Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh đã được đặt ra trong ngành giáo dục từ lâu, cao điểm là từ năm 2001. Thế nhưng cho đến nay ở một số giáo viên sự chuyển biến về phương pháp dạy học chưa được là bao chủ yếu vẫn là thông báo kiến thức định sẵn, cách học thụ động sách vở, vẫn là “Thầy đọc – trò chép”, giáo viên quyết định toàn bộ quá trình dạy học. Học sinh thụ động tiếp thu, ghi nhớ, nhắc lại, dập khuôn. Lối dạy đó có thể làm cho học sinh có thể bắt trước,có thể đạt kết quả cao trong các kỳ thi kiểm tra kiến thức, nhưng lại tỏ ra yếu kém khi phải hoạt động sáng tạo, khi phải giải quyết những vấn đề mới của thực tiễn.
Nếu cứ tiếp tục dạy và học thụ động như thế, giáo dục không thể đáp ứng được yêu cầu mới của xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, sự thách thức trước nguy cơ tụt hậu đang đòi hỏi đổi mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới căn bản về phương pháp dạy học.
32 trang |
Chia sẻ: lephuong6688 | Lượt xem: 792 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu các phương pháp dạy học tích cực trong dạy học Vật lí THCS ở học sinh các lớp 6A, 7B, 8A, 9A trường THCS thị trấn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. phần mở đầu
I. lí do chọn đề tài
Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh đã được đặt ra trong ngành giáo dục từ lâu, cao điểm là từ năm 2001. Thế nhưng cho đến nay ở một số giáo viên sự chuyển biến về phương pháp dạy học chưa được là bao chủ yếu vẫn là thông báo kiến thức định sẵn, cách học thụ động sách vở, vẫn là “Thầy đọc – trò chép”, giáo viên quyết định toàn bộ quá trình dạy học. Học sinh thụ động tiếp thu, ghi nhớ, nhắc lại, dập khuôn. Lối dạy đó có thể làm cho học sinh có thể bắt trước,có thể đạt kết quả cao trong các kỳ thi kiểm tra kiến thức, nhưng lại tỏ ra yếu kém khi phải hoạt động sáng tạo, khi phải giải quyết những vấn đề mới của thực tiễn.
Nếu cứ tiếp tục dạy và học thụ động như thế, giáo dục không thể đáp ứng được yêu cầu mới của xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, sự thách thức trước nguy cơ tụt hậu đang đòi hỏi đổi mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới căn bản về phương pháp dạy học.
Luật giáo dục, điều 24.2 đã ghi “Phương pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; Phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; Bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Khác với các bộ môn khác, Vật Lý là bộ môn khoa học thực nghiệm. Gắn liên với đời sống của con người. Mục đích của việc Dạy – học Vật Lý không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ cho học sinh những kiến thức, kỹ năng Vật Lý mà loài người đã tích lũy đươc, mà còn đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng cho học sinh năng lực suy nghĩ độc lập, không dập khuôn, năng lực sáng tạo, năng lực hành động thực tiễn để tạo ra những kiến thức mới, phương pháp mới, những năng lực giải quyết vấn đề mới nhạy bén, hiệu quả, thiết thực và phù hợp với hiệu quả thực tế.
Muốn đạt được mục đích này trong dạy học Vật Lí thì việc dạy học vật lí phải được tiến hành thông qua các hoạt động của học sinh. Muốn đổi mới cách học thì phải đổi mới cách dạy, đổi mới cách dạy chính là đổi mới phương pháp.
Trong phương pháp dạy học vật lí mới này, vai trò của giáo viên là tạo điều kiện thuân lợi cho học sinh họat động, kích thích hứng thú học tập của học sinh, hướng dẫn tổ chức và giúp đỡ để học sinh có thể thực hiện thành công nhiệm vụ học tập. Tránh làm thay cho học sinh những gì mà học sinh có thể tự lực làm được, rèn luyện cho học sinh làm việc tự lực, trở thành chủ thể của hoạt động nhận thức, tìm tòi khám phá ra cá kiến thức mới, phát triển năng lực trí tuệ.
Để góp phần giải quyết vấn đề trên tôi đã mạnh dạn sưu tầm tài liệu về các phương pháp dạy học tích cực nói chung và phương pháp dạy học vật lý nói riêng, cộng với quá trình giảng dạy ,sự giúp đỡ của đồng nghiệp rồi viết thành đề tài này.
II. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tìm và chọn ra một số phương pháp dạy học tích cực cơ bản, phù hợp đặc trưng của bộ môn Vật Lí THCS, trong đó có sự kết hợp với các phương pháp khác, qua đó giúp bản thân tôi có cơ sở và định hướng tốt và vững hơn khi dạy học vật lí. Ap dụng đề tài này thường xuyên sẽ tạo cho học sinh có thói quen học tập tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo trong hoạt động nhận thức, giúp các em hứng thú hơn khi học vật lí, bước đầu làm quen với bộ môn vật lí thực nghiệm.
Ngoài ra tôi hy vọng đề tài còn là tài liệu tham khảo cho việc dạy vật lí của giáo viên các trường THCS trên địa bàn huyện.
III. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các phương pháp dạy học tích cực trong dạy học vật lí THCS ở học sinh các lớp 6A, 7B, 8A, 9A trường THCS thị trấn.
IV. Phương pháp và nội dung nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu.
- Tham khảo, nghiên cứu tài liệu hướng dẫn về phương pháp dạy học tích cực nói chung và phương pháp dạy học tích trong vật lí nói riêng.
- Tham khảo SGK, SGV, SBT các khối 6,7,8,9.
- áp dụng dạy thử vào giờ dạy trên lớp.
- Tham khảo ý kiến của đồng nghiệp, thăm dò ý kiến của học học sinh sau mỗi giờ dạy để rút kinh nghiệm.
-Tích lũy các giờ dạy trên lớp, dự giờ của đồng nghiệp.
- So sánh chất lượng giờ dạy, lực học của học sinh khi chưa áp dụng đề tài với kkhi đã áp dụng đề tài.
Nội dung nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các phương pháp dạy học tích cực trong dạy học vật lí. Gồm các phương pháp sau đây:
-Phương pháp dạy và học hoạt động nhóm trong dạy học vật lí
-Phương pháp dạy và học đặt và giải quyết vấn đề.
-Phương pháp xử lí thông tin theo mô hình quy nạp
-Phương pháp xử lí thông tin theo mô hình diễn dịch
-Phương pháp xử lí thông tin theo mô hình hợp tác
-Phương pháp xử lí thông tin theo mô hình khảo sát khám phá
-Phương pháp vấn đáp tìm tòi
V. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài áp dụng ở các tiết dạy trên lớp ở trường THCS thị trấn Cành Nàng.
VI. Những đóng góp mới và ý nghĩa lí luận và thực tiễn.
Đề tài đưa ra một số phương pháp dạy học phù hợp với đặc trưng của bộ môn vật lí, qua đó đóng góp cho việc đổi mới phương pháp dạy học vật lí nói riêng trong tình hình hiện nay.
Nhằm tạo cho giáo viên có định hướng tốt hơn trong việc soạn, giảng, chất lượng giờ dạy được nâng cao hơn; phát huy tính tích cực, chủ động , sáng tạo của học sinh, giúp học sinh hiểu bản chất vấn đề và ghi nhớ lâu, chính xác. Học sinh biết làm thí nghiệm, áp dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề vật lí đơn giản, nhờ đó các em thêm yêu học vật lí.
B. Phần nội dung
I. T hực trạng vấn đề
Trên tinh thần đổi mới giáo dục hiện nay việc dạy học bộ môn Vật Lí nói riêng, các môn học khác nói chung đã đổi mới theo phương pháp dạy học tích cực. Phương pháp dạy học tích cực có vai trò quan trọng trong việc phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh. Tính ưu việt của phương pháp dạy học này đã được thừa nhận, được đông đảo anh chị em giáo viên nồng nhiệt hưởng ứng. Song trong thực tế đó cách dạy học truyền thống vẫn còn ăn sâu vào tiềm thức của một số giáo viên, do tính bảo thủ hoặc kém khả năng thích ứng. Đối với một số giáo viên có ý thức vận dụng phương pháp dạy học tích cực nhưng kết quả chưa được như mong đợi, chưa đáp ứng được tinh thần thực sự “đổi mới”. Nguyên nhân của tình trạng trên đựơc thể hiện ở một số điểm sau:
- Một phần giáo viên áp dụng chưa thật hợp lí hoặc máy móc không cải biến hoặc áp dụng chưa thật phù hợp với loại bài dạy, phần dạy. Trong phương pháp cụ thể nào đó giáo viên chưa xác định chính xác các bước đi, giáo viên chưa tận dụng triệt để đồ dùng dạy học, đồ dùng thí ngiệm .
- Trong quá trình dạy giáo viên chưa thực sự là người điều khiển dẫn dắt học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức . Do vậy học sinh chưa được và chưa có thói quen phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo, phát triển tư duy mới.
Kết quả của sự dạy và học đó làm cho giáo viên không có thói quen và kĩ năng trong phương pháp dạy học tích cực còn học sinh học tập chưa trở thành chủ thể của việc tiếp nhận thức kiến thức mới.
Khi chưa áp dụng đề tài vào giảng dạy các lớp ở trường tôi thu được và nhận thấy rằng học sinh tiếp nhận kiến thức thụ động, máy móc, không được phát triển về tư duy tích cực, chủ động ,sáng tạo. Học sinh có thể nhớ và thuộc kiến thức nhưng không hiểu sâu bản chất của kiến thức, vận dụng kiến thức không linh hoạt, nhạy bén, khả năng thực hành của các em chưa cao.
Kết quả cụ thể như sau:
6A
7B
8A
9A
Giỏi
4%
3%
3.5%
4%
Khá
30%
35%
30%
28%
TB
61%
58%
56.5%
58%
Yếu
5%
4%
10%
10%
Phương pháp dạy học quan hệ mật thiết với nội dung và kết quả dạy học, có phương pháp phù hợp với nội dung bài học thì kết quả dạy học sẽ cao. Hiện nay ở bộ môn vật lí đồ dùng thí nghiệm cơ bản đầy đủ, sách giáo khoa biên soan phù hợp với cách dạy mới, cùng với phương pháp dạy học hợp lí là điều kiện cơ bản để đạt được mục tiêu cuả việc dạy học vật lí.
Trước tình hình đó, tôi đưa ra bảy phương pháp dạy học tích cực áp dụng trong dạy học vật lí nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên. Trong từng phương pháp có trình bày nội dung, cách thực hiện và ví dụ minh họa cho phương pháp đó.
II. Một số phương pháp dạy học tích cực trong dạy học vật lí
Phương pháp dạy và học hoạt động nhóm trong dạy học vật lí
- Theo phương pháp này, lớp học được chia thành nhiều nhóm nhỏ. Tùy mục đích yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ định , được duy trì ổn định hoặc thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng nhiệm vụ hoặc nhiệm vụ khác nhau.
-Nhóm tự bầu ra nhóm trưởng. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần việc, như: người lắp ráp thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm, thư kí ghi kết quả, báo cáo kết quả
Trong nhóm, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không được ỷ laị một vài người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vắn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. kết quả làm việc chung của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc phân công mỗi thành viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ của nhóm khá phức tạp.
Cấu tạo của một buổi học vật lí theo nhóm có thể như sau:
Làm việc chung cả lớp:
giáo viên đặt vấn đề bằng cách nêu hiện tượng hoặc làm thí nghiệm, xác định nhiệm vụ
Tổ chức cá nhóm, giao nhiệm vụ, đồ dùng thí nhgiệm (nếu có)
Hướng dẫn cách làm việc theo nhóm
Làm việc theo nhóm
Phân công trong nhóm
Thành viên trong nhóm trao đổi hoặc cùng làm thí nghiệm, thảo luận trong nhóm.
Cử đại diện trình bày kết quả.
Tổng kết trước lớp.
Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả.
Thảo luận chung cả lớp.
Giáo viên tổng kết, nhận xét buổi làm vệc.
Ví dụ về phương pháp theo nhóm nhỏ trong bài:
Thực hành: Nghiệm lại lực đẩy Acsimet
Đ Chuẩn bị: cho mỗi nhóm: 1 lực kế 0- 2.5N, 1 vật nặng bằng nhôm có thể tích 50 cm3 , 1 bình chia độ, nước, 1 giá đỡ, bảng ghi kết quả.
ĐNội dung thực hành
Gv: viết công thức tính độ lớn lực đẩy Ac si met?
Hs: FA = d.V, d là trọng lượng riêng của chất lỏng, V là thể tích phần chất lỏng bị vật chiếm chỗ.
Gv: Vậy độ lớn của lực đẩy Ac si met bằng trọng lượng phần nước bị vật chiếm chỗ. Muốn kiểm chứng độ lớn này cần phải đo đại lượng nào?
Hs: Ta phải đo độ lớn của FA và trọng lượng phần nước bị vật chiếm chỗ.
Gv: Ta đo các đại lượng đó ra sao?
Hs: Thảo luận về phương án đo.
Gv giao nhiệm vụ và hướng dẫn cách làm việc trong nhóm bằng phiếu giao việc.
Phiếu giao việc
1. Đo lực đẩy FA
Đo trọng lượng P của vật trong không khí.
Đo hợp lực F của các lực tác dụng lên vật khi vật chìm trong nước.
FA=
2. Đo trọng lượng của phần nước có thể tích bằng thể tích của vật.
a. Đo thể tích vật nặng, cũng chính là thể tích của phần nước bị vật chiếm chỗ.
Đánh dấu mực nước trong bình khi chưa nhúng vật- vạch 1(V1 )
Đánh dấu mực nước trong bình khi nhúng chìm vật- vạch 2 (V2)
Thể tích vật V = ..
b. Đo trọng lượng của nước có thể tích bằng thể tích của vật
- Dùng lực kế đo trọng lượng của bình khi nước ở vạch 1, P1=. ..
Đổ thêm nước vào bình đến mức 2. Đo trọng lượng của bình ở mức 2, P2= ..
Trọng lượng phần nước bị vật chiếm chỗ: PN = .
HS làm việc theo nhóm và điền kết quả vào mẫu báo cáo thực hành:
Mẫu báo cáo thực hành:
Nghiệm lại lực đẩy Ac si met. (Nhóm..)
1. Kết quả đo FA
Lần đo
P(N)
F(N)
FA= P – F (N)
1
2
3
Kết quả trung bình FA = = .
2.Kết quả đo trọng lượng phần nước có thể tích bằng thể tích của vật
Lần đo
P1(N)
P2(N)
PN= P2-P1(N)
1
2
3
Kết quả trung bình: P= =
4. Nhận xét kết quả đo và rút ra kết luận.
...
Gv yêu cầu các nhóm báo cáo kết quả và thảo luận chung đi đến thống nhất, tổng kết.
Bàn luận:
Phương pháp này giúp các thành viên trong nhóm chia sẽ băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới.Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những điều gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận từ giáo viên.
Thành công của phương pháp này phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của các thành viên trong nhóm, cho nên để thành công ở phương pháp này giáo viên cần:
- Cách đưa vấn đề phải làm cho các thành viên trong nhóm hứng thú và muốn giải quyết.
- Tổ chức và quản lý tốt quá trình làm việc của học sinh.
- Tùy thuộc vào điều kiện lớp học, trình độ học sinh mà giáo viên có những yêu cầu mức độ khác nhau.
- Công việc được giao phải có nội dung rõ ràng, học sinh phải hiểu được nhiệm vụ được giao.Trong hoạt động nhóm cần chú ý đến tư duy tích cực và năng lực làm việc hợp tác của các thành viên.
- Giáo viên tôn trọng ý kiến, kết quả của các nhóm, khuyến khích cho học sinh các nhóm tự báo cáo,đánh giá và nhận xét kết quả.
Phương pháp này bị hạn chế bởi không gian chật hẹp của lớp học, cách bố trí bàn ghế bởi thời gian hạn định của tiết học, tùy từng bài , từng nội dung mà có hay không áp dụng phương phấp này. Trong mỗi tiết học vật lí chỉ nên có từ 1 đến 3 hoạt động nhóm, mỗi hoạt động từ 5- 10 phút.
Thực tế cho thấy có khuynh hướng hình thức lạm dụng , cho rằng hoạt động nhóm là dấu hiệu tiêu biểu nhất của phương pháp dạy học tích cực; hoạt động nhóm càng nhiều thì chứng tỏ phương pháp dạy học càng đổi mới.Do đó không nên lạm dụng phương pháp này và cầnphối hợp cùng các phương pháp khác.
B. Phương pháp dạy và học đặt và giải quyết vấn đề.
Dạy và học đặt và giải quyết vấn đề được hiểu là Gv hoặc Hs tạo tình huống có vấn đề để thu hút học sinh vào quá trình nhận thức tích cực. Cơ sở thực tiễn của phương pháp này là: Trong xã hội phát triển theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết vấn đề hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực đảm bảo cho sự thành đạt trong cuộc sống. Vì vậy tập dượt cho học sinhphát hiện , đặt và giải quyết vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống cá nhân, gia đình và cộng đồng là mục tiêu cơ bản trong dạy học vật lí.
Cấu trúc một bài học (một phần bài học) theo dạy – học giải quyết vấn đề trong dạy học vật li thường như sau:
1. Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức.
a.Tạo tình huống có vấn đề(Gv hoặc học sinh nêu hiên tượng hay làm thí nghiệm)
b. Hs nhận dạng, phát hiện vấn đề nảy sinh.
c. Hs phát biểu vấn đề cần giải quyết.
2.Giải quyết vấn đề đặt ra.
a.Đề xuất cách giải quyết (Hs hoặc Gv)
b. Lập kế hoạch giải quyết.
c. Thực hiện kế hoạch giải quết.
3.Kết luận.
a.Hs thảo luận kết quả và đánh giá.
b.Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra.
c.Phát biểu kết luận.
d. Đề xuất vấn đề mới(nếu có)
Trong D-HĐVGQVĐ có 4 mức độ, nhưng theo tôi nên thực hiện theo mức sau: giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. Hs phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự lực đề xuất các dự đoán hoặc giả thuyết và lựa chọn giải pháp. Hs thực hiện cách giải quyết và cùng Gv đánh giá.
D Ví dụ bài: Sự truyền ánh sáng (phần đường truyền ánh sáng) (vật lí 7)
I. Chuẩn bị:
Cho mỗi nhóm: 1 đèn pin , 2 ống rỗng :một ống cong , một ống thẳng, 3 tấm bìa đục lỗ giống nhau .
Gv : nêu điều kiện để mắt nhìn thấy một vật ?
Hs : khi có ánh sáng truyền từ vật đến mắt .
Gv: nêu vấn đề : vậy ánh sáng truyền từ vật đến mắt đi theo đường nào ?
Hs : cho dự đoán : - Theo đường thẳng
- Theo đường cong
- Theo đường gấp khúc
Gv: muốn trả lời được ta phải làm gì ?
Hs: làm thí nghiệm
Gv: tiến hành TN như thế nào ?
Hs: dùng hai ống rỗng , một ống thẳng
và một ống cong để quan sát bóng đèn
pin đang sáng ; nếu dùng ống cong mà
nhìn thấy bóng đèn thì chứng tỏ ánh
sáng truyền theo đường cong , nếu dùng
ống thẳng mà nhìn thấy bong đèn thì
chứng tỏ ánh sáng truyền theo đường thẳng .
Gv: đưa dụng cụ thí nghiệm cho các nhóm tiến hành thí nghiệm .
Hs: làm thí nghiệm theo nhóm báo cáo kết quả: dùng ống thẳng thì nhìn
thấy bóng đèn pin sáng, chứng tỏ ánh sáng truyền theo đường thẳng.
Gv: có 3 tấm bìa A, B, C có đục lỗ, em hãy dùng 3 tấm bìa này để chứng minh ánh sáng truyền theo đường thẳng?
Hs: bố trí thí nghiệm: đặt đèn pin, 3 tấm bìa song song sao cho mắt nhìn thấy bóng đèn pin sáng, sau đó kiểm tra xem 3 lỗ A,B,C
có thẳng hàng không.
Gv và Hs cùng đánh giá, thảo luận.
Bàn luận:
Phương pháp này nên áp dụng trong những bài mà kiến thức mang tính định tính có thí nghiệm để kiểm trứng vấn đề đưa ra. Trong phương pháp này học sinh vừa nắm đực tri thức mới, vừa nắm được phương pháp chiếm lĩnh tri thức đó, phát triển tư duy tích cực sáng tạo , chuẩn bị được năng lực thích ứng với đời sống xã hội .
Theo tôi phương pháp này cần được cải biến về nội dung theo từng bài dạy và được phối hợp với các phương pháp khác trong mối quan hệ thống nhất với các phương pháp dạy học khác.
C.Phương pháp xử lí thông tin theo mô hình quy nạp
Phương pháp xử lí thông tin theo mô hình quy nạp thường được sử dụng để khám phá ra các khái niệm vật lí mới, các quy tắc vật lí mới, các định luật vật lí mới. Phương pháp này thường có các bước sau:
- Gv làm thí nghiệm hoặc cho Hs tự làm thí nghiệm theo nhóm
- Hs quan sát cẩn thận thí nghiệm rồi từ đó rút ra nhận xét(cá nhân hoặc nhóm Hs nhận xét)
- Các Hs phân tích, đánh giá nhận xét đó.
Gv tiếp tục làm thí nghiệm vật lí thứ hai hoặc cho Hs tiếp tục làm thí nghiệm vật lí thứ hai theo nhóm.
Hs quan sát cẩn thận thí ngnhiệm thứ hai từ đó thừa nhận hay bác bỏ nhận xét ban đầu, tiến tới phát hiện ra kiến thức mới.
Ví dụ khi dạy bài: sự nở vì nhiệt của chất khí (vật lí 6)
Gv có thể tiến hành như sau:
* Chuẩn bị:
- Một quả bóng bàn bẹp, một quả bóng bàn bẹp có lổ thủng.
5 bộ thí nghiệm như hình 20.2 SGK
Một bình cầu cắm ống thủy tinh dài, một chậu đựng nước màu, giá thí nghiệm (hình 20.3 SGK)
Phích nước nóng, ca đựng nước, bao diêm, đèn cồn, nước đá.
Phiếu học tập
Bài: sự nở vì nhiệt của chất khí
Họ và tên:
Lớp:.. Trường:..
1. Vì sao quả bóng bàn bị bẹp phồng trở lại khi ngúng vào nước nóng?
Dự đoán nguyên nhân
..
2. Trong thí nghiệm kiểm tra sự nở vì nhiệt của chất khí của nhóm em ta phải kiểm tra điều gì?
- Ta làm những động tác gì để tiến hành thí nghiệm kiểm tra?
+ Đặt giọt nước màu vào ống thủy tinh để làm gì?...
+ Đấnh dấu vị trí giọt nước lúc.
+ Làm nóng bình khí bằng cách
+ đánh dấu vị trí giọt nước lúc..
+ Làm lạnh bình khí bằng cách
3. Quan sát thí nghiệm
- Khi áp tay vào bình, giọt nước màu trong ống thủy tinh sẽ ra sao?
- Đặt bình khí thủy tinh vào nước lạnh, giọt nước màu sẽ ra sao?
- Tại sao thể tích không khí trong bình cầu lại tăng lên khi ta áp tay nóng vào bình?
Ta có kết luận gì về chất khí khi nóng lên, lạnh đi?
Chất khíkhi nóng lên, co lại khi..
Vận dụng
a. Giải thích tại sao quả bóng bàn bị bẹp, nhúng vào nước nóng có thể phồng lên?..
Trong thí nghiệm về bình nóng – lạnh (hình 20.3 SGK)
Tại sao khi nguội đi, nước dâng lên trong ống thủy tinh?.
..
Nhìn vào nước trong ống thủy tinh ta biết trời nóng hay lạnh?
..
Mực nước trong ống thủy tinh dâng cao thêm, chứng tỏ trờivì.
Mực nước trong ống thủy tinh tụt xuống, chứng tỏ trời.vì
hoạt động 1: phát hiện vấn đề của bài học. Dự đoán về nguyên nhân làm cho quả bóng bàn phồng lên.
GV đưa ra 1 quả bóng bàn còn mới, bẹp, nhưng chưa thủng cho HS quan sát rồi nhúng vào nước nóng.
HS quan sát vấn đề bài học.
HS quan sát, quả bóng bàn bẹp nhúng vào nước nóng rồi phồng trở lại.
GV: Quả bóng bàn bẹp nhúng vào nước nóng rồi phồng trở lại, vì sao?
HS: Dự đoán về nguyên nhân làm quả bóng bàn phồng lên, ghi vào phiếu học tập câu 1.
HS trao đổi trên lớp:
Do gặp gặp nóng, vỏ nhựa nở ra.
Do gặp nóng, không khí trong quả bóng nở ra làm bóng phồng lên
GV giúp HS loại trừ dần và đi đến dự đoấn: khi gặp nóng, không khí trong quả bóng nở ra làm bóng phồng lên.
GV lấy ra 1 quả bóng bàn bẹp nhưng bị thủng nhúng vào nước nóng, yêu cầu HS dự đoán và sau đó làm thí nghiệm kiểm chứng: cho 1 quả bóng bàn bẹp nhưng bị thủng nhúng vào nước nóng.
HS quan sát rồi nhận xét:
Quả bóng bàn bị thủng thì không phồng lên, chỉ có bọt khí xuất hiện trong nước.
Trong quả bóng có không khí.
Quả bóng phồng lên không phải vì nhựa nở ra mà do không khí trong quả bóng nở ra.
Hoạt động 2: Dự đoán, đề xuất và thực hiện thí nghiệm kiểm tra dự đoán về sự nở vì nhiệt của chất khí
GV: Ta nói khi gặp nóng không khí trong quả bóng nở ra. Sự nở của không khí thể hiện như thế nào? từ dự đoán suy ra một điều có thể kiểm tra được.
HS: không khí nở ra thì thể tích tăng lên. Nhìn vào thể tích khí tăng lên, ta biết được chất khí nở ra.
GV: câu hỏi 1: Có đúng là khi gặp không khí thì chất khí nở ra không? Các em hãy suy nghĩ xem làm thí nghiệm như thế nào để kiểm tra được điều đó?
GV: Hướng dẫn HS phân tích để đi đến phương án tốt nhất là dùng giọt nước màu để giới hạn thể tích khí trong bình. Giọt nước linh động nên cũng dễ quan sát.
Đề xuất và thực hiện phương án kiểm tra dự đoán.
Hs: Trao đổi nhóm, đề xuất các thí nghiệm kiểm tra.
nút bình khí lại, hơ nóng, nút bật ra.
Cắm một vòi cao su qua nút bình khí, luồn đầu vòi vào nước, hơ nóng bình, bọt khí nổi lên trong nước.
- Cắm ống thủy tinh qua nút bình khí, dùng giọt
nước màu để giới hạn thể tích khí.
HS trao đổi trong nhóm thống nhất phương án
dùng bình khí có giọt nước màu (hình vẽ) và
làm thí nghiệm kiểm tra. Các em có thể đưa
ra và thực hiện các cách làm nóng khác như:
áp tay vào bình, hơ nóng bằng que diêm,
bằng bóng đèn điện, bằng nước ấm.
Quan sát và đánh dấu vị trí giọt nước trước
và sau khi làm nóng. Ghi vào phiếu học tập câu 2.
Gv nêu câu hỏi: khi gặp lạnh không khí có nở ra không? Các em hãy làm thí nghiệm để kiểm tra xem?
Hs:- Trao đổi nhóm, đề xuất các phương án cho bình vào nước lạnh, tỉ lạnh nước đá. áp tay vào bình rồi buông tay ra khỏi bình.
- Quan sát và đánh dấu vị trí giọt nước trước và sau khi làm lạnh.
HS: Đại diện nhóm thay nhau phát biểu trên lớp, nói rõ các phương án thí nghiệm mà nhóm đề xuất, TN được thực hiện, các kết quả và nhận xét của nhóm.
HS rút ra nhận xét: Chất khí nở ra khi nóng lên, co lại khi lạnh đi.
GV: yêu cầu đại diện nhóm lên trình bày công việc của nhóm.
Gv yêu cầu một vài HS nhắc lại nhân xét và ghi kết luận:”chất khí nở ra khi nóng lên, co lại khi lạnh đi”.
HS:- Ghi vào phiếu học tập lời giải thích: khi gặp nóng, không khí trong quả bóng nở ra, làm cho quả bóng phồng lên.
Phát biểu trên lớp, ghi vào phiếu học tập.
Khi lạnh đi, không khí trong bình co lại do đó
nước màu dâng lên trong ống.
HS: - Mực nước dâng cao là trời lạnh, vì trời lạnh,
không khí trong bình co lại, nước dâng lên.
Mực nước tụt xuống là trời nóng, vì trời nóng,
không khí trong bình nở ra, đẩy nước tụt xuống.
Hoạt động 3: Vận dụng và cũng cố kiến thức
Gv:- Yêu cầu HS khẳng định lại lời giải thích tại sao
quả bóng bàn bị bẹp nhúng vào nước nóng lai có thể
phồng lên (dành cho HS yếu).
Gv làm thí nghiệm biểu diễn dụng cụ đo mức nóng,
lạnh của Galilê (hơ nóng, lật ngược cho đầu ống thủy
tinh nhúng vào chậu nước màu). Hs quan sát và giải thích.
Gv: Nhìn vào mực nước trong ống ta biết được trời nóng hay lạnh.
Nhìn vào mực nước dâng cao, trời nong hay lạnh? Vì sao?
Nhìn vào mực nước tụt xuống, trời nóng hay lạnh? Vì sao?
Ghi chú:
Phương án dạy bài này tuy có khác SGK một chút, tuy nhiên về mục tiêu bài học cơ bản khônng thay đổi. ở đây ta chỉ muốn làm rõ mục tiêu về việc chau rồi, luyện tập cho Hs quen dần với phương pháp nghiên cứu phổ biến trong vật lí: phương pháp thực nghiệm. Trong đó khâu dự đoán và đề xuất phương án thí nghiệm kiểm tra được làm nổi rõ hơn. ta không yêu cầu Hs dự đoán đúng mà yêu cầu Hs biết tạo ra các dự đoán, các đề xuất một cách mạnh dạn, tự tin, không sợ sai.
Phương pháp này quan tâm đến việc cho Hs hoạt động theo nhóm, đặc trưng của phương pháp này là thu lượm và khai thác thông tin từ thí nghiệm vật lí . Điểm mấu chốt khi thực hiện phương pháp này là Gv phải kích thích HS hoạt động thực sự : Hs phải quan sát thí nghiệm của thầy giáo hoặc bắt tay vào làm thí nghiệm, Hs phải suy nghĩ về các thông tin thu lượm được từ thí nghiệm, Hs phải tích cực thảo luận với các bạn trong nhóm và cùng lớp về các nhận xét đó, từ đó khám phá ra kiến thức vật lí mới.
D. Phương pháp xử lí thông tin theo mô hình diễn dịch
Theo phương pháp này thì trên cơ sở các kiến thức và thông tin đã biết của Hs mà GV điều khiển, dẫn dắt Hs suy luận ra các quy tắc mới, các mối liên hệ mới.
phương pháp này nên áp dụng cho các bài dạy mà kiến thức mang tính suy luận định lượng.
Ví dụ: Bài: đoạn mạch song song
Hoạt động: Tìm tòi công thức tính điện trở tương đương (vật lí 9)
M N Hình 1
R2
Gv: Trong mạch điện hình1, hai điện trở R1, R2 đã được thay thế bằng một điện trở duy nhất R.
Nếu cường độ dòng điện trong mạch chính vẫn dữ nguyên như trước thì R được gọi là điện trở tương đương của R1và R2.
M R N
GV: các em hãy suy nghĩ từ các đã có tìm ra một công thức liên hệ R1, R2 và R. Cho HS trao đổi trong từng nhóm. Mỗi nhóm làm việc 5 phút.
Đại diện nhóm trình bày:
Nhóm1:Ta có: I1 = , I2 =
Nhóm 2: Ta cũng có I = UMN/R, vì khi thay R1 và R2 bằng R thì cường độ dòng điện qua R vẫn là I.
Gv: Có thể tiếp tục như thế nào để tìm ra công thức liên hệ R1, R2và R?
Nhóm 3: Ta thay thế các biểu thức vừa tím thấy của I, I1, I2 vào trong công thức I = I1 + I2 ta sẽ có: UMN/R = U1/R1
File đính kèm:
- sang kkn- thanh.doc