Như chúng ta đã biết, hoạt động chủ đạo của trẻ em chính là hoạt động vui chơi. Trẻ em không chỉ cần được chăm sóc sức khoẻ, được học tập, mà quan trọng nhất trẻ cần phải được thoả mãn nhu cầu vui chơi. Xuất phát từ vai trò quan trọng của hoạt động vui chơi đối với trẻ em và nhu cầu hưởng thụ hoạt động này, tôi thấy việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian là một việc làm cần thiết và rất có ý nghĩa.
Di sản văn hoá truyền thống Việt Nam có nhiều loại hình khác nhau, trong đó có thể nói, trò chơi dân gian cũng là một di sản văn hoá quý báu của dân tộc. Nó được kết thành từ quá trình lao động và sinh hoạt, trong đó tích tụ cả trí tuệ và niềm vui sống của bao thế hệ người Việt xưa. Đặc biệt đối với trẻ em, trò chơi dân gian với những chức năng đặc biệt của nó đã mang lại cho thế giới trẻ thơ nhiều điều thú vị và bổ ích, đồng thời thể hiện nhu cầu giải trí, vui chơi, quyền được chia sẻ niềm vui của các em với bạn bè, cộng đồng. Nó làm cho thế giới xung quanh các em đẹp hơn và rộng mở; tuổi thơ của các em sẽ trở thành những kỉ niệm quý báu theo suốt cuộc đời; làm giàu nguồn tình cảm và trí tuệ cho các em
17 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 21739 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số kinh nghiệm trong việc tổ chức các trò chơi dân gian cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm của tôi đã được hội đồng sư phạm nhà trường đưa vào áp dụng thực tế tại trường. Bản thân tôi cũng đã áp dụng sáng kiến này vào ngay tại lớp của mình phụ trách. Bởi vì sáng kiến kinh nghiệm này không đòi hỏi yêu cầu cao với trẻ mẫu giáo, mà chỉ dựa vào khả năng trải nghiệm thực tế của trẻ. Mặt khác những trò chơi này thật sự gần gũi với địa phương, nguyên vật liệu phục vụ trò chơi đơn giản, rẻ tiền, thậm chí là những nguyên vật liệu mà phụ huynh trẻ và trẻ của trường có thể tự kiếm được như: Sỏi, Hòn mảng, cần câu… Điều quan trọng hơn hết nó gắn kết tất cả mọi người, không phân biệt đối tượng, không hạn chế số người tham gia.
Tuy nhiên, khi tiến hành thực hiện sáng kiến này tôi đang thử nghiệm chỉ với đối tượng trẻ mẫu giáo của trường. Với hy vọng sẽ đượng nhân rộng ra nhiều trường khác nữa.
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian ngiên cứu và bắt tay vào viết sáng kiến, đưa vào áp dụng trong quá trình giảng dạy thực tế tại trường. Tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của Phòng Giáo dục và đào tạo Tân lạc, đã mở lớp chuyên đề “ Trò chơi dân gian” cho các trường Mầm non, tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu trường Mầm non Quy hậu, các đồng nghiệp của trường đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thiện sáng kiến, để tôi áp dụng sáng kiến này vào quá trình giảng dạy. Bản thân tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các chị em đồng nghiệp, khi áp dụng vào thực tế tổ chức cho trẻ chơi ở lớp mình phụ trách. Tôi kính mong các cấp lãnh đạo, góp ý chỉ đạo cho sáng kiến kinh nghiệm của tôi. Để quá trình thực hiện đạt hiệu quả cao hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết, hoạt động chủ đạo của trẻ em chính là hoạt động vui chơi. Trẻ em không chỉ cần được chăm sóc sức khoẻ, được học tập, mà quan trọng nhất trẻ cần phải được thoả mãn nhu cầu vui chơi. Xuất phát từ vai trò quan trọng của hoạt động vui chơi đối với trẻ em và nhu cầu hưởng thụ hoạt động này, tôi thấy việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian là một việc làm cần thiết và rất có ý nghĩa.
Di sản văn hoá truyền thống Việt Nam có nhiều loại hình khác nhau, trong đó có thể nói, trò chơi dân gian cũng là một di sản văn hoá quý báu của dân tộc. Nó được kết thành từ quá trình lao động và sinh hoạt, trong đó tích tụ cả trí tuệ và niềm vui sống của bao thế hệ người Việt xưa. Đặc biệt đối với trẻ em, trò chơi dân gian với những chức năng đặc biệt của nó đã mang lại cho thế giới trẻ thơ nhiều điều thú vị và bổ ích, đồng thời thể hiện nhu cầu giải trí, vui chơi, quyền được chia sẻ niềm vui của các em với bạn bè, cộng đồng. Nó làm cho thế giới xung quanh các em đẹp hơn và rộng mở; tuổi thơ của các em sẽ trở thành những kỉ niệm quý báu theo suốt cuộc đời; làm giàu nguồn tình cảm và trí tuệ cho các em. Chính vì vậy, trò chơi dân gian rất cần thiết được lựa chọn, giới thiệu trong nhà trường tuỳ theo lứa tuổi của trẻ. Đúng như PGS. TS Nguyễn Văn Huy, giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã nói: “ Cuộc sống đối với trẻ em không thể thiếu những trò chơi. Trò chơi dân gian không đơn thuần là một trò chơi của trẻ con mà nó chứa đựng cả nền văn hoá dân tộc Việt Nam độc đáo và giàu bản sắc. Trò chơi dân gian không chỉ chắp cánh cho tâm hồn trẻ, giúp trẻ phát triển tư duy, sáng tạo, mà còn giúp các em hiểu về tình bạn, tình yêu gia đình, quê hương, đất nước. Ngày nay, các em ở một xã hội công nghiệp, chỉ quen với máy móc và không có khoảng thời gian chơi cũng là một thiệt thòi. Thiệt thòi hơn khi các em không được làm quen và chơi những trò chơi dân gian của thiếu nhi ngày trước - đang ngày càng bị mai một và quên lãng, không chỉ có ở các thành phố mà còn ở cả các vùng quê. Vì thế, giúp các em hiểu và quay về nguồn với các trò chơi dân gian là một
việc làm cần thiết”.
Ở lứa tuổi mẫu giáo, vui chơi là hoạt động chủ đạo. Thông qua hoạt động vui chơi, trẻ phát triển trí tuệ, thể chất, tình cảm quan hệ xã hội, qua đó nhằm phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ. Chính vì vậy, giáo viên cần tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi nói chung và trò chơi dân gian nói riêng. Năm học 2008 – 2009, Bộ giáo dục và đào tạo phát động phong trào: “ Xây dựng trường học thân thiện – Học sinh tích cực” trong đó có nội dung đưa trò chơi dân gian vào trường học. Nhưng làm thế nào để tổ chức được các trò chơi dân gian thực sự có hiệu quả, lôi cuốn và hấp dẫn được trẻ là một bài toán khó với các giáo viên, đặc biệt là các giáo viên mầm non. ( Vì khả năng chú ý có chủ định của trẻ mầm non còn kém. Trẻ dễ dàng tham gia vào trò chơi nhưng cũng nhanh chán, nhanh bỏ cuộc ).
Là một giáo viên mầm non, tôi luôn trăn trở và tìm các biện pháp để tổ chức các trò chơi dân gian một cách có hiệu quả nhất. Sau đây tôi xin trình bày sáng kiến kinh nghiệm của mình với đề tài: “ Một số kinh nghiệm trong việc tổ chức các trò chơi dân gian cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo ”.
II. NỘI DUNG
1 Cơ sở lý luận:
1.1: Thuận lợi:
Luôn đựơc sự hướng dẫn và chỉ đạo sát sao về Chuyên môn của Phòng Giáo dục và sự quan tâm tạo điều kiện về mọi mặt của BGH nhà trường. Nhà trường đã xây dựng lịch trình tổ chức giao lưu trò chơi dân gian ở từng khối lớp.
Trẻ MG mạnh dạn, tự tin, thông minh, thích tham gia vào các trò chơi, đặc biệt là các trò chơi dân gian.
Bản thân tôi được sinh ra ở vùng nông thôn. Chính vì vậy, những trò chơi dân gian đã gắn bó trong suốt tuổi thơ của tôi.
Tôi rất thích các trò chơi dân gian Việt Nam và sưu tầm được rất nhiều trò chơi dân gian thú vị và đặc sắc, phù hợp với trẻ mầm non.
Được đào tạo chính quy và trải qua nhiều năm kinh nghiệm thực tế. ( Trong đó có 8 năm trực tiếp tham gia giảng dạy lứa tuổi MG lớn ).
1.2: Khó khăn:
Giáo viên phải có hiểu biết và vốn kiến thức phong phú về các trò chơi dân gian.
Việc tổ chức các trò chơi dân gian cho trẻ đòi hỏi phải có sự linh hoạt và tính sáng tạo cao.
Mức độ khó hay dễ của các trò chơi không giống nhau. Có những trò chơi vô cùng đơn giản nhưng cũng có những trò chơi phức tạp, đòi hỏi người chơi phải tư duy trong quá trình chơi.
Thời gian tổ chức cho trẻ chơi rất hạn hẹp vì một trò chơi không thể diễn ra trong suốt cả một hoạt động của trẻ mà nó chủ yếu chỉ được lồng ghép và tích hợp vào các hoạt động mà thôi.
Khả năng chú ý có chủ định của trẻ còn kém. Trẻ dễ dàng nhập cuộc chơi nhưng cũng nhanh chóng tự rút ra khỏi trò chơi nếu nó không còn hứng thú.
Trong lớp còn một số trẻ rụt rè, nhút nhát, thiếu tự tin và không thích
tham gia vào các hoạt động tập thể.
2. Một số biện pháp tổ chức các trò chơi dân gian cho trẻ mẫu giáo.
Từ những thuận lợi và khó khăn trên đây, tôi đã đề ra một số biện pháp cụ thể như sau:
2.1: Lựa chọn các trò chơi dân gian phù hợp với lứa tuổi của trẻ.
Kho tàng các trò chơi dân gian Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng nhưng không phải trò chơi nào cũng phù hợp với trẻ nhỏ. Vì thế, giáo viên nên có sự cân nhắc lựa chọn cho trẻ chơi các trò chơi có luật chơi và cách chơi đơn giản, dễ nhớ, dễ hiểu.
Bên cạnh đó, trong trường mầm non lại có sự phân chia trẻ theo nhiều độ tuổi. Mỗi độ tuổi lại có mức độ nhận thức và khả năng chú ý có chủ định khác nhau. Chính vì thế, các trò chơi cũng cần phải được lựa chọn
cho phù hợp với từng độ tuổi.
Cụ thể như sau:
* Với trẻ lứa tuổi nhà trẻ và mẫu giáo bé ( từ 2 đến 4 tuổi ): khả năng chú ý có chủ định còn kém, nhận thức còn đơn giản. Vì vậy trẻ chỉ có thể chơi được các trò chơi đơn giản như: “ Lộn cầu vồng”, “ Chi chi chành chành”, “ Tập tầm vông”, “ Nu na nu nống”, “ Dung dăng dung dẻ”…
* Với trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn ( từ 4 đến 6 tuổi ): khả năng chú ý có chủ định và nhận thức của trẻ đã cao hơn rất nhiều so với lứa tuổi trước. Vì thế, trẻ có thể chơi được các trò chơi dài hơn và khó hơn.
Khi lựa chọn các trò chơi dân gian cho trẻ Mẫu giáo, tôi thực hiện theo các tiêu chí sau:
- Trò chơi không quá đơn giản nhưng cũng không quá phức tạp.
- Đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trò chơi dễ kiếm, dễ tìm.
- Giúp củng cố tư duy, ngôn ngữ, vận động, kỹ năng cho trẻ.
- Gây được hứng thú, thu hút sự chú ý của trẻ.
- Có sự tham gia của tập thể lớp hoặc nhóm trẻ trong lớp.
Từ những tiêu chí trên, tôi đã lựa chọn các trò chơi sau cho trẻ lớp
Mẫu giáo: “ Thả đỉa ba ba”, “ Ô ăn quan”, “ Trốn tìm”, “ Đánh mảng”, “ Kéo co”, “ Rồng rắn lên mây”, “Chồng đống chồng đe”, “ Trồng nụ trồng hoa”, “ Ném còn”, “ Cướp cờ”, “ Đẩy gậy”…
2.2: Chuẩn bị đồ dùng đồ chơi, lời ca, địa điểm trước khi tổ chức cho trẻ tham gia vào các trò chơi dân gian.
2.2.1: Chuẩn bị đồ dùng đồ chơi cho các trò chơi dân gian:
Đồ dùng đồ chơi của các trò chơi dân gian cũng vô cùng đa dạng và phong phú, mang tính đặc trưng và được thiết kế dựa vào cách chơi và luật chơi của từng trò chơi. Mỗi trò chơi dân gian có một hoặc nhiều loại đồ dùng đồ chơi tương ứng mà thiếu nó thì trò chơi không thể tiến hành được.
Ví dụ như trò: “ Chơi chuyền” đòi hỏi phải có 10 que chuyền và một đồ vật có dạng khối cầu như quả bóng, quả bưởi non…Trò chơi “ Ném còn” không thể diễn ra nếu thiếu quả còn - đồ chơi truyền thống của trò chơi đó. Hay đơn giản như trò chơi “ Bịt mắt bắt dê” cũng không thể được tổ chức nếu không có dải vải hoặc dải khăn bịt mắt…
Chính vì vậy, trước khi tổ chức cho trẻ chơi một trò chơi dân gian nào đó, giáo viên cần tìm hiểu kỹ lưỡng về luật chơi, cách chơi cũng như việc có hay không có đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trò chơi để từ đó có thể chuẩn bị đầy đủ các yếu tố cần thiết cho trò chơi.
2.2.2: Dạy trẻ đọc thuộc lời ca ( đối với những trò chơi có lời đồng dao ):
Một đặc điểm đặc trưng của trò chơi dân gian đó là khi chơi trẻ không bao giờ chỉ hùng hục thực hiện các vận động của mình mà chúng thường vừa chơi vừa hát hoặc đọc lời đồng dao nào đó. Các bài đồng dao đó khiến cho không khí chơi vui vẻ, nhộn nhịp hơn. Mặc dù không phải bài đồng dao nào cũng có ý nghĩa, song bài nào cũng phù hợp với tư duy hồn nhiên của trẻ.
Ví dụ như: chơi “ Chi chi chành chành”, trẻ đọc lời “ Chi chi chành chành – Cái đanh thổi lửa – Con ngựa chết trương – Ba vương ngũ đế…”. Lời của trò chơi dường như chẳng có mạch ý nào rõ ràng, nhưng thiếu nó thì trò chơi không thể tiến hành. Hay như chơi “ Rải ranh” trẻ đọc “ Rải ranh – Bẻ cành – Hái ngọn – Chọn đôi”. Cùng với lời của trò chơi là bàn tay rải những viên sỏi một cách khéo léo, tung viên cái lên, nhặt một hoặc hai viên con dưới đất, rồi lại giơ tay đỡ viên cái vừa rơi xuống.
Trò chơi chỉ có thể được tổ chức khi trẻ đã thuộc lời đồng dao. Chính vì vậy, tôi thường cho trẻ làm quen với lời đồng dao của các trò chơi dân gian trước khi hướng dẫn trẻ chơi vào các thời điểm trong ngày của trẻ như: hoạt động chiều, hoạt động ngoài trời…Khi trẻ đã thuộc lời đồng dao, tôi tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi tương ứng với lời đồng dao đó. Vì thế, trẻ chơi rất hứng thú và tích cực tham gia chơi.
2.2.3: Chuẩn bị địa điểm để tổ chức trò chơi:
Mỗi trò chơi dân gian có một cách chơi và luật chơi khác nhau. Có những trò chơi vận động mang tính tập thể rất cao, thường có số lượng người tham gia chơi lớn và đòi hỏi địa điểm chơi phải có diện tích rộng như “ Kéo co”, “ Rồng rắn lên mây”, “ Thả đỉa ba ba”, “ Trồng nụ trồng hoa”…
Nhưng lại cũng có những trò chơi tĩnh, trẻ hay chơi theo các nhóm nhỏ như “ Chi chi chành chành”, “ Tập tầm vông”, “Rải ranh”, “ Chơi chuyền”, “ Ô ăn quan”…
Chính vì vậy, giáo viên cần nắm vững cách chơi, luật chơi, đặc điểm của từng trò chơi để từ đó lựa chọn địa điểm cho phù hợp trước khi tổ chức cho trẻ chơi.
2.3: Tổ chức các trò chơi phù hợp với tính chất của hoạt động.
Mỗi hoạt động của trẻ đều nhằm đạt được một mục đích nhất định. Vì thế, hoạt động nào cũng có tính chất riêng của nó. Nếu như hoạt động chung được tổ chức nhằm cung cấp các kiến thức cho trẻ thì hoạt động ngoài trời lại giúp trẻ được gần gũi với thiên nhiên, khám phá các hiện tượng tự nhiên và phát triển thể chất; hay như ở hoạt động góc trẻ lại được mở rộng thêm về kinh nghiệm sống và kỹ năng chơi theo nhóm. Chính vì vậy, giáo viên cần chú ý lựa chọn và tổ chức các trò chơi dân gian cho phù
hợp với tính chất của từng hoạt động.
* Với hoạt động ngoài trời: tận dụng không gian rộng và thoáng,
giáo viên nên tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi vận động nhằm rèn luyện và phát triển thể lực cho trẻ như: “ Rồng rắn lên mây”, “ Bịt mắt bắt dê”, “ Nhảy dây”, “ Nhảy lò cò”, “ Thả đỉa ba ba”…
Hình ảnh minh họa trò chơi “ Bịt mắt bắt dê”
* Với hoạt động góc: nên tổ chức cho trẻ các trò chơi có thể chơi theo nhóm nhỏ trong một không gian hẹp như: “ Ô ăn quan”, “ Chơi chuyền”, “ Rải ranh”, “ Chuyền thẻ”, “ Kéo cưa lửa xẻ”…
Hình ảnh minh họa cho trò chơi “ Kéo cưa lừa sẻ”
Hình ảnh minh họa cho trò chơi “ Ô ăn Quan”
* Với hoạt động học và hoạt động chiều ( chủ yếu diễn ra trong phòng nhóm ): nên tổ chức cho trẻ các trò chơi tĩnh nhằm phát triển nhận thức cho trẻ như: “ Ô ăn quan”, “ Tập tầm vông”, “ Rải ranh”, “ Chơi
chuyền”…
Hình ảnh mình họa cho trò chơi “ Chơi chuyền”.
Đặc biệt khi tích hợp trò chơi dân gian trong hoạt động học, giáo viên cần lựa chọn trò chơi phù hợp với đặc điểm của từng môn học.
Ví dụ:
- Với lĩnh vực Phát triển thể chất: Nên lựa chọn các trò chơi vận động nhằm rèn luyện thân thể khoẻ mạnh, hoạt bát và năng động. Nhiều trò chơi đòi hỏi trẻ phải mạnh mẽ, nhanh chân, nhanh mắt, nhanh miệng. Trẻ phải có sức khỏe mới có thể vui chơi và ngược lại vui chơi giúp cho trẻ thêm khỏe mạnh và năng động.
Chẳng hạn:
+ Với trò chơi “ Rồng rắn lên mây”, khi trẻ hát xong câu cuối: “ Xin khúc đuôi – Tha hồ thầy đuổi”, lập tức trẻ làm “ đuôi” ( đứng sau cùng ) phải chạy thật nhanh, nếu không sẽ bị “ thầy” tóm lấy, sau đó có thể bị thay người khác hoặc lại phải làm “ thầy” để đi đuổi những trẻ khác. ( Hình ảnh minh họa cho trò chơi)
+ Trò “ Nhảy dây”, “ Trồng nụ trồng hoa”, “ Nhảy lò cò” có nhiều nấc chơi nho nhỏ: từ bàn một, bàn hai…đến bàn mười ( Nhảy lò cò ); từ một nụ, một hoa…đến tám hoa ( Trồng nụ trồng hoa )…Trẻ phải vượt qua dần từng nấc, hết nấc này mới đi tiếp nấc sau. Như vậy, trẻ phải có sức bền, khỏe mạnh, nhanh nhẹn và khéo léo mới có thể tiến dần đến được nấc cuối
của trò chơi.
+ Trò “ Chi chi chành chành” lại buộc trẻ phải rất nhanh tay, nhanh miệng vì nếu câu cuối bài là “ ù à ù ập” được đọc xong mà trẻ không rút kịp tay ra, ngón tay của trẻ sẽ bị giữ lại, như thế là thua.
Hình ảnh minh họa cho trò chơi “ Chi chi chành chành”
- Với lĩnh vực Khám phá khoa học: toán, văn học khi lựa chọn các trò chơi cần đáp ứng được các tiêu chí sau:
+ Nhằm phát triển nhận thức cho trẻ.
+ Phát triển ngôn ngữ.
+ Cung cấp cho trẻ các kỹ năng như: kỹ năng hoạt động theo nhóm, kỹ năng sử dụng đồ dùng đồ chơi…
+ Rèn luyện trí nhớ và khả năng tư duy cho trẻ.
Ví dụ:
+ Lời đồng dao của trò chơi chuyền: “ Con ruồi có cánh - Đòn gánh
có mấu – Châu chấu có chân…” đã giúp trẻ nhận biết được đặc điểm đặc
trưng của một số con vật và đồ vật quen thuộc.
+ Những câu hát ngược có tính chất đánh lừa nhận thức, thử thách sự năng động của trí tuệ, khiến trẻ muốn hiểu đúng sự vật thì phải chuyển ngược lại:
“ Non cao đầy nước
Đáy biển đầy mây
Dưới đất lắm mây
Trên trời lắm cỏ
Người thì có mỏ
Chim thì có mồm…”
+ “ Chơi chuyền” là một trò chơi dân gian dạy trẻ làm toán cộng hay trừ. Đó là bài tập đếm từ 1 đến 10 của trẻ. Trẻ nhóm các nhóm theo trật tự cao dần lên và cộng lại trong phạm vi 10: bắt đầu từ bàn một “cái mốt, cái mai, con trai, con hến, con nhện giăng tơ…” sau đó là nhóm đôi và các nhóm cao hơn “ đôi chúng tôi, đôi anh chị…”, “ba lá đa, ba lá đề…”, “tám quả trám, hai lên chín”…Bài tập đó có thể giúp trẻ đếm thành thạo trong phạm vi 10.
- Với môn âm nhạc nên chọn các trò chơi có giai điệu và lời hát như các trò chơi: “ Tập tầm vông”.
Ngoài ra khi lựa chọn các trò chơi dân gian trong hoạt động chung, một điều cần đặc biệt lưu ý đó là: phải lựa chọ trò chơi phù hợp với đề tài và chủ điểm của bài dạy.
Chẳng hạn như:
- Chủ điểm “ Thế giới động vật” có thể tổ chức các trò chơi: “ Bịt mắt bắt dê”, “ Câu ếch”, “ Thi tìm những con vật có từ láy : Chuồn chuồn; Ba ba; Rùa rùa”…
- Chủ điểm “ Thế giới thực vật” có thể cho trẻ chơi các trò chơi: “ Giã gạo”, “ Trồng nụ trồng hoa”,
- Chủ điểm “ Tết và mùa xuân” là thời điểm thích hợp để giới thiệu
cho trẻ các trò chơi truyền thống của dân tộc trong dịp lễ Tết như “ Ném
còn”, “ Cướp cờ”, “ Đẩy gậy”, “ Kéo co” , “ Đánh mảng”…
2.5: Động viên tất cả các trẻ tham gia vào trò chơi.
Một ưu thế của trò chơi dân gian chính là ở chỗ nó có thể dung nạp tất cả những ai muốn chơi. Không bao giờ trò chơi dân gian quy định số người chơi nhất định. Vì vậy tôi luôn khuyến khích, động viên tất cả các trẻ tham gia chơi càng đông càng vui. Nếu chơi “ Bịt mắt bắt dê”, mỗi khi có một người vào thêm, vòng chỉ rộng ra một chút chứ trò chơi không thay đổi. Còn trò chơi “ Rồng rắn lên mây” thì thêm một người, “ cái đuôi” sẽ dài ra một chút và tất cả mọi người đều được chơi, được chạy như nhau. Những trò chơi “ Thả đỉa ba ba”, “ Chi chi chành chành”, “ Nhảy lò cò”, “Nhảy dây”… cũng tương tự như vậy. Trong khi chơi, mọi trẻ đều bình đẳng như nhau. Nếu trẻ nào ích kỷ, chơi không đúng luật chơi, chen lấn các bạn khác sẽ bị tập thể nhắc nhở, không cho chơi chung một vòng chơi. Qua đó tinh thần tập thể của các trẻ được nâng lên rất nhiều.
3. Kết quả:
- Qua việc áp dụng một số kinh nghiệm của bản thân vào việc tổ chức cho trẻ lớp Mẫu giáo làm quen với các trò chơi dân gian, tôi đã thu
được nhiều kết quả rất khả quan: Cụ thể:
+ 100% trẻ rất hứng thú và yêu thích các trò chơi dân gian.
+ 100% trẻ được mở rộng kiến thức và có thêm rất nhiều hiểu biết về các trò chơi dân gian, các phong tục truyền thống của dân tộc.
+ Trẻ đã biết tự tổ chức chơi các trò chơi dân gian với các bạn trong
lớp. Đặc biệt qua trò chơi dân gian đã giúp cho những trẻ nhút nhát, không
tự tin khi tham gia vào hoạt động trở nên tự tin hơn, hoạt bát và hòa đồng vào tập thể hơn.
+ Qua việc thường xuyên được tham gia vào các trò chơi dân gian, nhận thức và thể lực của các trẻ trong lớp tôi được nâng cao rõ rệt. Trẻ nhanh nhẹn, năng động, tự tin và hồn nhiên trong giao tiếp với mọi người.
- Cũng qua sáng kiến này, đã tạo điều kiện cho bản thân giáo viên tăng thêm hiệu quả, cũng như chất lượng trong công tác tuyên truyền, công tác xã hội hóa giáo dục.
- Trò chơi dân gian còn giúp các trẻ trong lớp tôi thêm gắn bó với nhau, nâng cao tinh thần đoàn kết và ý thức tập thể của trẻ
III. Kết luận và đề xuất.
Qua việc áp dụng sáng kiến trên vào thực tế giảng dậy, bản thân tôi đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm sau:
- Trò chơi dân gian có tầm quan trọng rất lớn đối với sự phát triển của trẻ nhỏ. Trò chơi dân gian vừa giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu vui chơi, vừa góp phần nâng cao nhận thức, phát triển các giác quan, tăng cường thể lực cho trẻ, giúp trẻ trở thành những người lao động tài giỏi trong tương lai.
- Những trẻ chơi một cách hăng hái, hoạt động nổi bật trong khi chơi thường cũng chính là những đứa trẻ thông minh, tháo vát và biết tổ chức điều hành công việc trong cuộc sống.
- Bản thân cô giáo cần phải tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian thường xuyên hơn, để phát triển ở trẻ tinh thần tập thể, biết nhường nhịn bạn bè, biết giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm của mình với bạn khác.
- Khi tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ giáo viên cần tìm hiểu kỹ cách chơi, luật chơi và chuẩn bị đầy đủ các yếu tố cần thiết để tiến hành trò chơi. Có như vậy mới thu được kết quả như mong đợi.
Những kinh nghiệm của tôi rất đơn giản, giáo viên có thể dễ dàng thực hiện. Do vậy các giáo viên và có cả một số phụ huynh học sinh trong trường, đã áp dụng kinh nghiệm của tôi trong việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian tại gia đình, và trong dịp tổ chức hội làng, hoặc giao lưu văn nghệ giữa các xóm trong Xã.
Bằng việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian, đã giúp trẻ được thỏa mãn nhu cầu vui chơi, đồng thời bảo tồn được một di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, góp phần thực hiện tốt cuộc vận động “ Xây dựng trường học thân thiện – Học sinh tích cực”.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong việc tổ chức cho trẻ mẫu giáo chơi các trò chơi dân gian. Qua quá trình áp dụng vào thực tế tổ chức cho trẻ, bản thân tôi xin mạnh dạn có đề xuất nhỏ với nhà trường như sau.
- Tăng cường công tác tổ chức và duy trì các trò chơi dân gian vào
thực tế giảng dạy hàng ngày.
- Tổ chức cho các lớp thi với nhau về chơi các trò chơi dân gian, để các lớp có thể học hỏi kinh nghiệm tổ chức, trẻ được giao lưu giữa hai cụm điểm trường.
Rất mong đề xuất của tôi được Ban giam hiệu nhà trường quan tâm. Xin chân thành cảm ơn.
Quy hậu, ngày 02 tháng 04 năm 2012
Người viết sáng kiến
Nguyễn Thị Phương
NHẬN XÉT CỦA HĐKH TRƯỜNG MẦM NON QUY HẬU.
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
NHẬN XÉT CỦA HĐKH PHÒNG GD & ĐT HUYỆN TÂN LẠC
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
File đính kèm:
- SKKN 2012.doc