Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, vấn đề nghèo khổ xuất hiện, tồn tại và là một thách thức lớn đối với tất cả các quốc gia, khu vực, thậm chí trở thành vấn đề toàn cầu. Vì thế cuộc đấu tranh chống đói nghèo cũng là một trong những cuộc đấu tranh lâu dài và khó khăn, gian khổ nhất đối với hầu hết các dân tộc trên toàn thế giới. Trong những thập niên gần đây, nhờ lỗ lực của các nước và các tổ chức quốc tế, công cuộc xoá đói giảm nghèo đã thu được những kết quả đáng kể. Trong vòng 1/4 thế kỷ, từ năm 1981 đến năm 2005 số người nghèo trên thế giới đã giảm từ 1,9 tỉ người xuống còn 1,4 tỉ người. Mức thu nhập được xếp vào mức nghèo khổ đã nâng từ 1USD/ngày lên 1,25 USD/ngày. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) tại các nước đang phát triển, tỉ lệ dân số có thu nhập dưới 1,25 USD/ngày đã giảm một nửa, từ 52% năm 1981 xuống còn 21,7% vào năm 2005. Tuy nhiên con số này vẫn cao hơn dự kiến (985 triệu người), đáng chú ý là có sự chênh lệch khá lớn về tỉ lệ nghèo giữa các quốc gia và khu vực.
27 trang |
Chia sẻ: lephuong6688 | Lượt xem: 759 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu vấn đề nghèo và giảm nghèo ở tỉnh Lai Châu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, vấn đề nghèo khổ xuất hiện, tồn tại và là một thách thức lớn đối với tất cả các quốc gia, khu vực, thậm chí trở thành vấn đề toàn cầu. Vì thế cuộc đấu tranh chống đói nghèo cũng là một trong những cuộc đấu tranh lâu dài và khó khăn, gian khổ nhất đối với hầu hết các dân tộc trên toàn thế giới. Trong những thập niên gần đây, nhờ lỗ lực của các nước và các tổ chức quốc tế, công cuộc xoá đói giảm nghèo đã thu được những kết quả đáng kể. Trong vòng 1/4 thế kỷ, từ năm 1981 đến năm 2005 số người nghèo trên thế giới đã giảm từ 1,9 tỉ người xuống còn 1,4 tỉ người. Mức thu nhập được xếp vào mức nghèo khổ đã nâng từ 1USD/ngày lên 1,25 USD/ngày. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) tại các nước đang phát triển, tỉ lệ dân số có thu nhập dưới 1,25 USD/ngày đã giảm một nửa, từ 52% năm 1981 xuống còn 21,7% vào năm 2005. Tuy nhiên con số này vẫn cao hơn dự kiến (985 triệu người), đáng chú ý là có sự chênh lệch khá lớn về tỉ lệ nghèo giữa các quốc gia và khu vực.
Sau 25 năm đổi mới, kinh tế Việt Nam có mức tăng trưởng khá và tương đối ổn định. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước bình quân hàng năm trong thời kỳ 2001 - 2010 đạt 7,2%, GDP bình quân đầu người năm 2010 ước khoảng 1.200 USD.Với mức này, Việt Nam chuyển vị trí từ nhóm nước kém phát triển sang nhóm nước phát triển trung bình có mức thu nhập thấp. Tỉ lệ hộ nghèo đã giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 14,5% năm 2008. Tuy nhiên nền kinh tế thị trường đang làm cho sự phân hoá giàu nghèo tăng lên. Đặc biệt một bộ phận dân cư sống chủ yếu ở các vùng nông thôn, vùng dân tộc miền núi có tỉ lệ nghèo cao và hầu như bị tách khỏi tiến trình đổi mới và tăng trưởng kinh tế của đất nước. Năm 2010, tỉ lệ hộ nghèo ở vùng Tây Bắc vẫn chiếm 39,46%, Tây Nguyên 25,48% và trở thành hai địa bàn có tỉ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước.
Lai Châu là tỉnh vùng cao - biên giới thuộc tiểu vùng Tây Bắc. Những năm gần đây, mặc dù tỉnh đã đạt được một số kết quả trong công tác giảm nghèo nhưng tốc độ giảm nghèo chậm, đặc biệt nguy cơ tái nghèo còn rất cao. Lai Châu vẫn là một trong những tỉnh có tỉ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước, với con số là 46,78% năm 2010.
Nhận thức được vấn đề nêu trên, chúng tôi đã chọn đề tài "Nghiên cứu vấn đề nghèo và giảm nghèo ở tỉnh Lai Châu" nhằm tìm hiểu về thực trạng, nguyên nhân nghèo khổ của người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp giảm nhanh đói nghèo một cách bền vững.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu: Vận dụng các nghiên cứu lý luận và thực tiễn về nghèo và giảm nghèo để phân tích thực trạng, nguyên nhân nghèo ở Lai Châu. Từ đó đề xuất các giải pháp giảm nghèo theo hướng bền vững phù hợp hoàn cảnh của địa phương.
2.2. Nhiệm vụ: Để hoàn thành mục tiêu trên cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Tổng quan có chọn lọc các vấn đề lý luận và thực tiễn về nghèo và giảm nghèo, từ đó vận dụng vào nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
- Tìm hiểu hiện trạng và nguyên nhân nghèo ở tỉnh Lai Châu.
- Đề xuất các giải pháp giảm nghèo bền vững ở tỉnh Lai Châu đến năm 2015 và tầm nhìn tới năm 2020.
3. Giới hạn của đề tài
- Về nội dung: Đề tài tập trung tìm hiểu, phân tích hiện trạng nghèo và giảm nghèo ở Lai Châu dựa trên hệ thống chỉ tiêu cơ bản về đói nghèo: Chỉ tiêu thu nhập, chỉ tiêu về y tế - chăm sóc sức khoẻ, chỉ tiêu về giáo dục, các chỉ tiêu khác như nhà ở, điện nước sinh hoạt; nguyên nhân và các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập và nghèo đói, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản giúp người dân xoá đói giảm nghèo.
- Về thời gian: Tập trung nghiên cứu hiện trạng nghèo và giảm nghèo dựa trên các số liệu sơ cấp trong khoảng thời gian từ năm 2004 - 2010 (từ khi tỉnh Lai Châu được chia tách thành 2 tỉnh là tỉnh Lai Châu (mới) và tỉnh Điện Biên).
- Về lãnh thổ: gồm toàn bộ tỉnh Lai Châu với 6 huyện và 1 thị xã.
4. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Vấn đề đói nghèo và giảm đói nghèo từ lâu là mối quan tâm của hầu hết các nước trên thế giới. Vì vậy nó được nhiều tổ chức và các nhà nghiên cứu chú ý.
Hằng năm Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, ... thường công bố các nghiên cứu về tình trạng đói nghèo trên thế giới trong đó có Việt Nam. Năm 2000, WB chính thức công bố "Báo cáo về tình hình phát triển thế giới - tấn công nghèo đói" ở tầm vĩ mô. Ngoài thông tin về số lượng người nghèo trên thế giới, báo cáo thể hiện những luận điểm, cách tiếp cận, đánh giá trên nhiều phương diện của đói nghèo, nâng vấn đề đói nghèo trở thành vấn đề cấp thiết của nhân loại.
Từ những năm đầu của thập niên 90, vấn đề nghèo và giảm nghèo được quan tâm cả trên phương diện nghiên cứu lí luận, nhận thức và triển khai hành động trong thực tiễn. Những cuộc hội thảo khoa học và nghiên cứu thực tế do các cơ quan nghiên cứu thuộc trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (Bộ BLĐTBXH), các tổ chức quốc tế ở Việt Nam... đã dần phác hoạ bức tranh toàn cảnh về nghèo đói ở Việt Nam. "Việt Nam đánh giá đói nghèo và chiến lược" của WB vào tháng 1/1995 đã xem xét tình trạng nghèo đói của cả nước ta trong bối cảnh kinh tế - xã hội khi vừa kết thúc chiến tranh và tiến hành đổi mới.
Đánh giá tổng quan và diễn biến đói nghèo của nước ta thể hiện rõ thông qua Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam "Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2000 - Tấn công nghèo đói". Những nghiên cứu cho thấy rõ, đói nghèo là vấn đề nhức nhối trong xã hội. Báo cáo đặc biệt hữu ích khi đưa cách tiếp cận để giải quyết nghèo khổ bền vững với 3 trụ cột; tạo cơ hội, đảm bảo sự bình đẳng, giảm bớt nguy cơ bị tổn thương. Tài liệu này cung cấp nguồn tư liệu phong phú liên quan đến giảm nghèo rất hữu ích cho người nghiên cứu.
"Nghèo - Báo cáo Phát triển Việt Nam 2004". Đánh giá chi tiết các giải pháp vĩ mô giảm nghèo ở Việt Nam. Báo cáo đã chỉ ra giảm nghèo ở Việt Nam đứng trước nhiều khó khăn, xuất phát từ chính sách và tăng trưởng kinh tế. Báo cáo khuyến nghị trong giảm nghèo cần chú trọng nhiều hơn đến giảm nghèo có sự tham gia của người dân, trong các chính sách công, đồng thời cũng cho người đọc cái nhìn tổng quan về nghèo đói của Việt Nam so sánh với các nước khác, tính xác thực của số liệu giảm nghèo ở Việt Nam.
Trong nghiên cứu "Giảm nghèo và rừng ở Việt Nam" năm 2004, tác giả William D. Sunderlin và Huỳnh Thu Ba đi tìm mối quan hệ giữa rừng và giảm nghèo, những tác động tích cực của rừng đến giảm nghèo là không phủ nhận, tuy nhiên nghiên cứu chưa đánh giá cụ thể tác động của rừng đến giảm nghèo ở mức độ nào. Nghiên cứu là tài liệu mở để người tìm hiểu có cái nhìn đa chiều về giảm nghèo và rừng ở Việt Nam.
Trong khuôn khổ dự án hợp tác Việt Nam - Ca na đa "Một số vấn đề giảm nghèo ở các dân tộc thiểu số Việt Nam" năm 2003. TS. Bùi Minh Đạo phân tích khá chi tiết, hiện trạng đói nghèo ở vùng dân tộc thiểu số. Đồng thời tác giả đề cập đến những quan điểm, giảm nghèo đối với các vùng dân tộc thiểu số. Cuốn sách sẽ giúp ích nhiều cho người nghiên cứu và cán bộ giảm nghèo với những kinh nghiệm nghiên cứu đói nghèo và giải pháp giảm nghèo hiệu quả ở vùng dân tộc.
" Giáo trình Kinh tế phát triển" GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng năm 2006 bàn nhiều về vấn đề mối quan hệ giữa kinh tế và phát triển. Trong cuốn sách chỉ có 2 chương đề cấp đến nghèo khổ, nhưng tác giả đưa ra khá chi tiết về lý luận, cách tiếp cận, cách đánh giá nghèo khổ, bất bình đẳng trong xã hội dựa vào các chỉ số khác nhau, đề cập phương pháp giảm nghèo hiệu quả.
Năm 2010 nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam công bố "Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ 2010 - Việt Nam 2/3 chặng đường thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, hướng tới năm 2015". Báo cáo đã đánh giá những thành tựu Việt Nam đạt được trong mục tiêu xoá bỏ tình trạng nghèo cùng cực, thiếu đói. Báo cáo cũng chỉ ra thách thức công cuộc xoá đói giảm nghèo thời gian tới. Đây là tài liệu mang tính pháp lý cao, tác giả sử dụng làm tài liệu quan trọng trong luận văn của mình.
Trong luận văn thạc sĩ "Nghèo và vấn đề giảm nghèo ở tỉnh Hoà Bình" năm 2010 tác giả Phạm Thị Thu Hằng đã phân tích cụ thể bức tranh toàn cảnh nghèo khổ tỉnh Hoà Bình, tuy nhiên phần cơ sở lý luận tác giả tìm hiểu còn hạn chế, tính đặc thù trong quan điểm và phương pháp giảm nghèo ở địa phương chưa được làm rõ.
Tại Lai Châu, nghèo đói là vấn đề được các cấp, các ngành quan tâm do đặc trưng của một tỉnh vùng cao có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Nhiều tài liệu, báo cáo của các cơ quan, ban ngành như Sở LĐTBXH, ban Dân tộc - tôn giáo, cục thống kê kỷ yếu hội đồng nhân Tỉnh các nhiệm kỳ đều có đề cập vấn đề này.
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm
- Quan điểm tổng hợp - lãnh thổ: Các chỉ tiêu về nghèo đói có mối quan hệ qua lại với nhau và chịu tác động của nhiều yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội. Tuỳ thuộc vào sức ảnh hưởng của từng yếu tố mà nghèo đói diễn ra với mức độ khác nhau, mặt khác chính nghèo đói tác động ngược trở lại, kìm hãm sự phát triển của quốc gia, vùng, tiểu vùng. Chính vì vậy nghiên cứu vấn đề đói nghèo ở Lai Châu cần đặt trong mối quan hệ tác động qua lại các đối tượng địa bàn nghiên cứu, bên cạnh đó cần đặt trong bối cảnh chung vùng Tây Bắc và cả nước để vấn đề nghiên cứu được xem xét toàn diện và khách quan.
- Quan điểm hệ thống: Đói nghèo trong phạm vi một tỉnh được xem như là một cấu trúc trong mối quan hệ, hệ thống đói nghèo ở phạm vi cấp vùng (vùng Tây Bắc) và cấp quốc gia, toàn cầu. Bản thân vấn đề đói nghèo của tỉnh Lai Châu lại được chia thành hệ thống nhỏ hơn là cấp huyện, xã. Vì vậy khi nghiên cứu đói nghèo tỉnh Lai Châu cần tìm hiểu sự tác động qua lại trong một hệ thống và giữa các hệ thống với nhau.
- Quan điểm lịch sử - viễn cảnh: Đói nghèo là hiện tượng xã hội phát sinh và tồn tại trong một thời gian nhất định, tuỳ theo từng thời kỳ các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo và mức độ đói nghèo khác nhau. Theo quan điểm lịch sử khi xem xét hiện tượng đói nghèo, nghiên cứu trong một thời gian liên tục từ quá đến hiện tại - tương lai, dự báo sự phát triển của hiện tượng.
- Quan điểm phát triển bền vững: Đói nghèo đã và đang là một hiện tượng hiện tồn và phổ biến trên khắp thế giới, nguy cơ tái nghèo đặc biệt là của các dân tộc thiểu số rất cao. Do đó nghiên cứu xoá đói, giảm nghèo cần trên quan điểm bền vững hạn chế đến mức thấp nhất nguy cơ tái nghèo trên cơ sở bảo tồn, giữ gìn, phát huy văn hoá truyền thống, tri thức bản địa các tộc người, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường.
- Quan điểm xã hội học: Quan điểm xã hội học giúp đề tài nhìn nhận và đánh giá tác động của các chính sách xã hội của tỉnh Lai Châu đến giảm nghèo và ý nghĩa của nó trong việc cải thiện và nâng cao mức sống của người dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập, xử lí tài liệu, số liệu: Sử dụng phương pháp này trong việc thu thập thông tin, xử lí các số liệu, tài liệu khác nhau như: các văn kiện, nghị quyết Đảng bộ các cấp; các sách, tài liệu nghiên cứu lí luận về đói nghèo, các tài liệu thống kê Trung ương và cấp tỉnh, các bản đồ, biểu đồ, các số liệu, tài liệu có được từ khảo sát thực địa liên quan tới đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Sử dụng để phân tích các số liệu, tài liệu thu thập được trên cơ sở đó, tổng hợp khái quát hoá rút ra các kết luận, các nhận định khoa học, thành lập các bản đồ, biểu đồ phục vụ mục đích nghiên cứu tình trạng nghèo và giảm nghèo ở Lai Châu.
- Phương pháp khảo sát thực địa: Được tiến hành theo một số tuyến và điểm trên địa bản tỉnh Lai Châu nhằm kiểm tra đánh giá và thu thập bổ sung các tư liệu, số liệu, hình ảnh về thực trạng nghèo và giảm nghèo của tỉnh.
- Phương pháp bản đồ, biểu đồ và ứng dụng CNTT: Là phương pháp và cũng là công cụ quan trọng trong nghiên cứu Địa lý. Các bản đồ là những tài liệu tham khảo và cũng là sản phẩm của quá trình nghiên cứu. Các biểu đồ là hình ảnh trực quan sinh động được xây dựng trên cơ sở các bảng số liệu. Sử dụng CNTT nhằm để xây dựng các bản đồ, lược đồ, sơ đồ và biểu đồ liên quan tới hiện trạng và sự phân hóa và nguyên nhân đói nghèo trên địa bàn nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của luận văn
Tổng quan và bổ xung cơ sở lý luận và thực tiễn về nghèo, giảm nghèo trên thế giới và Việt Nam để vận dụng nghiên cưú giảm nghèo vào địa bàn tỉnh Lai Châu.
Đánh giá ảnh hưởng của tự nhiên, KT - XH đến mức sống dân cư tỉnh Lai Châu. Nghiên cứu thực trạng và sự phân hoá nghèo khổ của tỉnh Lai Châu.
Tìm hiểu những nguyên và đề xuất một số giải pháp giảm nghèo bền vững trên địa bàn Tỉnh.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận. Nội dung gồm 3 chương:
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGHÈO VÀ GIẢM NGHÈO
Chương 2. THỰC TRẠNG NGHÈO VÀ GIẢM NGHÈO Ở TỈNH LAI CHÂU
Chương 3. NHỮNG GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO Ở TỈNH LAI CHÂU
NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN VỀ NGHÈO VÀ GIẢM NGHÈO
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan niệm, phương pháp tiếp cận và tiêu chí đánh giá đói nghèo trên thế giới
1.1.1.1. Quan niệm đói nghèo
a. Tại hội nghị về chống nghèo đói do Uỷ ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Thái Lan năm 1993, các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cao cho rằng.
"Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận".[21]
Khái niệm nghèo đói này bao gồm 3 khía cạnh: i. Nhu cầu cơ bản của con người bao gồm: Ăn ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại và giao tiếp xã hội. ii. Nghèo thay đổi theo thời gian: Thước đo nghèo khổ sẽ thay đổi theo thời gian; khi kinh tế càng phát triển thì nhu cầu cơ bản của con người cũng sẽ thay đổi theo xu hướng ngày một cao hơn. iii. Nghèo thay đổi theo không gian: Thông qua định nghĩa này cũng chỉ cho chúng ta thấy sẽ không có chuẩn nghèo chung cho tất cả nước, vì nó phụ thuộc vào sự phát triển KT - XH và các yếu tố văn hoá của từng quốc gia, từng vùng.
b. Tại hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen, Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn về nghèo như sau: "Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1 đô la (USD) mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại" [21].
c. Trong "Báo cáo về tình hình phát triển thế giới - Tấn công nghèo đói, năm 2000, WB thừa nhận quan điểm truyền thống hiện nay về đói nghèo: Đói nghèo "không chỉ bao hàm sự khốn cùng về vật chất (được đo lường theo một khái niệm thích hợp về thu nhập hoặc tiêu dùng) mà còn là sự hưởng thụ thiếu thốn về giáo dục và y tế". Báo cáo đã mở rộng quan niệm về đói nghèo khi tính đến cả nguy cơ dễ bị tổn thương, dễ gặp rủi ro của người nghèo. Báo cáo nêu bật "nghèo có nghĩa là không có nhà cửa, quần áo, ốm đau và không ai chăm sóc, mù chữ và không được đến trường". Báo cáo chỉ ra "người nghèo đặc biệt dễ bị tổn thương trước những sự biểu hiện bất lợi nằm ngoài khả năng kiểm soát của họ. Họ thường bị các thể chế của nhà nước và xã hội đối xử tàn tệ, bị gạt ra rìa và không có tiếng nói quyền lực trong các thể chế đó".
d. Để đánh giá rõ hơn mức độ nghèo, người ta chia nghèo thành 2 loại: Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
* Nghèo tuyệt đối (nghèo thu nhập): Đo lường mức chi tiêu cần thiết để đảm bảo một người có thể mua được một lượng lương thực, thực phẩm tương đương 2100 - 2300 kcalo/người/ngày. Mức nghèo tuyệt đối là thước đo dễ lượng hoá để mô tả tình trạng đói nghèo.
* Khái niệm nghèo tương đối được Robert Mc Namara - nguyên Tổng giám đốc WB định nghĩa "Nghèo ở mức độ tương đối... là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo tương đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt qua sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta".
Mức nghèo tuyệt đối có phương pháp tính toán riêng nên ranh giới nghèo tuyệt đối được xác lập cụ thể. Ngược lại, ranh giới của nghèo tương đối rất khó xác định bởi không có một tiêu chuẩn chung áp dụng. Nó phụ thuộc chủ yếu vào tình hình phát triển KT - XH của từng quốc gia và mức độ quan tâm, điều chỉnh của chính quốc gia đó.
Như vậy nghèo tương đối không chỉ bao hàm mức thu nhập và tiêu dùng thấp mà còn bao gồm cả mức hưởng thụ thấp về giáo dục, y tế và các lĩnh vực khác của sự phát triển con người. Đặc biệt, nghèo tương đối còn đề cập đến "sự thiếu quyền lực và tiếng nói, cũng như tính chất dễ bị tổn thương và đe doạ của người nghèo" [10]. Trong những hoàn cảnh nhất định, họ không có tiếng nói chính trị, thậm chí còn bị tẩy chay sống biệt lập với xã hội.
Các quan niệm về nghèo đói nêu trên phản ánh 3 khía cạnh của người nghèo: i. Không được hưởng thụ những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người. ii. Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư. iii. Thiếu cơ hội lựa chọn, tham gia trong quá trình phát triển cộng đồng.
Một cách chung nhất thì nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư vì những lý do nào đó không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu mà xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển KT - XH và phong tục tập quán của chính xã hội đó. Biểu hiện của việc không được hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản đó, là tình trạng thiếu ăn, thiếu nước sinh hoạt, suy dinh dưỡng, mù chữ, bệnh tật, môi trường suy thoái, tuổi thọ trung bình thấp, ít được tiếp cận với các dịch vụ xã hội.
1.1.1.2. Phương pháp tiếp cận và các tiêu chí đánh giá đói nghèo
a. Phương pháp tiếp cận
Chuẩn nghèo là thước đo mức sống của dân cư để phân biệt trong xã hội ai thuộc diện nghèo và ai không thuộc diện nghèo. Trải qua hơn một thế kỷ, trên thế giới đã hình thành 3 phương pháp tiếp cận chuẩn nghèo chủ yếu sau. Phương pháp dựa vào nhu cầu chi tiêu. Phương pháp dựa vào thu nhập thực tế. Phương pháp dựa vào đánh giá của người dân. Trong 3 phương pháp trên thì 2 phương pháp đầu được các quốc gia sử dụng khá phổ biến. [10].
b. Tiêu chí đánh giá đói nghèo
* Chỉ tiêu thu nhập
Thu nhập bình quân theo đầu người là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh được quy mô, trình độ phát triển kinh tế và mức sống của người dân trong một nước. Hiện nay trên thế giới tồn tại hai phương pháp tính toán chủ yếu của WB.
- Phương pháp Atlas (phương pháp theo tỉ giá hối đoái) [21]
WB phân ra làm 6 loại nước (là mức thu nhập năm 1990). Nước cực giàu: > 25.000 USD/năm. Nước giàu: 20.000 - < 25.000 USD/năm. Nước khá giàu: 10.000 - < 20.000 USD/năm. Nước trung bình: 2.500 - < 10.000 USD/năm. Nước nghèo: 500 - < 2.500 USD/năm. Nước cực nghèo: < 500 USD/năm.
Theo phương pháp đánh giá này, Việt Nam có thu nhập 1.064 USD năm 2009, khoảng 1.200 USD năm 2010 thuộc nhóm nước nghèo.
Tuy nhiên theo phương pháp trên, việc chuyển đổi thường bị sai lệch không phản ánh được tính ngang giá của sức mua. Do đó từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, Liên hợp quốc (LHQ) đã đề ra phương pháp tính bình quân thu nhập mỗi nước theo sức mua tương đương (PPP).
- Phương pháp sức mua tương đương (PPP)
Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi so sánh chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người giữa các nước, nhằm đưa ra chỉ tiêu định lượng so sánh giữa các nước bằng cách đưa đồng tiền của mỗi nước về một đơn vị đo lường thống nhất đồng USD.
WB sau nhiều cuộc điều tra trên toàn cầu đã đưa ra ngưỡng nghèo chung (theo PPP) [10]. Đối với các nước thu nhập thấp: < 1 USD/ngày. Đối với các nước thu nhập trung bình thấp : < 2 USD/người/ngày.
* Chỉ tiêu dinh dưỡng
Nhu cầu về dinh dưỡng là nhu cầu cơ bản và tối thiểu của con người để tồn tại, hoạt động và tái tạo sức lao động. Chỉ tiêu cơ bản nhất về lượng dinh dưỡng đưa vào cơ thể là lượng calo tiêu dùng hàng ngày. Để xây dựng một ngưỡng nghèo cần phải xác định nhu cầu tiêu dùng của toàn bộ dân số. Lượng dinh dưỡng 2.100 kcalo mà tổ chức Y tế thế giới (WHO) đưa ra dựa trên nhiều lần đánh giá, kiểm nghiệm.
Ngưỡng nghèo hay mức nghèo, là mức chi dùng tối thiểu, được xác định như tổng số tiền chi cho giỏ tiêu dùng trong thời hạn nhất định, bao gồm một lượng tối thiểu lương thực, thực phẩm và đồ dùng cá nhân cần thiết bảo đảm cuộc sống và sức khỏe một người ở tuổi trưởng thành và các khoản chi bắt buộc khác. WB xây dựng ngưỡng nghèo trên cơ sở xác định nhu cầu tiêu dùng về lương thực của con người. Cụ thể:
- Ngưỡng nghèo thứ nhất: Là số tiền cần thiết để mua số lượng lương thực. Lượng lương thực này phải đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng đủ 2100 kcalo cho mỗi người mỗi ngày (gồm 40 loại sản phẩm), được gọi là ngưỡng nghèo lương thực.
- Ngưỡng nghèo thứ hai: Bao gồm chi tiêu cho sản phẩm lương thực và phi lương thực gọi là ngưỡng nghèo chung.
Nghèo đói chịu tác động của nhiều nhân tố nên chưa thể coi 3 phương pháp trên là căn cứ để đánh giá mức độ giàu nghèo của một quốc gia. Vì vậy LHQ đã sử dụng chỉ số nghèo khổ Human Poverty Index (HPI). Các tính HPI dành cho các nước đang phát triển HPI -1 dựa vào chỉ số phát triển con người HDI.
Chỉ số HPI được tính theo công thức:
HPI = {1/3(P1 3+ P2 3 + P3 3 )}1/3
Trong đó P1: Xác xuất những người không thọ quá 40 tuổi (x 100)
P2: Tỉ lệ người lớn mù chữ
P3: Giá trị bình quân phi gia quyền của tỉ lệ người dân không tiếp cận bền vững với nguồn nước sạch (1) và tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng (2). (Giá trị bình quân phi gia quyền = 1/2 tỉ lệ (1) + 1/2 tỉ lệ (2)).
Giá trị HPI càng cao thì mức độ nghèo khổ càng lớn và ngược lại. Giá trị HPI của một nước nói lên rằng sự nghèo khổ của con người ảnh hưởng lên bao nhiêu phần dân số nước đó.
Hệ số GINI là thước đo được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu bất bình đẳng về phân phối thu nhập, hệ số này lượng hoá được mức độ bất bình đẳng về phân phối thu nhập, hệ số nhận giá trị biến thiên từ 0 đến 1. Chỉ số này càng lớn mức độ bất bình đẳng càng cao.
1.1.2. Quan niệm và tiêu chí đánh giá đói nghèo ở Việt Nam
1.1.2.1. Quan niệm về đói nghèo ở Việt Nam
Công cuộc xoá đói, giảm nghèo ở nước ta bắt đầu từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Trong nhận thức của người Việt Nam khi đề cập đến đói nghèo, mọi người đều hiểu rằng đó là tình trạng người dân cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được học hành, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà cửa tạm bợ...
Các tài liệu và các công trình nghiên cứu hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất với định nghĩa chung do Uỷ ban KT - XH Châu Á và Thái Bình Dương của LHQ (ESCAP) đưa ra tại hội nghị Băng Cốc - Thái Lan năm 1993.
Ngoài định nghĩa chung về đói nghèo, nước ta còn sử dụng rộng rãi hai định nghĩa về cơ bản cũng đều bắt nguồn từ WB.
- Nghèo đói lương thực, thực phẩm (tương đương với nghèo tuyệt đối, nghèo về thu nhập của WB).
- Nghèo đói chung (tương đương với nghèo tương đối, nghèo về con người).
Điểm khác biệt so với nhiều nước là bên cạnh khái niệm nghèo, chúng ta còn sử dụng khái niệm đói để phân biệt mức độ nghèo của một bộ phận dân cư. Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những bộ phận dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ 1 đến 2 tháng, thường vay nợ của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả.[21]
Hiện nay, tình trạng đói đã không được nhắc tới trong các văn kiện chính thức của Đảng từ năm 2001. Mặc dù vậy, cụm từ "xóa đói giảm nghèo" vẫn được sử dụng, chỉ một nội dung hẹp hơn là đấu tranh để giảm nghèo, tiến tới xoá nghèo.
* Chỉ số đánh giá
Dựa trên cách tiếp cận đói nghèo trên, thước đo sử dụng phổ biến để đánh giá nghèo khổ về thu nhập là đếm số người dưới chuẩn nghèo. Gọi là "chỉ số đếm đầu người" (HC - Headcount index). Từ đó xác định tỉ lệ nghèo (tỷ lệ đếm đầu - HCR).[5]
Tỉ lệ nghèo được tính bằng tỉ lệ phần trăm của dân số. Việc sử dụng chỉ số này là cần thiết để đánh giá tình trạng nghèo và những thành công trong mục tiêu "giảm nghèo" của quốc gia.
Khoảng cách nghèo là phần chênh lệch giữa mức chi tiêu của người nghèo với ngưỡng nghèo, tính bằng phần trăm so với ngưỡng nghèo. Khi so sánh các nhóm dân cư trong một nước, khoảng cách nghèo cho biết tính chất và mức độ của nghèo khổ khác nhau giữa các nhóm. [5]
1.1.2.2. Các tiêu chí đánh giá đói nghèo ở Việt Nam
a. Tiêu chí của Bộ lao động - Thương binh và xã hội
Căn cứ vào mức sống thực tế các địa phương, trình độ phát triển KT - XH, từ năm 1993 đến nay Bộ LĐTBXH đã 6 lần công bố tiêu chuẩn cụ thể cho hộ nghèo. Các tiêu chí này thay đổi theo thời gian điều tra cùng với sự thay đổi mặt bằng thu nhập quốc gia.
* Chuẩn nghèo giai đoạn 2006 - 2010 được áp dụng theo Quyết định số 170/2005/QĐ - TTg ngày 08 tháng 7 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 quy định những người có mức thu nhập sau được xếp vào nhóm hộ nghèo:
- Thu nhập bình quân đầu người đối với khu vực nông thôn là dưới 200.000 đồng/người/tháng.
- Thu nhập bình quân đầu người đối với khu vực thành thị là dưới 260.000 đồng/người/tháng.
Tuy nhiên, với tình hình lạm phát như hiện nay chuẩn nghèo trên chưa đánh giá được đúng như thực tế. Chuẩn mực nghèo đói của Việt Nam vẫn còn cách quá xa so với chuẩn mực do Ngân hàng Thế giới đưa ra với ngưỡng 1 USD/
File đính kèm:
- Nghien cuu van de ngheo va giam ngheo o Viet Nam.doc