Đề tài Một vài biện pháp giúp học sinh dân tộc ghi nhớ nội dung văn bản ngữ văn 6

Mục tiêu của môn Ngữ văn trong trường THCS là góp phần giáo dục để hình thành những con người có những phẩm chất đạo đức tốt đẹp: biết yêu thương, quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ giá trị Chân, Thiện, Mỹ trong văn học.

Qua một thời gian công tác tại trường THCS Lê Duẩn – IaTiêm – Chư Sê, tôi nhận thấy việc giảng dạy Ngữ văn ở đây gặp nhiều khó khăn, nên cố gắng tìm tòi, suy nghĩ, tìm ra những cách giải quyết thích hợp nhất, phù hợp với trình độ học sinh để đạt được mục tiêu dạy - học. Đó cũng là lý do tôi thực hiện đề tài này: vài biện pháp giúp học sinh dân tộc ít người khắc sâu kiến thức trong phần đọc - hiểu văn bản trong chương trình Ngữ văn lớp 6; đồng thời khơi gợi ở một số học sinh khá giỏi lòng yêu thích môn văn học, phát huy năng khiếu văn chương của bản thân.

 

doc16 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1432 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một vài biện pháp giúp học sinh dân tộc ghi nhớ nội dung văn bản ngữ văn 6, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO CHƯ SÊ Trường THCS Lê Duẩn SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI MỘT VÀI BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH DÂN TỘC GHI NHỚ NỘI DUNG VĂN BẢN NGỮ VĂN 6. & Người viết: Hà Nguyễn Hồng Phúc Giới tính: nữ . Dân tộc : Kinh Ngày sinh: 01 / 04 / 1975 Chức vụ: giáo viên Đơn vị : Trường THCS Lê Duẩn PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ Mục tiêu của môn Ngữ văn trong trường THCS là góp phần giáo dục để hình thành những con người có những phẩm chất đạo đức tốt đẹp: biết yêu thương, quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu… Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ giá trị Chân, Thiện, Mỹ trong văn học. Qua một thời gian công tác tại trường THCS Lê Duẩn – IaTiêm – Chư Sê, tôi nhận thấy việc giảng dạy Ngữ văn ở đây gặp nhiều khó khăn, nên cố gắng tìm tòi, suy nghĩ, tìm ra những cách giải quyết thích hợp nhất, phù hợp với trình độ học sinh để đạt được mục tiêu dạy - học. Đó cũng là lý do tôi thực hiện đề tài này: vài biện pháp giúp học sinh dân tộc ít người khắc sâu kiến thức trong phần đọc - hiểu văn bản trong chương trình Ngữ văn lớp 6; đồng thời khơi gợi ở một số học sinh khá giỏi lòng yêu thích môn văn học, phát huy năng khiếu văn chương của bản thân. 1. Thuận lợi. Trường THCS Lê Duẩn nằm ở trung tâm xã IaTiêm, cơ sở vật chất để phục vụ cho việc dạy - học tương đối đầy đủ; thầy và trò luôn được sự hướng dẫn tận tình, giúp đỡ chu đáo của các cấp lãnh đạo, sự quan tâm của chính quyền địa phương, nên được cập nhật kịp thời những chủ trương, chính sách của Đảng , Nhà nước và của ngành. 2.Khó khăn. Phần lớn đối tượng học sinh ở đây là người dân tộc Jrai vốn tiếng việt rất hạn chế nên việc lĩnh hội kiến thức của học sinh hầu như rất thụ động, học sinh không có khả năng giao tiếp bằng tiếng phổ thông nên việc tạo hứng thú cho học sinh trong việc tìm hiểu văn bản là một khó khăn rất lớn cho giáo viên. Hơn nữa là học sinh dân tộc Jrai cha mẹ không quan tâm đến việc học của con em. Tỉ lệ học sinh người Kinh ít và phần lớn thuộc diện hộ nghèo. Trong khi đó trường nằm trên địa bàn thuộc vùng kinh tế khó khăn, hầu hết gia đình các em đều làm thuê hoặc làm rẫy nên các em phải phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp không có thời gian dễ học bài ở nhà . Cho nên hầu hết học sinh không nhớ được tên bài, nội dung, ý nghĩa của văn bản đã học ( sẽ diễn giải cụ thể ở phần sau). Thiết bị dạy học cho môn Ngữ văn nói chung và Ngữ văn 6 nói riêng rất hạn chế. Có một số văn bản rất cần tranh ảnh nhưng không có, làm giảm đi sự hiểu biết của học sinh khi tiếp xúc với văn bản. Qua quá trình giảng dạy, tôi phát hiện ra một vài cách giúp khắc phục một phần khó khăn nêu trên. Xin trình bày để các bạn đồng nghiệp, quý lãnh đạo xem xét, góp ý, giúp đỡ để công việc ngày một tốt hơn. PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I.Thực trạng tình hình. Qua nhiều năm giảng dạy Ngữ văn 6 tại trường THCS Lê Duẩn, Chư Sê, tôi thấy nổi bật lên một vấn đề khó khăn mà giáo viên Ngữ văn phải đối mặt. Đó là học sinh dân tộc rất lúng túng, bỡ ngỡ trong việc tiếp thu nội dung một bài. Nhớ được tên bài, nội dung ý nghĩa bài học còn khó hơn bởi các em học trước quên sau. Nhiều lần thực hiện kiểm tra miệng, kiếm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ, học sinh dân tộc thường không trả lời được mà chỉ đánh dấu theo kiểu may rủi. Hỏi: đoạn trích này nằm trong tác phẩm nào? Nhân vật chính là ai?... thì phần lớn các em không nhớ ra, nói chi đến việc nắm được ý nghĩa của văn bản. Một vấn đề nữa: để đổi mới phương pháp dạy học giúp cho giáo viên giảng dạy tốt hơn, Bộ Giáo Dục đã đưa về một bộ tranh minh hoạ Ngữ văn 6 để giáo viên sử dụng làm thiết bị dạy - học cho tiết học thêm sinh động. Nhưng bộ tranh minh hoạ ấy chỉ minh hoạ cho một số thể loại truyện dân gian ở học kì I. Trong học kỳ II có một số tác phẩm rất cần tranh minh hoạ nhưng không có như văn bản: “ Sông nước Cà Mau”; “Đêm nay Bác không ngủ”; “ Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử” và “Động Phong Nha”. Tôi luôn trăn trở mỗi khi dạy đến những bài này, bởi đối tượng là học sinh dân tộc, vốn ngôn ngữ phổ thông đã hạn chế thì làm sao tưởng tượng được những hình ảnh trìu tượng, phong cảnh đặc sắc của đất nước. Trên cơ sở những vấn đề trên, tôi tìm cách thay đổi, khắc phục và thấy có hiệu quả rõ rệt. Hôm nay xin trình bày ở đây để quý vị đồng nghiệp tham khảo góp ý với ba vấn đề lớn sau: -Khắc phục tranh minh hoạ còn thiếu để phục vụ cho một số tác phẩm văn học cần thiết. -Dùng văn vần để thuyết minh cho tranh góp phần khắc sâu kiến thức cho học sinh, tổng kết đặc điểm chung của một số thể loại truyện dân gian. -Một vài biện pháp nhằm khơi gợi sự yêu thích, tìm hiểu văn học dân gian cho học sinh khá giỏi. II. Đối tượng nghiên cứu: học sinh khối 6 trường THCS Lê Duẩn, IaTiêm, Chư Sê, Gia Lai. III. Phạm vi nghiên cứu: Môn Ngữ văn 6. IV. Tiến trình thực hiện các biện pháp. Khắc phục tranh minh hoạ còn thiếu để phục vụ cho một số tác phẩm văn học cần thiết. Trong bộ môn Ngữ văn 6, Bộ giáo dục đã trang bị một bộ tranh dân gian ( xếp chung thể loại). Mục đích của việc này là dùng tranh để làm thiết bị dạy học, tăng thêm phần sinh động, tạo hứng thú cho học sinh tiếp thu bài học. Nhưng bộ tranh ấy chỉ sử dụng cho thể loại truyền thuyết và cổ tích. Còn một số tác phẩm văn học hiện đại rất cần tranh để minh hoạ mà lại không có. Đó là tác phẩm : “ Sông nước Cà Mau”. Bài văn này miêu tả cảnh sông nước ở cực nam của Tổ Quốc với sông ngòi, kênh rạch chi chít như mạng nhện, cảnh họp chợ, buôn bán trên sông rất độc đáo. Đối tượng học sinh ở đây chủ yếu là học sinh người Jarai, vì thế các em không thể hình dung cảnh họp chợ độc đáo, tấp nập như thế nào mà tranh không có thì hiệu quả của tiết học không cao. Cho nên tôi rất trăn trở, phải dạy chay một vài lần, cảm thấy không thoả mãn nên quyết định tìm tranh minh hoạ để giúp học sinh nhìn thấy nét độc đáo của chợ Năm Căn.Qua nhiều lần tìm kiếm tôi phát hiện ra trong bộ tranh địa lớp 4 có bức tranh chụp “Chợ nổi trên sông”. Đây đúng là thiết bị dạy học cần thiết, phù hợp với bài học. Từ đó mỗi khi dạy đến bài “ Sông nước cà Mau” tôi đã có tranh minh hoạ. Tác phẩm : “Đêm nay Bác không ngủ” kể về một đêm trên đường đi chiến dịch, bác đã thức trắng cả đêm vì lo lắng cho bộ đội, cho dân quân. Sách giáo khoa Ngữ văn 6 tập II có giải thích sự kiện này là “chiến dịch Biên giới 1950”. Tôi thấy hình ảnh này cũng cần có tranh minh hoạ để đảm bảo tính chân thực, từ đó tăng thêm lòng kính yêu của học sinh đối với Bác Hồ kính yêu. Để khắc phục thiếu thốn này, tôi đã mượn tranh lịch sử lớp 9 có hình ảnh bác Hồ trên đường chiến dịch Biên giới 1950 làm tranh minh hoạ. Đối với tác phẩm “ Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử”. Bài văn miêu tả quá trình xây dựng cầu, hình dáng, đặc điểm quy mô và cầu đã chứng kiến bao thăng trầm của đất nước. Học sinh cần được tận mắt nhìn thấy ảnh của cây cầu để từ đó cảm nhận về ý nghĩa của cây cầu rõ ràng hơn. Nhưng không có hình ảnh nào về cây cầu Long Biên cả. Nhờ sự tích hợp ngang mà tôi phát hiện bộ tranh lịch sử lớp 8 có hình ảnh cây cầu Long Biên, tôi đã dùng tranh này để minh hoạ cho bài học và thấy đạt hiệu quả mong muốn rõ rệt. Đặc biệt, đối với bài “Động Phong Nha” - một văn bản nhật dụng ca ngợi cảnh thiên nhiên tươi đẹp ở nước ta và ý nghĩa, giá trị nhân văn của nó mà không có hình ảnh cụ thể để học sinh nhìn thấy, cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt tác ấy. Vấn đề này, tôi cũng thường trao đổi với đồng nghiệp và có ý kiến lên cấp trên từ năm 2004 nhưng chưa thấy phản hồi. Bản thân tôi khi dạy đến kiểu bài này cảm thấy bức xúc vì không thể truyền tải cho học sinh bằng lời được trước một tuyệt tác thiên nhiên như thế. Tôi muốn học sinh nhìn thấy gián tiếp qua tranh ảnh để phần nào cảm nhận được vẻ đẹp và giá trị của động Phong Nha. Tôi cũng đã nhiều lần tìm kiếm trên các phương tiện thông tin đại chúng ảnh lịch sử của Động Phong Nha nhưng không thấy. Rất may, trên một số tạp chí ( Du lịch, Giáo dục và thời đại ) có in hình Động Phong Nha rất đẹp. Tôi bèn cắt nó dán vào một tờ lịch treo tường có kích thước 45 x 50cm và sử dụng làm thiết bị dạy học. Bằng cách đó, tôi đã khắc phục được sự thiếu thốn tranh minh hoạ cho quá trình dạy học và thấy được hiệu quả rõ rệt. Sử dụng tranh minh hoạ cho tiết học Ngữ văn 6 - phần “Đọc - hiểu văn bản” Thiết kế tranh minh hoạ theo từng thể loại, dễ dàng để chuẩn bị cho một tiết học. Cơ sở vật chất của trường THCS Lê Duẩn tương đối đảm bảo cho việc học nhưng phòng thiết bị thì còn đang thiếu thốn ( THCS và Tiểu học + Thư viện sử dụng chung một phòng). Các tranh minh hoạ phục vụ cho việc dạy học phải ở trong tình trạng cuộn tròn, xếp một chỗ, nên khi giáo viên muốn tìm tranh để phục vụ cho tiết học phải mở từng xấp, từng chiếc tìm kiếm rất mất thời gian ( nếu được như ở một số trường thuận lợi, mỗi bộ môn có phòng riêng để bỏ thiết bị thì giáo viên chỉ cần căng tranh treo lên là được). Để khắc phục khó khăn này tạo điều kiện thuận lợi cho công việc, tôi đã sắp xếp như sau: Kết hợp bộ tranh dân gian của Bộ giáo dục phát hành với số tranh tôi tự làm được một bộ tranh minh hoạ Ngữ văn 6 hoàn chỉnh. Sau đó chia ra theo từng thể loại: truyền thuyết một tập, truyện cổ tích một tập, văn học hiện đại một tập và các thể loại khác một tập. Sau đó dùng đinh cỡ bảy – tám đục lỗ mép trên của các bức tranh và dùng kẽm nhỏ xâu lại thành một tập giống tập lịch dùng đinh dán treo trên tường. Làm như vậy đỡ chiếm diện tích của phòng thiết bị lại khỏi mất thời gian tìm kiếm. Khi dạy đến thể loại nào thì lấy thể loại đó xuống. Dạy xong, treo lên chỗ cũ để năm sau sử dụng tiếp. Cứ như vậy thực hiện cho tất cả các thể loại ( tôi nghĩ cách này cũng có thể áp dụng cho tất cả các bộ môn lớp khác trong điều kiện cơ sở vật chất dành thiết bị còn thiếu). 2.2.Cách dùng tranh minh hoạ cho bài học Ngữ văn thêm sinh động, khơi gợi hứng thú cho học sinh. Để phát huy tính tích cực của học sinh và phát huy tối đa tác dụng của tranh minh hoạ trong phần “Đọc - hiểu văn bản” ở các bài Ngữ văn 6, tôi dùng văn vần để thuyết minh cho các tranh minh hoạ ( ghi sẵn dưới mỗi bức tranh, nét chữ to). Như đã nói ở trên, đối tượng học sinh là dân tộc Jarai nên việc nắm, hiểu nội dung bài của các em hết sức khó khăn. Nhân đọc một bài báo trên Thế giới trong ta, tôi nảy ra ý tưởng này đưa và áp dụng thấy tương đối khả quan: do tâm lý chung của học sinh bây giờ là lười đọc sách dẫn đến đọc yếu, gây khó khăn cho việc hiểu nội dung văn bản. Việc dùng tranh minh hoạ hỗ trợ cho các em thấy hứng thú khi tiếp xúc văn bản. Từ đó giúp học sinh khắc sâu được nội dung, ý nghĩa của bài học. 2.3. Một vài biện pháp nhằm khơi gợi sự yêu thích, tìm hiểu văn học dân gian cho học sinh khá giỏi. Ngoài ra với cách làm này còn có thể khơi gợi cho một số học sinh khá giỏi phát huy năng khiếu của các em về cách diễn đạt một tình cảm về một nhân vật, một chi tiết trong truyện mà mình yêu thích bằng cách đặt ra một vài câu văn vần để biểu cảm hoặc vẽ một bức tranh thể hiện những nội dung ấy. Bằng việc thực hiện cách làm trên, năm học 2007 – 2008, kết quả kiểm tra cuối năm cho thấy tỉ lệ học sinh dân tộc nắm được kiến thức cơ bản cao hơn so với năm trước. Số liệu cụ thể như sau: Tổng số HSDT Giỏi DT Khá DT TB DT Yếu DT Kém DT Năm học 2006 -2007 100 80 1 0 8 2 58 48 30 27 3 3 Năm học 2007 - 2008 105 82 7 3 15 8 65 55 18 6 0 0 Một vài em khá giỏi như em Vi, Loan (nay học lớp 7) đã làm một bài thơ ngắn về Thầy bói xem voi, Thạch Sanh, làm thơ tặng cô nhân ngày 8 / 3… chứng tỏ biện pháp của tôi đã có tác dụng rõ rệt. Qua quá trình giảng dạy, quan sát tôi thấy đa số các em học sinh dân tộc rất thờ ơ thiếu tích cực trong việc Đọc - hiểu văn bản do vốn giao tiếp Tiếng việt của các em rất hạn chế. Trong khi đó ngôn ngữ trong chương trình phổ thông tương đối trừu tượng, phong phú, học sinh không hiểu được nên dẫn đến tình trạng chán học không chủ động lĩnh hội kiến thức, cứ chờ thầy cô cho ghi chữ nào là lập tức ghi vào vở mà không cần hiểu câu chữ ấy có nghĩa gì. Thế nhưng khi dùng tranh minh hoạ cho bài giảng, lập tức các em hào hứng hẳn lên, bàn tán xì xào và quan sát rất kỹ. Vì thấy tôi triệt để dùng tranh minh hoạ để hỗ trợ cho tiết dạy của mình. Tuy nhiên, nếu tiết dạy nào cũng đưa tranh ra rồi hỏi: “em hãy cho biết nội dung của bức tranh minh hoạ cho chi tiết nào trong truyện?” hoặc “ Theo em, nội dung bức tranh nói lên điều gì?” hoặc “ Em thử đặt tên cho bức tranh”… thì cũng dễ gây sự nhàm chán, quen thuộc và lại trở nên thụ động làm mất đi ý nghĩa, tác dụng của tranh minh hoạ. Cho nên tôi nảy ra cách làm như sau: có một số bài thực hiện theo hướng trên nhưng có một số bài dùng văn vần để thuyết minh: dạy đến bài nào thì mở tranh ra, trên bức tranh ghi sẵn hai câu văn vần để học sinh đọc và quan sát rồi chép vào sổ tay. Đối với học sinh Jarai, từ việc đọc văn bản, phân tích nội dung đến việc quan sát tranh là các em có ba lần để ghi nhớ kiến thức. Thực tế, nhiều em rất ham thích tìm hiểu nhưng rào cản ngôn ngữ đã hạn chế sự tiếp thu của các em. Với các câu văn vần trên tranh dễ nhớ, dễ thuộc góp phần giúp các em tiếp nhận và ghi nhớ được nội dung văn bản. Ở đây không phải coi nhẹ các phương pháp khác trong tiến trình dạy - học mà chỉ muốn phát huy tối đa tác dụng của tranh minh hoạ để hỗ trợ các hoạt động khác nhằm đạt đến mục tiêu chính là truyền thụ kiến thức, học sinh tập cách chủ động nắm kiến thức. Cách làm trên đây có thể áp dụng với từng tiết học trong hoạt động tìm hiểu văn bản cho mỗi bức tranh minh hoạ cho một truyện cụ thể còn đối với tiết ôn tập truyện dân gian, sau khi tiến hành các hoạt động ôn tập củng cố thì có một hoạt động dành cho ngoại khoá, tôi thay bằng hoạt động thi làm văn vần để chỉ ra đặc điểm khái quát của từng thể loại giúp học sinh dễ nhớ, dễ thuộc bởi sẽ dùng từ ngữ gần gũi. Cho học sinh làm theo nhóm: tìm từ, ghép vần để chỉ ra đặc điểm của truyện truyền thuyết, truyện cổ tích. Các nhóm trao đổi, nhận xét với nhau, sau đó giáo viên chọn và đưa ra những câu thơ hợp lý nhất. Hoặc cho học sinh thi vẽ tranh về một nội dung mà mình yêu thích trong các truyện dân gian đã học vì học sinh Jarai có năng khiếu vẽ rất đẹp. Đây cũng là một cách làm nhằm kích thích sự sáng tạo, yêu cái đẹp, nhạy cảm trước những câu chuyện dân gian đầy ý nghĩa. Sau đây tôi xin cụ thể hoá từng bước tranh với những câu văn vần để thuyết minh cho mỗi tiết học như sau: Mô hình 1: Cụ thể hoá sử dụng tranh minh hoạ trong từng bài học STT Bài Tiết Văn bản Thể loại Trang Thuyết minh 1 1 1 Con Rồng Cháu Tiên truyền thuyết 6 Con theo mẹ lập nên nòi giống, Con theo cha giúp đỡ khi cần, Tự hào nguồn gốc thần tiên, Chân trời góc biển là người Việt nam 2 1 2 Bánh chưng bánh giầy truyền thuyết 9 Bánh chưng ngày Tết dâng thần Là ơn bồi đắp những ngày cần lao 3 2 5 Thánh Gióng truyền thuyết 21 Một mình một ngựa xông pha Bỗng roi sắt gãy, đằng ngà quật lên 4 3 9 Sơn Tinh Thuỷ Tinh truyền thuyết 32 Thuỷ tinh gọi gió hô mưa Làm thành dông bão hòng giành Mỵ Nương Sơn tinh không hề núng nao Sông dâng núi cũng dâng cao mấy lần 5 6 21 Thạch Sanh Cổ tích 63 Dương cung bắn trúng đại bàng Lần theo dấu vết tìm hang thăm dò Thạch Sanh dũng cảm phi thường Lý Thông lừa lọc biến thành bọ hung 6 7 26 Em bé thông minh Cổ tích 70 Người tài giỏi không ở đâu xa Mất công tìm kiếm? Ngay nhà đấy thôi! 7 8 31 Cây bút thần Cổ tích 81 Mã Lương đã có bút thần Vẽ cày, vẽ cuốc giúp dân đổi đời 8 19 77 Sông nước Cà Mau VHHĐ 19 Sông nước giăng như chăng mạng nhện Miền cực nam Tổ quốc đó ta ơi Buôn bán trên sông lam lũ cùng nước nổi Mà vẫn vui như lúa mới được mùa 9 29 123 Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử Văn bản nhật dụng 123 Sừng sững gánh chịu bao đau đớn Oằn mình cùng nỗi khổ của giang sơn 10 31 129 Động Phong Nha Văn bản nhật dụng 145 Huyền ảo phong cảnh hữu tình Phong Nha đẹp nhất chỉ mình Việt Nam Mô hình 2: Khái quát đặc điểm của từng thể loại truyện dân gian trên từng tập tranh. Stt Thể loại Thuyết minh 1 Truyền thuyết Truyền thuyết có thật một phần Tưởng tượng kỳ ảo là thần giúp ta 2 Cổ tích Cổ tích thương người thật thà Công bằng xã hội luôn đà phân minh 3 Ngụ ngôn Ngụ ngôn gởi ý vào lời Khuyên người cẩn thận những điều thiệt hơn 4 Truyện cười Truyện cười là để mua vui Phê phán sâu sắc kiểu đời chua ngoa 5 Văn học hiện đại Hiện đại cuộc sống quanh ta Sông sâu nước thẳm sắc màu bao la Người tốt cảnh đẹp muôn nơi Tự hào đất nước đời đời phồn vinh PHẦN III. KẾT LUẬN 1. Kết luận chung Qua quá trình áp dụng biện pháp dùng văn vần để thuyết minh cho tranh minh hoạ nhằm hỗ trợ cho việc học sinh hiểu và nhớ được nội dung ý nghĩa văn bản trong chương trình Ngữ văn 6 đã giúp cho các em có tinh thần học tập tốt hơn, hứng thú tìm hiểu nội dung những văn bản mới. Điều đó thể hiện trong từng tiết lên lớp mà tôi giảng dạy. Đến nay, chất lượng học tập của học sinh từng bước được nâng cao rõ rệt. S ố liệu cụ thể như sau: Tổng số HSDT Giỏi DT Khá DT TB DT Yếu DT Kém DT Năm học 2006 -2007 100 80 1 0 888 2 58 48 30 27 3 3 Năm học 2007 - 2008 105 82 7 3 15 8 65 55 18 6 0 0 Điều tôi phấn khởi nhất là học sinh có thái độ tích cực trong việc biểu lộ tình cảm, cảm xúc đối với các nhân vật và một số câu chuyện trong mỗi bài học. Cách làm của tôi trên đây cũng có thể áp dụng cho một số bộ môn khác như sử, địa, giáo dục công dân… 2. Kiến nghị. - Đầu tư trang thiết bị, dụng cụ trực quan, ảnh minh hoạ về Động Phong Nha, cầu Long Biên cho môn Ngữ văn 6. - Nhà trường cho sử dụng một số mặt tường ở một số phòng để treo tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng thiết bị dạy học của giáo viên. Trên đây là những biện pháp mà tôi đã áp dụng thành công trong quá trình giảng dạy của mình tại trường THCS Lê Duẩn. Tôi rất mong được nghe những ý kiến đóng góp của lãnh đạo và đồng nghiệp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa Ngữ văn 6 2. Sách giáo viên Ngữ văn 6 3. Báo Thế giới trong ta chuyên đề 45 – 46 MỤC LỤC Phần thứ nhất: Đặt vấn đề 1. Thuận lợi Trang 1 2. Khó khăn Trang 1 Phần thứ hai: giải quyết vấn đề I. Thực trạng tình hình Trang 3 II. Đối tượng nghiên cứu Trang 4 III. Phạm vi nghiên cứu Trang 4 IV. Tiến trình thực hiện các biện pháp 1. Khắc phục tranh minh hoạ còn thiếu Trang 4 2. Cách sử dụng tranh minh hoạ Trang 5 Phần thứ ba: Kết luận Trang 12

File đính kèm:

  • docSang kien kinh nghiem Van 6.doc
Giáo án liên quan