Ra đời từ những năm 40 của thế kỷ thứ 19, cho đến nay những nguyên lý lí
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn còn giữ nguyên giá trị lí luận và thực tiễn
của nó. Và có thể nói rằng, mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn là một trong
những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và của lí luận nhận
thức mác xít nói riêng. Quán triệt mối quan hệ đó, và đặc biệt là về vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức, đặc biệt là nhận thức khoa học là một vấn đề có ý
nghĩa quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động cách mạng.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi mà đất nước ta đang trên con đường
đổi mới đầy khó khăn phức tạp. Hơn nữa, trong bối cảnh mà đất nước ta, theo
xu hướng tất yếu của thời đại, đang ngày càng thâm nhập một cách chủ động
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Toàn cầu hóa bên cạnh đem đến
cho chúng ta nhiều thời cơ, nhiều thuận lợi để phát triển về mọi mặt nhằm
theo kịp sự phát triển chung của khu vực và thế giới. Ngược lại, toàn cầu hóa
hiện nay, mà trước hết là toàn cầu hóa về mặt kinh tế, và như một tất yếu là
toàn cầu hóa về mặt chính trị, văn hóa, cũng đem lại cho chúng ta không ít
những khó khăn và thử thách. Đòi hỏi trước mắt cũng như trong thời gian sắp
tới chúng ta phải không ngừng đổi mới về nhiều mặt, trong đó có đổi mới tư
duy lí luận, kịp thời tổng kết thực tiễn xây dựng hệ thống lí luận có tầm nhìn
lâu dài và đưa ra những chủ trương và đường lối đúng đắn đúng đắn, kịp thời
góp phần cho đất nước bắt kịp tốc độ phát triển của thời đại và đưa đất nước
tiến nhanh và vững chắc hơn nữa trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Một lần nữa tìm hiểu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, làm
rõ mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn, đặc biệt là vai trò của nhân tố thực
tiến đối với quá trình nhận thức sẽ giúp cho chúng ta hiểu một cách sâu sắc
hơn, toàn diện hơn những nguyên lý cơ bản của triết học mác xít nhằm củng
cố lòng tin, mài sắc tư duy lý luận chính trị, đóng góp vào quá trình tổng kết,
40 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3904 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn trong triết học Mác- Lênin, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỤC LỤC ..................................................................................................... 0
A. PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................... 1
B. PHẦN NỘI DUNG.................................................................................... 3
1. Bản chất của quá trình nhận thức............................................................. 3
1.1. Quan niệm của các trào lưu triết học trước C.Mác về nhận thức........ 3
1.2. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về bản chất quá trình nhận thức 5
1.3. Các cấp độ của quá trình nhận thức ................................................... 6
1.3.1. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính ..................................... 6
1.3.1.1. Nhận thức cảm tính ............................................................... 6
1.3.1.2. Nhận thức lý tính................................................................... 8
1.3.1.3. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính với lý tính................. 10
1.3.2. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận............................. 10
1.3.2.1. Nhận thức kinh nghiệm ....................................................... 10
1.3.2.2. Nhận thức lý luận ................................................................ 11
1.3.3. Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học........................ 12
1.3.3.1. Nhận thức thông thường...................................................... 12
1.3.3.2. Nhận thức khoa học............................................................. 12
2. Thực tiễn ............................................................................................... 13
2.1. Khái niệm thực tiễn ......................................................................... 14
2.2. Các hình thức của hoạt động thực tiễn............................................. 15
3. Vấn đề chân lý....................................................................................... 18
3.1. Khái niệm chân lý ........................................................................... 18
1
3.2. Các tính chất của chân lý................................................................. 18
3.2.1. Tính khách quan........................................................................ 18
3.2.2. Tính tuyệt đối và tính tương đối ................................................ 19
3.2.3. Tính cụ thể ................................................................................ 20
3.2.4. Về tiêu chuẩn của chân lý.......................................................... 20
4. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.................................................. 23
4.1. Thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức.................. 23
4.2. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.................................................. 25
C. KẾT LUẬN............................................................................................. 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 38
1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Ra đời từ những năm 40 của thế kỷ thứ 19, cho đến nay những nguyên lý lí
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn còn giữ nguyên giá trị lí luận và thực tiễn
của nó. Và có thể nói rằng, mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn là một trong
những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và của lí luận nhận
thức mác xít nói riêng. Quán triệt mối quan hệ đó, và đặc biệt là về vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức, đặc biệt là nhận thức khoa học là một vấn đề có ý
nghĩa quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động cách mạng.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi mà đất nước ta đang trên con đường
đổi mới đầy khó khăn phức tạp. Hơn nữa, trong bối cảnh mà đất nước ta, theo
xu hướng tất yếu của thời đại, đang ngày càng thâm nhập một cách chủ động
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Toàn cầu hóa bên cạnh đem đến
cho chúng ta nhiều thời cơ, nhiều thuận lợi để phát triển về mọi mặt nhằm
theo kịp sự phát triển chung của khu vực và thế giới. Ngược lại, toàn cầu hóa
hiện nay, mà trước hết là toàn cầu hóa về mặt kinh tế, và như một tất yếu là
toàn cầu hóa về mặt chính trị, văn hóa, cũng đem lại cho chúng ta không ít
những khó khăn và thử thách. Đòi hỏi trước mắt cũng như trong thời gian sắp
tới chúng ta phải không ngừng đổi mới về nhiều mặt, trong đó có đổi mới tư
duy lí luận, kịp thời tổng kết thực tiễn xây dựng hệ thống lí luận có tầm nhìn
lâu dài và đưa ra những chủ trương và đường lối đúng đắn đúng đắn, kịp thời
góp phần cho đất nước bắt kịp tốc độ phát triển của thời đại và đưa đất nước
tiến nhanh và vững chắc hơn nữa trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Một lần nữa tìm hiểu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, làm
rõ mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn, đặc biệt là vai trò của nhân tố thực
tiến đối với quá trình nhận thức sẽ giúp cho chúng ta hiểu một cách sâu sắc
hơn, toàn diện hơn những nguyên lý cơ bản của triết học mác xít nhằm củng
2
cố lòng tin, mài sắc tư duy lý luận chính trị, đóng góp vào quá trình tổng kết,
phát triển lí luận trong công cuộc đổi mới của đất nước.
3
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Bản chất của quá trình nhận thức
1.1. Quan niệm của các trào lưu triết học trước C.Mác về nhận thức
Lý luận nhận thức là lý luận về khả năng nhận thức của con người, về sự
xuất hiện và phát triển của nhận thức, về con đường và phương pháp nhận
thức là vấn đề có tầm quan trọng trong lịch sử triết học. Quan niệm về nhận
thức, quá trình nhận thức và bản chất của nhận thức, trong lịch sử triết học từ
trước đến nay đã xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau hết sức phong phú và
đa dạng.
Có thể nói, mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học, tức vấn đề mối
quan hệ giữa tư duy và tồn tại, vật chất và ý thức là điểm xuất phát của lý luận
nhận thức.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng ý thức con người
là tồn tại thực tế, còn sự vật, hiện tượng và quá trình của thế giới chỉ có trong
cảm giác, trong khái niệm của chủ thể, trong cái tôi, do ý thức sản sinh ra.
Xuất phát từ chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, chủ
nghĩa duy tâm khách quan coi nhận thức là sự “hồi tưởng lại” của linh hồn bất
tử về “thế giới các ý niệm” hoặc là sự “tự ý thức về mình của ý niệm tuyệt
đối”.
Nói chung những người theo chủ nghĩa duy tâm xuất phát từ sự công nhận
ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai, đều cho rằng ý thức sản sinh ra
vật chất. Với nhiều dạng khác nhau, dù công khai hay che đậy bằng những
mánh khóe tinh vi, chủ nghĩa duy tâm cuối cùng cũng đi đến thừa nhận sự tồn
tại của một lực lượng siêu nhiên, của “Thượng đế”, do đó mà chủ nghĩa duy
tâm đã trở thành cơ sở thế giới quan của tôn giáo.
4
Khác với chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan,
những người theo thuyết hoài nghi coi nhận thức là trạng thái hoài nghi về sự
vật và biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức thành một nguyên tắc của
nhận thức. Đến thời kỳ cận đại, khuynh hướng này phủ nhận khả năng nhận
thức của con người. Họ cho rằng con người chỉ nhận thức được các thuộc tính
bề ngoài, còn bản chất bên trong của sự vật thì không thể nhận thức được.
Kể cả chủ nghĩa duy vật của Phơ-bách, một chủ nghĩa duy vật được C.Mác
và Ăngghen đánh giá rất cao cũng không thoát khỏi những quan niệm phiến
diện, hẹp hòi về nhận thức. Chính vì vậy mà trong “Luận cương về Phơ-bách,
C.Mác đâ nêu lên một nhận định có tính tổng kết về hạn chế của chủ nghĩa
duy vật và triết học trước đó về nhận thức rằng: “Khuyết điểm chủ yếu của
toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước tới nay – kể cả chủ nghĩa duy vật của Phơ-
bách là sự vật, hiện thực khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được
nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn, không nhận thức
được về mặt chủ quan.” [3, tr.9]
Đối lập với các quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật thừa nhận khả năng
nhận thức của con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào trong đầu óc của con người. Tuy nhiên do hạn chế bởi tính trực
quan, siêu hình nên chủ nghĩa duy vật trước Mác đã coi nhận thức là sự phản
ánh trực quan, là bản sao chép nguyên xi trạng thái bất động của sự vật. Họ
chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Như vậy có thể nói, tất cả các trào lưu triết học trước triết học Mác- Lênin
đều quan niệm sai lầm hoặc phiến diện về nhận thức, những vấn đề về lý luận
nhận thức chưa được giải quyết một cách khoa học, đặc biệt chưa thấy được
vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
5
1.2. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về bản chất quá trình nhận
thức
Bằng sự kế thừa những yếu tố hợp lý của các học thuyết đã có, khái quát
các thành tựu khoa học, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết
biện chứng duy vật về nhận thức. Học thuyết này ra đời đã tạo ra một cuộc
cách mạng trong lý luận nhận thức vì đã xây dựng được những quan điểm
khoa học đúng đắn về bản chất của nhận thức. Học thuyết này ra đời dựa trên
các nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý
thức của con người. Theo đó, xét về bản chất, nhận thức luôn mang tính thứ
hai, bị quyết định, chi phối bởi thế giới khách quan.
Hai là, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người, coi
nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là
hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể. Vì vậy, về nguyên tắc, không có cái
gì mà con người không thể biết, chỉ có cái con người chưa biết. Trong tương
lai, với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, dần dần con người sẽ biết.
Nhận thức chỉ có thể hoàn thành và thực hiện trong mối quan hệ giữa chủ thể
và khách thể nhận thức. Con người là chủ thể tích cực, sáng tạo của nhận
thức. Khi nhận thức, các yếu tố của chủ thể như lợi ích, lý tưởng, tài năng, ý
chí, phẩm chất đạo đức… đều tham gia vào quá trình nhận thức với những
mức độ khác nhau và ảnh hưởng đến kết quả nhận thức. Còn khách thể nhận
thức là một bộ phận nào đó của hiện thực mà nhận thức hướng tới nắm bắt,
phản ánh, nó nằm trong phạm vi tác động của hoạt động nhận thức. Do vậy,
khách thể nhận thức không hoàn toàn đồng nhất với toàn bộ hiện thực khách
quan, phạm vi của khách thể rộng đến đâu là tùy theo sự phát triển của khoa
học. Như vậy, cả chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức đều mang tính
lịch sử-xã hội.
6
Ba là, khẳng định nhận thức là một quá trình tích cực, biện chứng, sáng
tạo. Sự phản ánh thế giới là một quá trình vận động, phát triển, mâu thuẫn chứ
không phải là một hành động tức thời, giản đơn, máy móc và thụ động. Quá
trình nhận thức diễn ra theo con đường từ trực quan sinh động (nhận thức cảm
tính) đến tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính) rồi từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn. Đó cũng là quá trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ
bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
Bốn là, nhận thức là quá trình trong đó con người thông qua hoạt động
thực tiễn tác động vào hiện thực khách quan để nhận thức bản chất và quy
luật của hiện thực. Cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức là thực tiễn.
Thực tiễn vừa là động lực vừa là mục đích của nhận thức đồng thời là tiêu
chuẩn của chân lý.
Dựa trên nguyên tắc đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: nhận
thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới
khách quan vào trong đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn.
1.3. Các cấp độ của quá trình nhận thức
Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất phức tạp, bao gồm nhiều
giai đoạn, hình thức khác nhau. Tuỳ theo tính chất của sự nghiên cứu mà quá
trình đó được phân ra thành cấp độ khác nhau: nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính, nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận, nhận thức thông
thường và nhận thức khoa học.
1.3.1. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
1.3.1.1. Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn
đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các giác
7
quan để tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Trực quan sinh động
bao gồm các hình thức sau:
Cảm giác là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng
lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan
của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự
chuyển hoá những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý thức.
Lênin viết: “Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” hay “cái
cảm tính = cái đầu tiên, cái tự bản thân nó tồn tại và chân thực” [10, tr.53]
Nếu dừng lại ở cảm giác thì con người mới hiểu được thuộc tính cụ thể,
riêng lẻ của sự vật. Điều đó chưa đủ; bởi vì, muốn hiểu biết bản chất của sự
vật phải nắm được một cách tương đối trọn vẹn sự vật. Vì vậy nhận thức phải
vươn lên hình thức nhận thức cao hơn.
Tri giác là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn
sự vật khi sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri
giác là sự tổng hợp các cảm giác.
So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn, phong
phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và không
đặc trưng có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải
phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính không đặc trưng
và phải nhận thức sự vật ngay cả khi nó không còn trực tiếp tác động lên cơ
quan cảm giác con người. Do vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận
thức cao hơn.
Biểu tượng là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn
chỉnh sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động
trực tiếp vào các giác quan.
8
Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố
gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau
của các giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp. Cho
nên biểu tượng phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của các sự
vật.
Như vậy, nhận thức cảm tính có đặc điểm: Là giai đoạn nhận thức trực
tiếp sự vật, phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện cơ quan cảm giác, kết quả thu
nhận được tương đối phong phú, phản ánh được cả cái không bản chất, ngẫu
nhiên và cả cái bản chất và tất nhiên. Hạn chế của nó là, chưa khẳng định
được những mặt, những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để
khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.
1.3.1.2. Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính (Tư duy trừu tượng) là giai đoạn phản ánh gián tiếp
trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm,
phán đoán, suy luận.
Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những
đặc tính bản chất của sự vật.
Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện
chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì vậy, các khái
niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác
động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển.
Khái niệm có vai trò rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở
để hình thành các phán đoán và tư duy khoa học.
Phán đoán là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với
nhau để khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng.
9
Thí dụ: “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng” là một phán đoán. Bởi
vì có sự liên kết khái niệm “dân tộc” “Việt Nam” với khái niệm “anh hùng”.
Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm
ba loại là phán đoán đơn nhất (ví dụ: đồng dẫn điện), phán đoán đặc thù (ví
dụ: đồng là kim loại) và phán đoán phổ biến (ví dụ: mọi kim loại đều dẫn
điện). Ở đây phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự phản ánh bao quát
rộng lớn nhất về đối tượng.
Nếu chỉ dừng lại ở phán đoán thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên
hệ giữa cái đơn nhất với cái phổ biến, chưa biết được giữa cái đơn nhất trong
phán đoán này với cái đơn nhất trong phán đoán kia và chưa biết được mối
quan hệ giữa cái đặc thù với cái đơn nhất và cái phổ biến. Chẳng hạn qua các
phán đoán thí dụ nêu trên ta chưa thể biết ngoài đặc tính dẫn điện giống nhau
thì giữa đồng với các kim loại khác còn có các thuộc tính giống nhau nào
khác nữa. Để khắc phục hạn chế đó, nhận thức lý tính phải vươn lên hình thức
nhận thức suy luận.
Suy luận là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với
nhau để rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Thí dụ,
nếu liên kết phán đoán “đồng dẫn điện” với phán đoán “đồng là kim loại” ta
rút ra được tri thức mới “mọi kim loại đều dẫn điện”. Tùy theo sự kết hợp
phán đoán theo trật tự nào giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với phổ biến mà
người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch.
Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức năng phát hiện ra tri thức
mới một cách nhanh chóng và đúng đắn.
Từ ba hình thức trên ta có thể rút ra giai đoạn nhận thức lý tính có đặc
điểm sau: Là giai đoạn nhận thức gián tiếp, trừu tượng, khái quát sự vật. Nhận
thức lý tính phụ thuộc vào năng lực tư duy của con người. Do đó phản ánh
10
được chính xác mối liên hệ bản chất tồn tại bên trong một sự vật hay một lớp
các sự vật.
1.3.1.3. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính với lý tính
Nhận thức cảm tính và lý tính có cùng chung đối tượng phản ánh, đó là
các sự vật; cùng chung chủ thể phản ánh đó là con người và cùng do thực tiễn
quy định. Đây là hai giai đoạn hợp thành quá trình nhận thức. Do vậy, chúng
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, biểu hiện: Nhận thức cảm tính là cơ sở
cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính; nhận thức lý tính nhờ có tính khái quát
cao hiểu được bản chất nên đóng vai trò định hướng cho nhận thức cảm tính
để có thể phản ánh được sâu sắc hơn. Lênin viết: “…lý tính chỉ là sự cố gắng
không ngừng của tinh thần để thích nghi với kinh nghiệm, để hiểu kinh
nghiệm ngày càng sâu…” [10, tr.629]
Nếu nhận thức chỉ dừng lại ở giai đoạn lý tính thì con người chỉ có
được những tri thức về đối tượng. Còn bản thân tri thức đó có chân thực hay
không thì chưa khẳng định được. Muốn khẳng định, nhận thức phải trở về
thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn.
1.3.2. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận
Dựa vào trình độ thâm nhập vào bản chất của đối tượng, ta có thể phân
chia thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận.
1.3.2.1. Nhận thức kinh nghiệm
Đây là loại nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả
nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Tri thức này có hai loại, tri
thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.
11
Tri thức kinh nghiệm thông thường là loại tri thức được hình thành từ
sự quan sát trực tiếp hàng ngày về cuộc sống và sản xuất. Tri thức này rất
phong phú, nhờ có tri thức này con người có vốn kinh nghiệm sống dùng để
điều chỉnh hoạt động hàng ngày.
Tri thức kinh nghiệm khoa học là loại tri thức thu được từ sự khảo sát
các thí nghiệm khoa học, loại tri thức này quan trọng ở chỗ đây là cơ sở để
hình thành nhận thức khoa học và lý luận.
Hai loại tri thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, xâm nhập vào nhau
để tạo nên tính phong phú, sinh động của nhận thức kinh nghiệm.
1.3.2.2. Nhận thức lý luận
Đây là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất và
quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận có tính gián tiếp vì nó
được hình thành và phát triển trên cơ sở của nhận thức kinh nghiệm. Nhận
thức lý luận có tính trừu tượng và khái quát vì nó chỉ tập trung phản ánh cái
bản chất mang tính quy luật của sự vật và hiện tượng. Do đó, tri thức lý luận
thể hiện chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn và có hệ thống hơn.
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức
khác nhau, có quan hệ biện chứng với nhau.Trong đó nhận thức kinh nghiệm
là cơ sở của nhận thức lý luận. Nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư
liệu phong phú, cụ thể. Vì nó gắn chặt với thực tiễn nên tạo thành cơ sở hiện
thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận và cung cấp tư liệu để tổng
kết thành lý luận. Ngược lại, mặc dù được hình thành từ tổng kết kinh
nghiệm, nhận thức lý luận không xuất hiện một cách tự phát từ kinh nghiệm.
Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những sự kiện kinh
nghiệm, hướng dẫn sự hình thành tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn
kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn. Thông qua đó mà
12
nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất trở
thành cái khái quát, phổ biến.
Nắm vững bản chất, chức năng của từng loại nhận thức đó cũng như
mối quan hệ biện chứng giữa chúng có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng
trọng việc đấu tranh khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo
điều.
1.3.3. Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học
Khi căn cứ vào tính tự phát hay tự giác của sự xâm nhập vào bản chất
của sự vật thì nhận thức lại có thể được phân ra thành nhận thức thông
thường và nhận thức khoa học.
1.3.3.1. Nhận thức thông thường
Nhận thức thông thường (nhận thức tiền khoa học) là loại nhận thức
được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của
con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm
chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận thức
thông thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn với những quan niệm
sống thực tế hàng ngày. Vì thế, nó thường xuyên chi phối hoạt động của con
người trong xã hội. Thế nhưng, nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng
lại ở bề ngoài, ngẫu nhiên tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học
được.
1.3.3.2. Nhận thức khoa học
Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác
và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của các
sự vật.
13
Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát lại
vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận dụng một cách
hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường
và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng
nghiên cứu. Vì thế nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt
động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ.
Như vậy, nhận thức thông thường và nhận thức khoa học có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường có trước
nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa
học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học thì nó lại tác động trở
lại nhận thức thông thường, xâm nhập và làm cho nhận thức thông thường
phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình nhận thức thế giới của
con người.
2. Thực tiễn
Trong lịch sử triết học trước Mác, các trào lưu đều có quan niệm chưa đúng,
chưa đầy đủ về thực tiễn. Chủ nghĩa duy tâm chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt
động tinh thần của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất.
Ngược lại, chủ nghĩa duy vật trước Mác đã hiểu được thực tiễn là hành động
vật chất của con người nhưng lại xem nó là hoạt động con buôn đê tiện,
không có vai trò gì đối nhận thức của con người.
Trong “Luận cương về Phơ-bách”, C.Mác từng nói: “…chủ nghĩa duy tâm
dĩ nhiên là không hiểu hoạt động hiện thực, cảm giác được, đúng như là hoạt
động hiện thực, cảm giác được. Phơ-bách muốn xem xét những khách thể
cảm giác được, thực sự khác biệt với những khách thể tư tưởng, nhưng ông
không xem xét bản thân hoạt động của con người, như là hoạt động khách
quan. Bởi thế, trong “Bản chất đạo Cơ Đốc, ông chỉ coi hoạt động lý luận là
14
hoạt động đích thực của con người, còn thực tiễn thì chỉ được ông xem xét và
xác định trong hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu mà thôi. Vì vậy, ông
không hiểu được ý nghĩa của hoạt động Đảng “cách mạng” của hoạt động
“thực tiễn-phê phán” [3, tr.9]
2.1. Khái niệm thực tiễn
Triết học Mác - Lênin đánh giá phạm trù thực tiễn là một trong những
phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học nói chung và lý luận nhận thức nói
riêng. Quan điểm đó đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong triết
học.
Vậy thực tiễn là gì? Triết học mácxít khẳng định:
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch
sử- xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Như vậy, dựa vào định nghĩa thực tiễn ta có thể thấy, thực tiễn là hoạt
động khác biệt khá rõ so với hoạt động tư duy.
Thứ nhất, hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất để phân biệt với hoạt
động tinh thần. Hoạt động thực tiễn, hoạt động vật chất đôi khi cũng được
C.Mác gọi là hoạt động “cảm tính” để p
File đính kèm:
- triet hoc mac.pdf