Hoá học là một môn học khó đối với học sinh THCS vì nó là một môn khoa học tổng hợp kiến thức của các môn khoa học tự nhiên và xã hội khác. Cho nên sau khi học xong chương trình lớp 7 các em mới có đủ điều kiện để lĩnh hội kiến thức của môn học này. Bên cạnh đó một số em học sinh còn cho rằng đây là một môn học phụ nên các em chưa có ý thức để học tập tốt bộ môn. Do đặc trưng của môn học và những quan niệm sai lầm về bộ môn cùng với sự cố gắng chưa cao của giáo viên trực tiếp giảng dạy môn hoá học,
15 trang |
Chia sẻ: shironeko | Lượt xem: 1465 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong giờ dạy môn hoá học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài:
"Nâng cao chất lượng học tập của học sinh
trong giờ dạy môn hoá học"
A. Đặt vấn đề:
I. Cơ sở lý luận:
Hoá học là một môn học khó đối với học sinh THCS vì nó là một môn khoa học tổng hợp kiến thức của các môn khoa học tự nhiên và xã hội khác. Cho nên sau khi học xong chương trình lớp 7 các em mới có đủ điều kiện để lĩnh hội kiến thức của môn học này. Bên cạnh đó một số em học sinh còn cho rằng đây là một môn học phụ nên các em chưa có ý thức để học tập tốt bộ môn. Do đặc trưng của môn học và những quan niệm sai lầm về bộ môn cùng với sự cố gắng chưa cao của giáo viên trực tiếp giảng dạy môn hoá học, dẫn đến kết quả học tập của học sinh về môn hoá học ở các trường còn thấp. Từ kết quả này lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp thôi thúc tôi phải làm thế nào để nâng cao chất lượng học tập, việc làm đầu tiên là nâng cao chất lượng một giờ dạy trên lớp vì đây là một môn học rất thiết thực với thực tế đời sống và lao động sản xuất. Nó chuyên nghiên cứu về các chất và sự chuyển hoá của các chất, giúp ta từ các chất ban đầu tạo ra nhiều chất mới. Nhiều sản phẩm mới và quý không thể thiếu được trong cuộc sống để từng bước nâng cao mức sống của con người và đáp ứng toàn bộ yêu cầu của xã hội.
II. Cơ sở thực tiễn.
Trước tình hình chung hiện nay, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống ngày càng được phát triển và mở rộng. Do đó việc cải thiện các trang thiết bị, dụng cụ máy móc. Việc đưa công nghệ tiên tiến vào mọi lĩnh vực nhằm phát triển kinh tế, bảo vệ an ninh quốc phòng là rất cần thiết.
Để đạt được mục tiêu đó thì mỗi quốc gia cần phải định hướng đào tạo nhân tài từ trong trường học theo các chuyên ngành khác nhau. Chuyên ngành hoá học là một trong những chuyên ngành có nhiều ứng dụng trong thực tiễn cuộc sống. Nó phục vụ cho nhiều chuyên ngành khác phát triển. Vì vậy một việc rất cần thiết là ngay từ cấp cơ sở hệ thống trường THPT giáo viên phải nghiên cứu khám phá để nâng cao phương pháp trong một giờ dạy. Tạo cho các em có hứng thú say mê và yêu thích bộ môn học này.
B. Giải quyết vấn đề:
I. Tình hình thực tiễn:
Mặc dù bộ môn hoá học ở THPT đóng một vai trò rất quan trọng nhưng ở cấp THCS các em thực sự không chú ý và xem đó như một môn phụ, đã có rất nhiều em không thích học môn này (sau đây là số liệu điều tra đầu năm tại lớp 9A khi chưa áp dụng đề tài này vào giảng dạy).
Số em không yêu thích môn học
Số em xem đó như một môn phụ
Số em yêu thích môn học
Số lượng
25
11
6
Tỷ lệ
59%
26%
15%
II. Nguyên nhân:
Nguyên nhân dẫn đến thực tiễn đó có một số nguyên nhân cơ bản là:
- Các em chưa tìm thấy hứng thú trong quá trình học.
- Các em thấy khó, chán nãn và có ý thức ỉ lại.
- Các em chưa thấy được tầm quan trọng của bộ môn.
Sở dĩ dẫn tới thực tế trên một phần chủ yếu là do giáo viên chưa tạo được những tiết học lôi cuốn học sinh. Nên dẫn đến chất lượng thấp.
III. Giải pháp khắc phục.
Để đạt được ước vọng “Nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong giờ dạy môn Hoá học” bản thân tôi phải tiến hành những công việc sau:
1. Trước hết bản thân tôi phải nắm vững cấu trúc chương trình sách giáo khoa của từng lớp học, từng cấp học và cả chương trình của bộ môn, trong khi giảng bài, tôi giúp học sinh vận dụng kiến thức đã học, xây dựng kiến thức mới hoặc khi giảng xong kiến thức mới, tôi có thể xác định cho các em hướng để các em học lên các lớp trên.
Ví dụ: Dạy định nghĩa về axít ở lớp 9, tôi cho học sinh nhắc lại định nghĩa axít ở lớp 8, từ đó hướng dẫn cho học sinh xây dựng định nghĩa axít ở lớp 9. Đến đây tôi xác định cho học sinh định nghĩa về a xít nó không dừng lại ở đây mà có điều kiện học lên lớp trên định nghĩa về axít còn được mở rộng hơn nữa (Dung dịch axít là một hợp chất có khả năng phân li ra H+) hoặc định nghĩa về ôxi hoá khử, định nghĩa về Bazơ cũng tương tự.
Ngoài ra việc nắm vững cấu trúc chương trình còn giúp tôi mở rộng được nhiều kiến thức trong giờ dạy cho học sinh, nhất là đối với học sinh chuyên. Học sinh khá giỏi và giúp tôi có đầy đủ điều kiện để giảng dạy học sinh trong toàn cấp học.
2. Xác định đúng dạng bài để dạy đúng phương pháp đặc trưng của bộ môn và đúng với phương pháp của từng loại bài dạy, đối với môn hoá học có các dạng bài sau:
- Dạng bài lý thuyết.
- Dạng bài thực hành
- Dạng bài luyện tập.
- Dạng bài ôn tập tổng kết.
- Dạng bài kiểm tra học sinh.
(Phần này đã được xác định rõ trong phân phối chương trình).
3. Đọc kĩ bài dạy để hiểu đúng ý của người viết sách giáo khoa, về kiến thức cơ bản và cách trình bày kiến thức của tác giả, nắm được mối quan hệ giữa các kiến thức từ đó khắc sâu được kiến thức trọng tâm cho học sinh và làm cho học sinh thấy rõ con đường đi đến kiến thức rồi hướng dẫn cho các em phát hiện ra kiến thức.
Ví dụ: Dạy bài “Ôxi ở lớp 8” kiến thức trọng tâm của bài là phần tính chất hoá học của ôxi, tôi đã làm cho học sinh thấy rõ con đường đi đến kiến thức là bằng thí nghiệm thực tế, để các em nắm được các tính chất hoá học của ôxi và để hướng dẫn cho các em phát hiện ra kiến thức qua từng thí nghiệm, tôi cho học sinh thấy rõ các chất đem tác dụng cùng với việc các em quan sát thí nghiệm và vận dụng vốn kiến thức có sẵn để có thể dự đoán sản phẩm tạo thành sau phản ứng và dẫn đến kết luận, cụ thể:
Tính chất ôxi tác dụng với sắt, tôi cho học sinh biết các chất đem tác dụng là ôxi và sắt, học sinh quan sát thí nghiệm thấy có hạt nóng đỏ bắn ra, các em sẽ đự đoán sản phẩm là Fe3O4 (màu nâu), từ đó các em rút ra phương trình :
3Fe + 2O2 = to Fe3O4. Ngoài việc hiểu đúng ý nghĩa của người viết sách còn giúp tôi vận dụng thêm kiến thức của tài liệu tham khảo để mở rộng và nâng cao kiến thức cho học sinh (ở những lúc cần thiết). Đồng thời tránh được tình trạng dạy sai kiến thức cho học sinh.
Ví dụ: Dạy bài nước (tiết 55 - Hoá 8)
Cho 1 mẫu kim loại Na nhỏ bằng hạt đậu xanh vào cốc nước.
Nhận xét: Natri phản ứng với nước nóng chảy thành giọt tròn có màu trắng chuyển động nhanh trên mặt nước. mẫu Na tan dần cho đến hết, có khí bay ra phản ứng toả nhiều nhiệt. Dung dịch tạo thành cho quỳ tím vào thấy chuyển sang màu xanh, cho fênol phtalein vào chuyển sang màu đỏ. Làm bay hơi dung dịch thu được ta sẽ được một chất rắn trắng. Các em dự đoán khí đó là khí gì và chất rắn trắng? viết phương trình hoá học
2Na + 2H2Ođ 2NaOH + H2ư
( HS tự xác định khí bay ra trong thí nghiệm là H2, chất rắn trắng thu được sau phản ứng là NaOH)
Giáo viên giới thiệu về hợp chất NaOH và dẫn dắt học sinh định nghĩa về bazơ thông qua hiện tượng mà ta quan sát ở trên. Vậy dung dịch bazơ làm đổi màu quỳ tím thành xanh và fênol thành đỏ.
Như vậy, tóm lại thông qua các thí nghiệm học sinh phải tự suy luận ra sản phẩm tạo thành và viết được các phương trình phản ứng minh hoạ. Đồng thời qua đó các em hình thành nên kiến thức mới.
4. Biến kiến thức của SGK, tài liệu tham khảo thành kiến thức khi truyền thụ cho học sinh, từ đó tôi đã gây cho học sinh một niềm tin vững chắc về kiến thức ở cô, các em thấy cô thầy là thiêng liêng cao cả và giữa giáo viên và học sinh phải có một khoảng cách nhất định về kiến thức nhưng rồi lại được quy tụ tại một điểm.
5. Tiến hành phân loại học sinh thành 4 đối tượng (Giỏi, khá, trung bình, yếu) và tìm hiểu học sinh con thương binh, con liệt sỹ, con mồ côi để trong khi giảng dạy tôi bao quát đủ các đối tượng sao cho tất cả các học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém, học sinh con thương binh liệt sỹ. Vì môn học này học sinh không có điều kiện để học bồi dưỡng buổi chiều như 2 môn văn, toán. Đồng thời thông qua việc phân loại học sinh tôi đã hướng nghiệp cho một số học sinh trong lớp đi vào một số nghề như: Đại học mỏ địa chất, công nhân sản xuất phân bón Đại học Bách khoa (khoa hoá thực phẩm )… Đây là một việc làm rất quan trọng, nó sẽ đáp ứng với mục tiêu giáo dục của nhà trường THCS đó là định hướng nghề cho các em, cụ thể vào năm 2007 - 2008 lớp 9A các em học vào nhóm khá, tôi hướng các em thi vào các trường đại học,như ĐH mỏ địachất, ĐH Bách khoa…Số học sinh trung bình,yếu tôi hướng các em chọn thi vào các trường, ngành nghề phù hợp với năng lực của bản thân , các em có thể làm công nhân trong nhà máy
chế biến dầu mỏ…… Như vậy ngay từ khi học THCS các em đã có ước mơ cho tương lai sau này .
6. Tiến hành soạn bài để tôi xác định hướng trọng tâm của bài dạy và sắp xếp các kiến thức của bài thành một hệ thống kiến thức lôgíc, chặt chẽ theo kiểu dạy học nêu vấn đề và bằng phương pháp thầy thiết kế, trò thi công “Hệ thống câu hỏi phải lôgíc” theo hệ thống kiến thức của bài và ngắn gọn, rõ ràng, phù hợp với 4 đối tượng học sinh để huy động nhiều học sinh làm việc trên lớp (để các em thấy chương trình mà sách giáo khoa đưa ra không có gì là quá tải rất phù hợp).
* Tóm lại: Đối với tôi soạn bài là một hình thức giảng thử để phân bố thời gian cho phù hợp với từng phần kiến thức của bài và để bỏ bớt các ngôn ngữ thừa, các câu hỏi vụng, giúp học sinh hiểu bài một cách chắt lọc, nhẹ nhàng.
Tuy nhiên để tiết học có chiều sâu về mặt kiến thức thì trong mỗi bài dạy giáo viên phải tìm được điểm nhấn của mỗi bài. Từ đó các em khắc sâu được kiến thức và hiểu sâu hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài bengen (Tiết 49 - lớp 9)
Giáo viên cho học sinh giải thích cấu tạo của vòng bengen.
hoặc hoặc
Sỡ dĩ bengen có thể viết được 1 trong 3 công thức trên là do bengen có cấu tạo đặc biệt. Các liên kết π và δ không định sứ tại một chổ mà luân phiên trong vòng bengen, trong đó nguyên tử cácbon ở trạng thái lai hoá sp2, toàn bộ các nguyên tử trong phân tử đều nằm trong cùng một mặt phẳng. Vì vậy khi tham gia phản ứng thế, ta có thể thế ở bất kì vị trí nào trong vòng bengen. Hơn nữa góc liên kết là 1200, độ dài liên kết C - C ngắn hơn so với liên kết đơn C-C trong êtan và dài hơn liên kết đôi C = C trong êtylen. Các liên kết π trong vòng bengen tạo ra hệ khép kín bền vững. Đây chính là nguyên nhân làm cho các liên kết π trong vòng bengen bền hơn các liên kết π trong êtylen và axêtilen . Vì vậy ben zen không làm mất màu dung dịch Br2 và dung dịch thuốc tím (khác với êtilen và axêtilen). Qua đây các em có thể nắm sâu hơn về bản chất của cấu tạo vòng ben zen và từ đó giải thích tại sao ben zen lại có những tính chất như vậy.
Ví dụ : Khi dạy bài : Tính chất hoá học của axit ( Tiết 5 - Lớp 9)
Trong khi làm thí nghiệm giữa axit HCl và bazơ NaOH của các nhóm . Cho quỳ tím vào sản phẩm thu được ta thấy có những trường hợp sau :
* Quỳ tím vẫn màu tím
* Quỳ tím chuyển sang màu xanh
* Quỳ tím chuyển sang màu đỏ
Giải thích kết quả của các nhóm như thế nào? GV cho các em thảo luận nhóm. Điều đó được giải thích là nếu axit và ba zơ tham gia hết (Trường hợp 1), bazơ dư (Trường hợp 2), axit dư ( Trường hợp 3) . Như vậy các em đã giải thích được những hiện tượng quan sát được của thí nghiệm . Nên khi làm phần bài tập có liên quan đến thiếu thừa các em nhập cuộc rất dễ dàng .
Ví dụ1 : Đem 19,6g H2SO4 tác dụng với 12g NaOH . Cho quỳ tím vào sản phẩm thu được ? Theo em màu của giấy quỳ thay đổi như thế nào . Giải thích
Giải : H2SO4 + 2NaOH à Na2SO4 + 2H2O
Số mol H2SO4 tham gia phản ứng là :
n H2SO4 = 19,6/98 = 0,2 mol
Số mol NaOH tham gia phản ứng là :
n NaOH = 12/40 = 0,3 mol
Ta có tỷ lệ : 0,2/1 > 0,3/2 . Điều đó chứng tỏ H2SO4 dư . Nên ta cho giấy quỳ tím vào sản phẩm thu được, giấy quỳ sẽ chuyển sang màu đỏ ( như vậy ví dụ này rơi vào trường hợp 3 )
Ví dụ 2 : Cho 500ml KOH 1M tác dụng với 200ml HCl 2M . Cho quỳ tím vào sản phẩm thu được ? Theo em màu của giấy quỳ thay đổi như thế nào . Giải thích
Giải : HCl + KOH à KCl + H2O
Số mol KOH tham gia phản ứng là :
n KOH = 0,5.1 = 0,5mol
Số mol HCl tham gia phản ứng là :
n HCl = 0,2. 2 = 0,4mol
Ta có tỷ lệ : 0,5/1 > 0,4/1. Điều đó chứng tỏ KOH dư . Nên ta cho giấy quỳ tím vào sản phẩm thu được, giấy quỳ sẽ chuyển sang màu đỏ ( như vậy ví dụ này rơi vào trường hợp 2 )
Ví dụ3 : Đem 2l H2SO4 0,3M tác dụng với 48g NaOH . Cho quỳ tím vào sản phẩm thu được ? Theo em màu của giấy quỳ thay đổi như thế nào . Giải thích.
Giải : H2SO4 + 2NaOH à Na2SO4 + 2H2O
Số mol H2SO4 tham gia phản ứng là :
n H2SO4 = 2.0,3 = 0,6 mol
Số mol NaOH tham gia phản ứng là :
n NaOH = 48/40 = 1,2 mol
Ta có tỷ lệ : 0,6/1 = 1,2/2 . Điều đó chứng tỏ các chất đã tham ra hết không chất nào còn dư và sản phẩm tạo thành là muối trung tính . Nên ta cho giấy quỳ tím vào sản phẩm thu được, giấy quỳ sẽ vẫn tím ( như vậy ví dụ này rơi vào trường hợp 1)
Chính vì thế một lần nữa tôi muốn khẳng định việc tạo ra những điểm nhấn trong mỗi bài dạy là rất quan trọng, tạo ra ấn tượng với các em trong quá trình học và khắc sâu kiến thức cơ bản .
7. Hoá học là một môn khoa học thực nghiệm, từ các thí nghiệm thực hành để giúp học sinh hiểu bài, vì vậy cần thiết tôi chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ hoá chất để làm thí nghiệm, bố trí thí nghiệm không cồng kềnh, mang tính chất thẩm mỹ khoa học thao tác thí nghiệm của giáo viên phải thành thạo, nhẹ nhàng, khéo léo, giáo viên phải làm thử trước để tránh các trường hợp do hoá chất bảo quản không tốt hoặc do bố trí thí nghiệm mà dẫn đến thí nghiệm không thành công, giáo viên phải chuẩn bị để giải thích cho học sinh các tình huống bất trắc xẩy ra khi làm thí nghiệm.
8. Lên lớp giảng bài:
Vào lớp tôi nắm sĩ số học sinh, quan sát phong cảnh Sư phạm của lớp học để chuẩn bị cho học sinh có tư thế tốt để chuẩn bị bước vào tiết học.
- Kiểm tra bài cũ.
- Yêu cầu cần phải kiểm tra được kiến thức trọng tâm của bài, giúp cho học sinh nhớ lại, khắc sâu một lần nữa để vận dụng khi giải quyết bài mới, câu hỏi hoặc bài tập kiểm tra phải rõ ràng phù hợp với 4 đối tượng học sinh (Giỏi, khá, trung bình, yếu) để chống học sinh lười học, hay học vẹt, không kiểm tra nhiều kiến thức với một học sinh. Thực hiện tôi cho học sinh gấp sách vở lại rồi đặt câu hỏi hoặc nêu bài tập cho cả lớp, gọi một học sinh lên bảng, cả lớp làm nháp hoặc theo dõi bạn trả lời, tôi cho 1 học sinh khác nhận xét bổ sung, cuối cùng giáo viên nhận xét, bổ sung và cho điểm học sinh.
Ngoài ra giáo viên có thể đưa ra những câu hỏi để phục vụ cho bài học mới mà không liên quan đến kiến thức của bài học ngay trước đó.
Ví dụ: Khi dạy bài “Tính chất chung của phi kim” (Tiết 30 - lớp 9)
Ta có thể đưa ra các câu hỏi kiểm tra bài cũ như sau:
Câu 1: Nêu tính chất hoá học của kim loại
Câu 2: Nêu tính chất hoá học của ôxi mà em đã được học ở lớp 8. Viết các phương trình phản ứng minh hoạ.
Như vậy có thể thông qua 2 câu hỏi trên mà các em đã hình thành nên tính chất hoá học của phi kim.
* Tác dụng với kim loại tạo thành muối hoặc axít.
* Nhiều phi kim tác dụng với ôxi tạo thành ôxít axít
Hoặc giáo viên có thể đưa ra câu hỏi trong phần kiểm tra bài cũ . Khi dạy bài (Tính chất chung của các phi kim ) như sau :
Em hãy hoàn thành các phương trình phản ứng sau (ghi trên bảng phụ hoặc giấy trong). Và cho biết hoá trị của Fe trong các sản phẩm thu được .
1. 2Fe + 3Cl2 2FeCl3 (Fe hoá trị III)
2. 3Fe + 2O2 Fe3O4 (Fe hoá trị cả II và III)
3. Fe + S FeS (Fe hoá trị II)
Như vậy khi dạy đến phần “Mức độ hoạt động hoá học của Phi kim” giáo viên dựa trên 3 phương trình mà các em đã được làm trong phần kiểm tra bài cũ. Từ đó GV cho các em khái quát được mức độ hoạt động hoá học của các phi kim Cl2, O2, S như sau Cl2 > O2 > S. Như vậy việc hỏi bài cũ rất quan trọng nó vừa giúp các em hình thành kiến thức bài mới và ôn lại kiến thức đã học . Tuy nhiên có một số bài đặc biệt thông qua bài mới ta ôn lại những kiến thức cũ .
- Giảng bài mới (Dạng bài lý thuyết kiểu thực hành) tôi cho học sinh nắm cụ thể các dụng cụ hoá chất cần cho một thí nghiệm, cách làm thí nghiệm giúp các em tự làm thí nghiệm để nghiên cứu quan sát, hướng dẫn cho học sinh dùng các dấu hiệu để nhận biết một phản ứng hoá học xẩy ra (dấu hiệu toả nhiệt hay hơi kết tủa…). Từ đó phát hiện ra hiện tượng của thí nghiệm rồi dùng kiến thức tổng hợp để giải thích các hiện tượng và suy ra kết luận.
Ví dụ: Dạy bài tính chất hoá học của ôxi (O2 + Fe)
- Dụng cụ và hoá chất.
- Tiến hành thí nghiệm.
- Hiện tượng và giải thích.
- Kết luận: 3Fe + 2O2 =to Fe3O4
* Chú ý cần tạo điều kiện để học sinh tự làm thí nghiệm, nghiên cứu hoặc các em được quan sát cụ thể, sờ tận tay để học sinh phát hiện ra hiện tượng thí nghiệm, chống đối học vẹt, chống quan điểm cho rằng vật chất do thượng đế tạo ra, từ đấy gây cho học sinh một niềm tin vào khoa học, giáo dục học sinh chính xác khoa học, tác phong nghiên cứu khoa học, rèn luyện kỹ năng thao tác thí nghiệm, hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa hợp lý.
Ví dụ: Khi dạy bài “Axít axêtíc” lớp 9, tôi đã cho các em tiến hành thí nghiệm của dung dịch axít axêtíc lần lượt vào các ống nghiệm đựng các chất sau: quỳ tím, dung dịch NaOH có phênol phtalein ,CaO, Zn, Na2CO3.
Qua các thí nghiệm xẩy ra, các em tự rút ra nhận xét. Axít axêtíc là một axít hữu cơ có tính chất của một axít. Tuy nhiên axít axêtíc là một axít yếu.
Phương trình hoá học:
CH3COOH(dd) + NaOH(dd) đ CH3COONa(dd) + H2O (l)
2CH3COOH(dd) + Na2CO3 (dd) đ 2CH3COONa(dd) + H2O (l) + CO2 (k)
Các em lại quan sát thí nghiệm phản ứng của rượu êtylíc và axít axêtíc. Để khám ra tính chất đặc biệt giữa axít axêtíc với các axít vô cơ mà ta đã học.
H2SO4 đặc t0
CH3COOH (l) + C2H5OH (l) CH3COOC2H5 (l) + H2O (l)
Hoặc trong khi dạy bài thực hành. Tôi đã chia các em trong lớp theo đơn vị nhóm hoặc tổ (trong mnỗi nhóm như vậy tôi có cho các em cử ra những em nhóm trưởng và thư ký), cho các nhóm đồng thời cùng tiến hành các thí nghiệm theo yêu cầu của sách giáo khoa.
Sau khi các em đã hoàn thành tốt các thí nghiệm, thư ký ghi hiện tượng quan sát được, nhận xét và tiết phương trình hoá học minh hoạ các thí nghiệm của nhóm mình ( nếu có ). Giáo viên chỉ duy nhất làm một nhiệm vụ là đưa các bản giấy trong ghi kết quả của các nhóm,lên máy chiếu hắt , cho các nhóm khác nhận xét để rút ra kết quả chính xác nhất.
Ví dụ : Bài thực hành số 5 ( Tiết 52 –Lớp 8)
Sau khi phát dụng cụ hoá chất cho HS ,GV cần nhắc lại một số điểm trong nội quy phòng thí nghiệm ,đặc biệt là quy tắc đảm bảo an toàn ( Nếu có TN cần vẽ hoặc mô tả các bước tiến hành TN thì GV nên làm phần này trên bảng phụ )
Thí nghiệm 1: Điều chế hiđrô từ axit clo hiđríc (HCl) ,kẽm . Đốt cháy hiđrô trong không khí
Thí nghiệm 2: Thu khí hiđrô bằng cách đẩy không khí
Thí nghiệm 3 : Hiđrô khử đồng (II) ôxít
Các nhóm tiến hành và ghi chép hiện tượng quan sát được ,nhận xét và ghi kết quả thu được của nhóm theo mẫu sau :
TT
HT quan sát
Nhận xét HT
Giải thích HT
Viết PTHH
TN: 1
TN: 2
TN: 3
………………. ( HT : Viết tắt của từ hiện tượng )
Sau đó các nhóm nhận xét lẫn nhau và đưa ra kết quả đúng nhất ( GV nhận xét và cho điểm từng nhóm )
Bước cuối cùng sau khi làm xong thí nghiệm các nhóm phải tự dọn dẹp ,lau chùi sạch sẽ ,thu hồi những hoá chất còn dư và xử lý theo nội quy đặt ra của phòng thí nghiệm .
9. Tạo hứng thú cho HS trong những tiết dạy bằng giáo án điện tử :
Ngày nay, khoa học hiện đại việc áp dụng các công nghệ thông tin vào những tiết học là rất cần thiết và quan trọng. Nó tạo hứng thú cho các em tiếp cận thông tin và khám phá tiết học một cách say mê, nhẹ nhàng và hiệu quả cao. Song không phải bất kì tiết học nào mà chúng ta dạy giáo án điện tử cũng hay cả. Những tiết dạy mang màu sắc của thực tế thường đạt hiệu quả cao hơn trong những tiết dạy giáo án điện tử. Sau đây tôi xin giới thiệu hai bài điển hình mà tôi đã từng soạn và dạy bằng giáo án điện tử trong thời gian qua, mà tôi cảm thấy có hiệu quả.
Một trong những điều mà tôi muốn giới thiệu trong sử dụng giáo án điện tử là giáo viên tạo ra ô chữ để hệ thống lại những kiến thức đã học trong bài giúp các em cũng cố tốt hơn.
Ví dụ: Bài “Dầu mỏ và khí thiên nhiên” Tiết 50 - lớp 9 ở đây tôi xin giới thiệu phần ô chữ mà tôi đã sử dụng trong việc củng cố kiến thức.
Để khám phá cột dọc của bài học hôm nay, chúng ta lần lượt nghin cứu 7 hàng ngang sau đây :
1. Hàng ngang thứ nhất gồm 5 chữ cái: Một trong những tài nguyên quý giá của Việt Nam và nhiều quốc gia khác (Dầu mỏ)
2. Hàng ngang thứ hai gồm 8 chữ cái: Một trong những phương pháp để thu được các sản phẩm chế biến từ dầu mỏ (Chưng cất)
3. Hàng ngang thứ 3 gồm 9 chữ cái: ứng dụng của khí thiên nhiên trong đời sống (Nhiên liệu)
4. Hàng ngang thứ 4 gồm 5 chữ cái: Đây là hình thức khai thác dầu hiện nay (Khoan)
5. Hàng ngang số 5 gồm 4 chữ cái: Một trong những sản phẩm chế biến từ dầu mỏ (Xăng).
6. Hàng ngang số 6 gồm 5 chữ cái: Thành phần chủ yếu của khí thiên nhiên và khí dầu mỏ (Mê tan).
7. Hàng ngang số 7 gồm 11 chữ cái: Một cách nói khác đi của phương pháp Crắc kinh (Bẻ gãy phân tử)
D
ầ
u
M
ỏ
N
G
c
ấ
t
C
H
Ư
N
l
i
ệ
u
H
i
ê
N
K
H
o
a
n
X
ă
n
g
M
Ê
T
a
n
y
p
H
â
n
ẻ
G
ã
B
ử
T
Đến đây giáo viên cho học sinh phát hiện ra hàng dọc của bài hôm nay là “Dầu nặng”.
Giáo viên giới thiệu : Dầu nặng xăng + hỗn hợp khí
Phản ứng này các em đã được học trong bài.
(Lưu ý: Nếu trong quá trình khám phá hàng ngang em nào phát hiện ra cột dọc có thì thể đọc luôn, sau đó ta khám phá những hàng ngang còn lại )
Sau đây là tiết thứ 2: Tiết 51 - Nhiên liệu (lớp 9)
Để khám phá cột dọc của bài học hôm nay, chúng ta lần lượt nghin cứu 7 hàng ngang sau đây :
1. Hàng ngang thứ nhất gồm 8 chữ cái: Một trong những đặc điểm của nhiên liệu khi cháy (Phát sáng).
2. Hàng ngang thứ hai gồm 9 chữ cái: Dựa vào đây người ta có thể phân loai được nhiên liệu. ( Trạng thái )
3. Hàng ngang số 3 gồm 7 chữ cái: Đây là một loại than trẻ nhất được hình thành dưới đáy các đầm lầy ( Than bùn )
4. Hàng ngang số bốn gồm 6 chữ cái: Đây là một loại than được hình thành do thực vật bị vùi lấp dưới đất và phân huỷ hàng triệu năm. (Than mỏ)
5. Hàng ngang số 5 gồm có 2 chữ cái: Đây là một loại nhiên liệu được dùng từ xa xưa (gỗ)
6. Hàng ngang số 6 gồm có 6 chữ cái: Đây là một loại nhiên liệu lỏng dùng làm nhiên liệu (dầu hoả)
7. Hàng ngang số 7 gồm 8 chữ cái: Một hiện tượng của tự nhiên được cảnh báo vào những ngày hanh khô (cháy rừng)
Ô chữ cột dọc của chúng ta bài này là là “Than gầy”, đây là một loại than chiếm trên 90%C có năng suất toả nhiệt lớn được dùng làm nhiên liệu mà các em đã được học trong bài.
A
N
B
ù
N
T
h
G
ỗ
R
ừ
N
G
H
á
y
C
T
S
á
N
G
P
H
á
G
T
H
á
I
R
ạ
N
T
T
H
A
N
M
ỏ
D
ầ
u
H
o
ả
Trò chơi ô chữ còn được tổ chúng tôi khai triển trong các dịp 26-3, dịp 30-4 ; 1-5 với kiến thức về hoá học 8,9 các em tìm ngay ra ô chữ cột dọc là “ Thành lập đoàn” và “ Tiến về sài gòn” được các em tham gia rất nhiệt tình ,chúng tôi có phát phần thưởng cho 5 em làm nhanh và chính xác nhất .
10. Liên hệ thực tế cuộc sống và hiểu biết xã hội :
Trong chương trình sách giáo khoa mới thông thường sau mỗi bài đều có phần “Em có biết” giáo viên nên cho các em đọc trong tiết dạy của mình. Đây là những thông tin rất bổ ích mà các em cần biết để có những kinh nghiệm trong cuộc sống và hiểu biết về thế giới xung quanh mình. Sau đây tôi xin trích một vài thí dụ điển hình.
Ví dụ: Bài Nước (Tiết 55 - lớp 8) các vai thấy được vai trò của nước trong đời sống và sản xuất, chống ô nhiễm nguồn nước, ngoài ra còn một số thông tin sau:
Để có được một tấn sản phẩm, lượng nước cần tiêu thụ như sau: Than cần từ 3 - 5 tấn nước, dầu mỏ từ 30 - 50 tấn nước, giấy gừ 200 - 300 tấn nước, gạo từ 5000 - 10.000 tấn nước, thịt từ 20.000 - 30.000 tấn nước.
Ví dụ: Bài Các ôxít của các bon (Tiết 34- Lớp 9):
* Khí CO có thể gây chết người.
CO được sinh ra từ các lò khí than, đặc biệt là khí ủ bếp than (do bếp không cung cấp đầy đủ khí ôxi cho than cháy). Đã có một số trường hợp tử vong do ủ than trong nhà đóng kín cửa. Đó là do nồng độ khí CO sinh ra từ bếp than ủ trong phòng kín qua mức cho phép, khí CO kết hợp với hêmôglobin trong máu ngăn không cho máu nhận ôxi và cung cấp ôxi cho các tế bào và do đó gây tử vong cho Cần đun than ở nơi thoáng gió. Tuyệt đối không dùng bếp than để sưởi và ủ bếp trong phòng kín.
* Tại sao CO2 được dùng để dập tắt đám cháy.
Khí CO2 nặng hơn không khí và không tác dụng với ôxi nên nó có tác dụng ngăn không cho vật cháy tiếp xúc với không khí. Do đó khí CO2 được dùng để dập tắt đám cháy.
Ngoài ra còn rất nhiều bài viết về phần “em có biết ” rất hay, gv không nên bỏ qua phần này và có thể phân tích thêm cho các em hiểu những điều điệu kỳ có ở xung quanh mình và thêm yêu môn học .
IV. Kết quả:
Sau khi áp dụng đề tài này vào giảng dạy tôi thấy chất lượng học sinh được nâng cao rõ rệt. Các em đã rất hứng thú mỗi khi học. Các em đều nói với tôi rằng nhất định sau này lên cấp 3 chúng em sẽ đi theo ban A.
TT
Số em không yêu thích môn học
Số em xem đó như một môn phụ
Số em yêu thích môn học
Số lượng
3
5
34
Tỷ lệ
7%
12%
81%
Cụ thể là trong năm học vừa qua tại lớp 9A số các em có điểm tổng kết trên 8,0 tại lớp 9A đạt 15 em trong HKI và trong đó có 2 em tham gia học sinh giỏi tỉnh. ( Trên đây tôi lấy ví dụ với lớp 9A, còn đối với các lớp khác kết quả cũng tương tự như vậy .)
C. Kết luận
Qua việc áp dụng đề tài này vào giảng dạy tôi thấy rằng để có được kết quả cao trong quá trình giảng dạy các em trên lớp thì trước hết người thầy phải cần mẫn chịu khó, nhưng mang tính sáng t
File đính kèm:
- Nang cao chat luong hoc cua soc sinh trong gio hoa.doc