiểu để học sinh dễ nhìn nhận, chiếm lĩnh tri thức mới. Với phương pháp dạy học mới hiện nay, chúng ta cần thiết kế một hệ thống câu hỏi logic, gợi mở từ câu đầu tiên đến câu cuối cùng để học sinh tự tìm kiếm ra kiến thức mới. Từ đó kiến thức mới sẽ được học sinh khắc sâu, nhớ lâu và sẽ gây hứng thú trong học tập. Với bài viết này, tôi xin trình bày hai phần chính: kế hoạch dạy ở lớp và kế hoạch tổng hợp nội dung kiến thức.
Kế hoạch dạy ở lớp :
Khi dạy Toán cần có đồ dùng dạy học trực quan, ví dụ đưa ra gần gũi với học sinh. Chẳng hạn, khi dạy bài “Khái niệm mặt tròn xoay”, giáo viên nên đưa ví dụ về các vật dụng thực tế như bình hoa, ly nước và khi dạy bài này giáo viên cần sử dụng phần mềm để học sinh nhìn thấy được sự hình thành của mặt tròn xoay, hình thành công thức tính diện tích, thể tích của khối trụ, khối nón.
Vì vậy đầu tư vào việc chuẩn bị đồ dùng trực quan cho một tiết dạy là hết sức cần thiết để học sinh hiểu được kiến thức một cách sâu sắc, sát với thực tế, hiểu được các kiến thức đó có được do đâu? Dựa trên cơ sở nào? Còn rất nhiều các vấn đề khác nếu được đầu tư chu đáo sẽ tạo nên một tiết học hấp dẫn, dễ học và gây hứng thú cho học sinh trong học tập.
Một vấn đề cần thiết nữa đặt ra là khi dạy một tiết học người giáo viên phải nắm bắt kịp thời số học sinh hiểu bài và chưa kịp hiểu bài. Từ đó có biện pháp giúp đỡ số học sinh chưa kịp hiểu bài. Sau mỗi tiết học, mỗi chương đều phải có phần củng cố và luyện tập; bằng những câu hỏi trọng tâm, cơ bản tiết học người giáo viên phải quan sát từng đối tượng học sinh; chú ý đến học sinh yếu, cá biệt để nắm bắt tình hình tiếp nhận kiến thức trong nội dung bài học; bài luyện tập tại lớp cần được nâng dần từ dễ đến khó, từ những bài toán rất đơn giản đến phức tạp. Ngoài ra người giáo viên phải tính đến việc kiểm tra một lúc được nhiều học sinh; nhất là yêu cầu tối thiểu những nội dung cần đạt được.
1.1 Kế hoạch kiểm tra bài cũ, bài tập về nhà
Kiểm tra bài cũ, kiểm tra bài tập về nhà là việc rất cần thiết. Nếu chúng ta kiểm tra thường xuyên thì việc học bài cũ và làm bài tập ở nhà của các học sinh sẽ chu đáo hơn. Ngược lại , nếu bị xem nhẹ thì việc chuẩn bị bài tập, học bài cũ sẽ hạn chế và chất lượng học tập giảm rõ rệt.
Thời gian kiểm tra bài tập về nhà ở đầu các tiết học rất có giới hạn, không thể kiểm tra hết được. Vì vậy muốn nắm được việc làm bài tập ở nhà của học sinh một cách toàn diện người giáo viên trước hết phải yêu cầu tinh thần tự giác của học sinh: em nào chưa làm bài tập? Em nào có làm bài tập nhưng làm chưa hết các bài mà giáo viên đưa ra? Em nào đã làm hết bài tập? Giáo viên ghi nhận và tiến hành kiểm tra bài cũ đồng thời kiểm tra xác suất một số em về việc làm bài tập về nhà. Học sinh nào chưa làm bài tập ở nhà giáo viên sẽ có biện pháp xử phạt.
Đối với việc kiểm tra bài cũ, từ xưa đến nay giáo viên vẩn kiểm tra theo cách gọi vài học sinh lên bảng trả lời câu hỏi của giáo viên. Với phương pháp này , giáo viên chưa kiểm soát được tình hình chuẩn bị bài cũ của học sinh và đối với các học sinh lười học thì các em dựa vào sự may rủi hoặc dựa vào các cách kiểm tra bài cũ của từng giáo viên mà dự đoán ngày nào mình bị kiểm tra. Qua nhiều năm thực hiện, tôi xin trình bày ra đây thêm một cách kiểm tra bài cũ:
+Chuẩn bị: giáo viên yêu cầu tất cả các học sinh phải luôn chuẩn bị giấy kiểm tra để kiểm tra từ 1 đến 3 phút, gọi tên các học sinh cần kiểm tra (từ 5 đến 7 học sinh và có thể nhiều hơn )
+Thể lệ kiểm tra: Học sinh làm bài trên giấy, giáo viên đọc câu hỏi, học sinh làm bài (giáo viên đọc câu hỏi nào thì học sinh trả lời câu hỏi đó),
+Nội dung kiểm tra: Kiểm tra công thức và một bài tập cơ bản để kiểm tra việc áp dụng công thức vào làm bài tập của học sinh.
+Hình thức chấm bài: giáo viên thu lại các bài làm của học sinh và phân công một số học sinh chấm bài (mỗi học sinh một bài) bằng cách giáo viên đọc đáp án, điểm số cho mỗi câu, sau khi chấm xong học sinh phản hồi lại kết quả cho giáo viên, cuối cùng giáo viên kiểm tra lại các bài chấm và ghi nhận kết quả và nhận xét tình hình học bài cũ của học sinh ngay lúc đó
Lưu ý:
Giáo viên phải giám sát quá trình chấm bài của học sinh, nếu có học sinh vì thương bạn mà sửa bài dùm bạn thì giáo viên phải có biện pháp xử lí nghiêm khắc.
Các bài kiểm tra được học sinh chấm, giáo viên có thể mang về nhà kiểm tra lại
Có như vậy trong từng tiết học mới sớm phát hiện được những học sinh lười học bài, lười làm bài tập, giúp giáo viên sớm có biện pháp xử lý và tìm ra nguyên nhân cụ thể để sớm khắc phục.
Với kế hoạch kiểm tra bài tập ở nhà và kiểm tra bài cũ như trên như trên, người giáo viên đã kiểm tra được tương đối nhiều học sinh. Phải làm thường xuyên, liên tục mới thấy được kết quả nâng cao chất lượng rõ rệt tạo thành nếp thi đua học tập sôi nổi ở học sinh. Học sinh hứng thú học tập, giáo viên biết được các học sinh cá biệt của mình. Khi trở thành thói quen, giáo viên làm việc rất nhẹ nhàng nhưng đạt hiệu quả cao. Giáo viên kịp thời nắm bắt được lỗ hổng của học sinh mà kịp thời sửa chữa.
1.2 Kế hoạch hoạt động nhóm
Để giúp đỡ nhau trong học tập , học sinh khá giúp học sinh yếu, giáo viên có thể tạo ra các cặp học tập khá- yếu. Trong những lúc rãnh rỗi, trong những giờ giải lao, kể cả ở nhà chỗ nào chưa hiểu bạn yếu có thể hỏi bạn khá. Hoặc giáo viên chia lớp thành một số nhóm và giao nhiệm vụ cho các nhóm. Ví dụ như trước khi học tiết ôn tập chương ,giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm: “tóm tắt lí thuyết trong chương”; “Nêu các dạng toán thường gặp trong chương và tổng hợp các phương pháp giải”. Từ trước đến nay, thường các giáo viên chia lớp thành nhiều nhóm và phân công nhiệm vụ cho các nhóm và nhóm nào làm xong lên bảng trình bày. Ngoài ra, giáo viên có thể biến tấu , làm cho hình thức hoạt động nhóm trở nên sôi động hơn. Chẳng hạn như trò chơi tiếp sức sau đây:
+Chuẩn bị: * Học sinh: bảng phụ
* Giáo viên : chuẩn bị 6 bộ đề được đánh số từ 1 đến 6 (thực ra trong đó bộ đề 1 và 4 giống nhau, 2 và 5 ;3 và 6 giống nhau). Chia lớp thành 6 nhóm, mỗi nhóm làm môt bộ đề.
+Nội dung của hoạt động: Mỗi bộ đề là một bộ các câu hỏi về công thức, bài tập có liên quan với nhau hoặc không liên quan với nhau ( nên có liên quan để trò chơi có phần hấp dẫn) được đánh số bên ngoài theo thứ tự.
+Thể lệ trò chơi: Mỗi nhóm cử đại diện lên bốc thăm số thứ tự của bộ đề của nhóm mình. Khi trò chơi bắt đầu, mỗi nhóm cử đại diện lên lấy câu hỏi số 1, cả nhóm cùng làm trên bảng phụ, nhóm nào thực hiện xong câu 1 thì tiếp tục lên lấy câu hỏi số 2 trong bộ đề của nhóm mình và tiếp tục như vậy cho đến khi giải hết các bài tập của nhóm mình hoặc hết thời gian mà giáo viên quy định.
+Kết thúc trò chơi: Các nhóm treo kết quả của nhóm mình lên bảng, giáo viên ghi nhận thời gian kết thúc của từng nhóm rồi tiến hành cho học sinh nhận xét, chỉnh sửa cho hoàn chỉnh các bài giải của học sinh.Nhóm nào hoàn thành bài giải tốt nhất trong thời gian nhanh nhất thì mỗi học sinh trong nhóm được cộng 3 điểm, nhóm nào xếp thứ hai thì mỗi học sinh trong nhóm được cộng 2 điểm và nhóm nào xếp thứ 3 thì mỗi em trong nhóm được cộng 1 điểm. Cuối cùng giáo viên ghi nhận kết quả và nhận xét tình hình hoạt động của học sinh trong từng nhóm
Lưu ý:
Giáo viên giám sát các nhóm làm việc, đại diện nhóm lấy kết quả câu tiếp theo sau khi đã tìm ra kết quả câu trước đó.
Giáo viên phải giám sát quá trình hoạt động của học sinh, học sinh nào lơ là không tham gia ,giáo viên nhắc nhở, nếu nhắc nhở mà học sinh đó vẫn không tập trung thì giáo viên nhận xét khi trò chơi kết thúc và không cộng điểm cho học sinh đó đồng thời có biện pháp xử lí khác
Giáo viên có thể thay hình thức cộng điểm bằng hình thức khác , ví dụ như thưởng bánh, kẹo,...
Khi đã tổ chức làm thì phải có những hình thức tuyên dương điển hình, khuyến khích thi đua với nhau, có kiểm tra việc tiến bộ của học sinh yếu với mục đích các em đều học được môn Toán và có phong trào học tập sôi nổi.
Ví dụ khi dạy ôn tập chương I tiết thứ 2, hình học 12 cơ bản, tôi có tổ chức hoạt động nhóm này đối với lớp 12A6 với ba bộ đề như sau:
Bộ đề 1:
Câu 1: Nêu công thức tính diện tích tam giác đều có cạnh bằng a. Nêu công thức tính thể tích khối chóp.
Câu 2: Cho hình chóp tam giác đều S.ABC có cạnh AB=a. Các cạnh bên SA,SB,BC tạo với đáy một góc 600
a) Tính thể tích khối chóp S.ABC.
Câu 3: (Tiếp theo câu 2 )
b) Gọi G là trọng tâm tam giác SBC. Vẽ đường thẳng qua G và song song với BC, cắt SB, SC lần lượt tại M, N. Tính tỉ số thể tích khối chóp S.AMN và khối chóp S.ABC
Câu 4: (Tiếp theo câu 2,3 )
c) Chứng minh rằng hai khối tứ diện sau bằng nhau: S.GAB và S.GAC.
Bộ đề 2:
Câu 1: Nêu công thức tính diện tích hình chữ nhật ABCD. Nêu công thức tính thể tích khối chóp.
Câu 2: Cho hình chóp S.ABCD, SA vuông góc với mặt phẳng (ABCD), ABCD là hình chữ nhật có AB=a, AD=2a. SB tạo với mặt phẳng (ABCD) một góc 600.
a)Tính thể tích khối chóp S.ABCD.
Câu 3: (Tiếp theo câu 2 )
b)Gọi I là trung điểm của SC. Tính thể tích khối chóp I.ABD
Câu 4: (Tiếp theo câu 2,3 )
c)Tính khoảng cách từ A đến mặt phẳng(SBD)
Bộ đề 3:
Câu 1: Nêu công thức tính diện tích hình chữ nhật ABCD. Nêu công thức tính thể tích khối lăng trụ.
Câu 2: Cho hình hộp chữ nhật ABCD. A’B’C’D”, AD=a; AB=a; AA’=2a
a)Tính thể tích khối hộp chữ nhật ABCD.A’B’C’D’.
Câu 3: (Tiếp theo câu 2 )
b)Tính thể tích khối chóp B.B’MC
Câu 4: (Tiếp theo câu 2,3 )
c)Tính khoảng cách từ B đến mặt phẳng (B’MC)
Trình độ của học sinh lớp 12A6 ở mức trung bình, kỹ năng làm bài chưa tốt, thao tác còn chậm và đặt biệt là đối với phần hình học đa số học sinh đều rất sợ, tuy nhiên với hoạt động nhóm này, các em cũng rất cố gắng hoàn thành phần bài tập của nhóm mình. Với kiểu hoạt động nhóm này, giáo viên đã giúp học sinh ôn lại một lượng lớn kiến thức, ôn lại các bài toán liên quan đến thể tích đối với các dạng hình cơ bản như hình chóp đều, hình chóp có cạnh bên vuông góc với mặt phẳng đáy, hình lăng trụ. Bên cạnh đó, hình thức hoạt động nhóm này thúc đẩy các em thi đua học tập, thúc đẩy tinh thần tập thể và đoàn kết với nhau để hoàn thành phần thi của nhóm mình.
2. Kế hoạch tổng hợp nội dung
Trong chương trình có những phần căn bản, trọng tâm nên giáo viên phải thường xuyên ôn luyện và ra bài tập thật nhiều để học sinh thực hành để kiến thức mới được khắc sâu và lâu quên. Giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh cách ôn tập chương, cách liệt kê các công thức toán để tóm tắt và chốt lại những điểm trọng tâm vận dụng vào giải bài tập. Bên cạnh đó, giáo viên cần tổng hợp lí thuyết theo từng chương, bài, tổng hợp phương pháp làm bài theo từng dạng cơ bản và nếu có thể đưa thêm một số bài giải làm ví dụ minh họa và đưa bài tập theo từng dạng, từng chương.
Ví dụ như khi dạy chương III, hình học lớp 12, bài “Phương trình đường thẳng trong không gian”, tôi tóm tắt các công thức và các dạng bài tập và phương pháp giải từng dạng bài tập. Cụ thể:
ĐƯỜNG THẲNG TRONG KHÔNG GIAN
Tóm tắt lý thuyết
1).Phương trình tham số của đường thẳng d qua M(xo ;yo ;zo) có vtcp = (a1;a2;a3)
2).Phương trình chính tắc của d :
với a1,a2,a3 khác 0
3).Vị trí tương đối của 2 đường thẳng d , d’ : Ta thực hiện hai bước
+ Tìm quan hệ giữa 2 vtcp ,
+ Tìm điểm chung của d , d’ bằng cách xét hệ:
Quan hệ giữa ,
Hệ (I)
Vị trí giữa d , d’
Cùng phương
Vô số nghiệm
Vô nghiệm
Không cùng phương
Có nghiệm
d cắt d’
Vô nghiệm
d , d’ chéo nhau
MỘT SỐ DẠNG TOÁN VỀ PHƯƠNG TRÌNH ĐƯỜNG THẲNG
íDạng 1: : Đường thẳng d đi qua A,B
íDạng 2: Đường thẳng d qua A và song song D
íDạng 3: Đường thẳng d qua A và vuông góc mp(a)
íDạng4: Đường thẳng d qua A và vuông góc (d1),(d2)
íDạng 5 Phương trình đường thẳng d // D và cắt d1,d2 :
PP1:d = (a) Ç (b) với mp(a) chứa d1 // D ; mp(b) chứa d2 // D
PP2: Giả sử d cắt d1,d2 lần lượt tại B,C .
Ta có : Suy ra t,t’ k.
Ta tìm được B,C
Viết ptts của đường thẳng d qua B và có vtcp
íDạng 6 Phương trình đường thẳng d qua A và ^ d1, cắt d2 :
PP1:d = AB với mp(a) qua A, ^ d1 ; B = d2 Ç( a)
PP2:Giả sử B=dÇ d2, suy ra B(theo tham số t), Tính = ?
Do d^ d1 nên .=0, tìm tọa độ của B
Viết pt đường thẳng d qua A,B
íDạng 7 Phương trình đường thẳng d chứa trong mp (P) và cắt d1, d2 :
+ Mp (P)cắt d1,d2 lần lượt tại B,C . Tìm B,C
+Viết ptts của đường thẳng d qua B và có vtcp
íDạng 8 Phương trình đường thẳng d qua A và d cắt cả d1,d2 :
d = (a) Ç (b) với mp(a) = (A,d1) ; mp(b) = (A,d2)
íDạng 9: Phương trình đường thẳng d ^ (P) cắt d1, d2 :
PP1 : d = (a )Ç (b) với mp(a) chứa d1 ,^(P) ; mp(b) chứa d2 , ^ (P)
PP2: Giả sử d cắt d1,d2 lần lượt tại B,C .
+Ta có : Suy ra t,t’ k.
+Ta tìm được B,C
+Viết ptts của đường thẳng d qua B và có vtcp
íDạng 10: Viết phương trình d’là hình chiếu của d lên ( a) :
* PP1:
+ Lấy 2 điểm M, N trên d.
+ Tìm hình chiếu vuông góc M’, N’ của 2 điểm M, N lên mp tọa độ đó.
(nếu M là điểm cắt nhau của d và ( a) thì M và M’ trùng nhau
+
* PP 2:
+ Viết pt mp(b) chứa d và vuông góc mp(a)
+ d’ là giao tuyến của hai mặt phẳng (a) và (b): d/ = (a) Ç (b)
íDạng 11: Phương trình D vuông góc chung của hai đường thẳng chéo nhau d1 và d2 :
* PP1:
Gọi D là đường vuông góc chung của d1 và d2 .
Đưa phương trình của 2 đường thẳng d1 và d2 về dạng tham số.
Tìm lần lượt là VTCP của d1 và d2.
Gọi M( theo t ) , N( theo t’ ) . Tính = ?
Ta có:
Giải hệ tìm tọa độ M,
* PP2:
Viết phương trình mặt phẳng (a) chứa d1 và vuông góc với d2
Viết phương trình mặt phẳng (b) chứa d2 và vuông góc với d1
D là giao tuyến của hai mặt phẳng (a) và (b): D= (a) Ç (b)
Việc hệ thống các phương pháp giải có thể không cần thiết đối với các học sinh khá giỏi, các em có thể tự suy luận và có thể dựa vào dữ kiện của bài toán để tìm phương pháp khác hay hơn, ngắn gọn hơn và độc đáo hơn. Tuy nhiên, đối các học sinh yếu, giáo viên gần như là cầm tay chỉ việc mà chưa chắc các em đã làm được thì tài liệu này rất cần thiết cho các em.
Môn Toán là môn học rất cần đến việc thực hành, luôn luôn phải có sự kết hợp với nhau giữa lý thuyết và thực hành. Qua thực hành mới củng cố được lý thuyết, khắc sâu kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán và phát triển tư duy. Ở phạm vi SGK sau mỗi bài học đều có một lượng bài tập để học sinh thực hành, luyện tập nhưng đôi khi còn ít, hệ thống bài tập chưa đủ cho học sinh yếu tập làm quen từ những bài tập rất dễ để từng bước nâng dần giải những bài tập khó hơn. Do đó trong từng tiết dạy người giáo viên có thể ra thêm bài tập tùy tình hình lớp học để học sinh có điều kiện tiếp xúc với khâu thực hành và nội dung bài tập phong phú hơn. Bên cạnh việc tổng hợp nội dung , kiến thức, phương pháp cho từng dạng bài, giáo viên có thể làm hệ thống bài tập kèm theo từng dạng để học sinh có bài tập làm thêm.
Nếu khâu thực hành làm ít thì rõ ràng kiến thức chóng quên hơn, lí thuyết không được khắc sâu đậm nét. Khi mới học xong bài trên lớp, nếu học sinh ít giải bài tập, ngại thực hành thì chắc chắn các em không nhạy bén,vận dụng lý thuyết ít được linh hoạt vào giải bài tập. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến đợt kiểm tra, đợt thi, làm giảm sút chất lượng trầm trọng.
Nói chung do đặc điểm của môn Toán là môn học không thể nói suông, nói và làm phải luôn đi song song với nhau. Vì vậy, cần thực hành để rèn luyện kỹ năng, khắc sâu kiến thức và phát triển tư duy.
3. Kế hoạch phối hợp giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm, gia đìnhvà nhà trường.
Việc phối hợp giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm trong công tác dạy học cũng là điều cần thiết. Giáo viên bộ môn phải trao đổi với giáo viên chủ nhiệm những học sinh cá biệt, học sinh lười để cùng hợp tác kiểm điểm, nhắc nhở, xử phạt, dùng đủ hình thức từ mềm dẻo đến cứng nhắc sao cho các em sửa chữa tiến bộ dần theo cả lớp. Cũng thông qua giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn mới nắm được tình hình gia đình của những em cá biệt có hoàn cảnh khó khăn, gia đình buông lỏng hay ảnh hưởng của bạn bè xung quanh .để có biện pháp phù hợp với từng hoàn cảnh khác nhau mang lại hiệu quả giáo dục cao hơn.
Tất cả những kế hoạch phối hợp nêu trên giúp chúng ta giáo dục các em một cách toàn diện. Tất cả nhằm vào mục tiêu nâng cao chất lượng giảng dạy và nhằm giúp các em tự tin hơn trong học tập cũng như tự tin hơn khi giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
Trong tình hình chất lượng học sinh hiện nay tất cả các môn nói chung và môn toán nói riêng, học sinh yếu vẫn còn rất nhiều. Là người giáo viên đứng trước tình hình đó phải trăn trở suy nghĩ tìm nguyên nhân , làm sao các em đều học được môn Toán, môn Toán trở thành một môn học rất gần gũi với các em. Các em không ngại giải bài tập, xem đó là khâu thực hành cần thiết để giúp các em phát triển tư duy, trí tuệ, tính chịu khó, cần cù, làm đến nơi đến chốn không bỏ dở giữa chừng. Tính suy luận logic, chính xác chặt chẽ là cơ hội để rèn luyện bản thân, rèn luyện nhân cách của con người bước vào tương lai đầy niềm tin và hy vọng.
III. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
Qua thử nghiệm thực tế cho thấy học sinh chuẩn bị bài cũ kĩ hơn, làm bài tập về nhà chăm hơn.
Còn qua vài tiết thử nghiệm hoạt động nhóm, tôi thấy các em học sinh hào hứng hơn trong học tập, các em làm việc tự nhiên, thỏa mái hơn.Trong bài kiểm tra 1 tiết hình học sau đó, học sinh đã cải thiện nhiều lổi về trình bày và có kết quả khả quan hơn, mặc dù đây là phần mà hầu hết các học sinh rất sợ và không tự tin khi làm bài tập.
Thống kê điểm kiểm tra 1 tiết chương I của hai lớp trung bình với cùng một dạng bài tập trong hai năm 2011-2012, lớp 12A3 (không áp dụng chuyên đề) và lớp 12A6 (có áp dụng chuyên đề ).
Năm học
Lớp
Điểm
TS học sinh
03,3
3,54,8
5,07,8
8,010,0
2011-2012
12A3
5
20
17
2
44
2011-2012
12A6
3
11
23
4
41
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1/Ưu điểm
a) Đối với phần kiểm tra bài cũ
Chuyên đề này có thể áp dụng đối với các bộ môn khác
Giúp giáo viên kiểm tra sự chuẩn bị bài cũ của nhiều học sinh cùng lúc, do đó giúp giáo viên đánh giá tình hình học tập của lớp tương đối chính xác và lôi kéo cả lớp chú ý đến việc kiểm tra bài cũ.
Nhắc nhở học sinh không lơ là trong việc học bài cũ và làm bài tập ở nhà. Học sinh chuẩn bị bài tích cực trước khi đến lớp
b) Đối với phần hoạt động nhóm
Giúp học sinh thể hiện và phát huy tinh thần tập thể, biết kết hợp với các bạn trong nhóm thực hiện nhiệm vụ được giao.
Phát huy được tính tích cực của học sinh
Giải quyết được nhiều dạng bài tập
Tạo không khí thi đua học tập sôi nổi và giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gò bó đồng thời giúp các em tự tin hơn khi giải quyết các vấn đề.
Với phương thức hoạt động nhóm này thực hiện được đối với các tiết ôn tập tiết tự chọn và tiết phụ đạo
2/Nhược điểm
Mô hình này đòi hỏi sự chuẩn bị công phu của giáo viên
Không thể tránh khỏi hiện tượng chỉ có một vài học sinh trong nhóm làm việc.
3/Rút kinh nghiệm chung:
Trong quá trình truyền tải các kiến thức cho các em học sinh, chúng ta không nhất thiết yêu cầu cao ở sự tiếp thu kiến thức của các em, cần phải tạo cho học sinh thói quen tự giải bài tập ở nhà bằng cách giao một số bài tập đơn giản nhất đến các bài tập phức tạp hơn, khó hơn
Chia nhóm nên chú ý bố trí có một số học sinh khá ,giỏi làm nòng cốt và chú ý đến sự kết
File đính kèm:
- SKKN TOAN THPT 51.doc