Phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học là rất cần thiết nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Để hiểu sâu và nắm chắc kiến thức kỹ thuật học sinh phải tiếp thu kiến thức chủ động, tích cực. Việc cải tiến phương pháp dạy học, đổi mới cách kiểm tra đánh giá kiến thức với các bộ môn nói chung và môn KTCN là rất cần thiết nhằm tăng hứng thú học tập với học sinh và giúp các em chủ động nắm chắc kiến thức.
17 trang |
Chia sẻ: lephuong6688 | Lượt xem: 1206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phát huy tính tích cực của học sinh trong bài dạy kỹ thuật công nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phát huy tính tích cực của học sinh trong bài dạy kỹ thuật công nghiệp
I- Đặt vấn đề:
Phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học là rất cần thiết nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Để hiểu sâu và nắm chắc kiến thức kỹ thuật học sinh phải tiếp thu kiến thức chủ động, tích cực. Việc cải tiến phương pháp dạy học, đổi mới cách kiểm tra đánh giá kiến thức với các bộ môn nói chung và môn KTCN là rất cần thiết nhằm tăng hứng thú học tập với học sinh và giúp các em chủ động nắm chắc kiến thức.
Những năm qua ngành giáo dục đã không ngừng cố gắng để đổi mới phương pháp dạy học, tránh lối học vẹt. Nhiều tài liệu và các đợt học bồi dưỡng thường xuyên đã giúp các thày cô giáo cải tiến cách dạy, hướng dẫn cho học sinh cách học để học sinh tự nắm bắt kiến thức, hiểu sâu hiểu kỹ kiến thức. Cách dạy và cách học mới giúp các em không chỉ đạt được bằng cấp mà quan trong hơn trang bị những kiến thức cần thiết làm hành trang cho công tác sau này.
ở nước ta, để nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, từ năm học 2001-2002, Bộ giáo dục đã chính thức đổi mới giáo dục bắt đầu từ tiểu học, trung học cơ sở đén trung học phổ thông. Đổi mới giáo dục là đổi mới về nội dung kiến thức (SGK mới), phương pháp dạy và học, cách kiểm tra đánh giá xếp loại học lực.
Kiến thức kỹ thuật vừa có tính cụ thể (cấu tạo, kết cấu máy, chi tiết máy), vừa mang tính trìu tượng (nguyên lý hoạt động). Để hiểu sâu kiến thức các em phải tích cực tư duy, tự đặt ra các giả thuyết rồi phân tích, tổng hợp thông qua sự dẫn dắt của thày để tìm ra kiến thức. Trong thực tế nếu chỉ tiếp thu kiến thức thụ động, thì không thể tiếp thu sâu được kiến thức, đặc biệt là kiến thức kỹ thuật.
Trong bài viết này, tôi xin trình bày một số ý kiến về cải tiến phương pháp dạy học, đổi mới cách kiểm tra, đánh giá kiến thức và áp dụng những phương pháp dạy học mới vào bài dạy KTCN như thế nào để nâng cao chất lượng bài dạy, phát huy tính tích cực của học sinh.
II- Nội dung:
a- Phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học:
1- Phương pháp đàm thoại (vấn đáp) trong dạy KTCN:
Đàm thoại thực chất là phương pháp giáo viên đặt câu hỏi học sinh trả lời, đồng thời có thể trao đổi qua lại giữa giáo viên và học sinh nhằm giúp học sinh nắm kiến thức một cách chủ động, tích cực.
Trong thực tế, nhiều khi ta quan niệm rằng cứ đặt câu hỏi rồi học sinh trả lời là có đàm thoại. Như vậy, ta đã hiểu chưa đúng về đàm thoại. Theo tôi, đàm thoại có nhiều mục đích: Có thể đàm thoại để nắm lại, kiểm tra kiến thức cũ, đàm thoại để phát triển tư duy tìm kiến thức mới, đàm thoại để chứng minh, giải thích một vấn đề, nội dung kiến thức ...
Với bài dạy kỹ thuật khi kiểm tra kiến thức cũ, kiến thức có liên quan đến bài dạy mới, giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức cũ đã học không cần suy luận. Câu hỏi loại này dễ thực hiện, dễ ra câu hỏi, song cần rõ ràng.
Ví dụ ở lớp 10 để dạy bài hình chiếu trục đo phải dùng kiến thức về hình chiếu song song. Dạy bài phương pháp hình chiếu vuông góc phải dùng kiến thức phép chiếu vuông góc... Câu hỏi rất đơn giản: Thế nào là phép chiếu song song và ứng dụng? Hoặc thế nào là phép chiếu vuông góc và ứng dụng?...
Cũng có thể dùng các câu hỏi để đặt vấn đề vào bài giảng mới dưới dạng "nêu vấn đề" qua nội dung kiến thức cũ.
Trong khi giảng bài để làm sáng tỏ một vấn đề, một nội dung kiến thức ta phải sử dụng đàm thoại kết hợp với trực quan hoặc các ví dụ minh hoạ. Cách đàm thoại này thường dùng một hệ thống câu hỏi nối tiếp nhau, thày đàm thoại với một hoặc nhiều học sinh nhằm tiến tới vấn đề cần bàn cần nắm vững.
Ví dụ để dạy bài Máy biến áp (chương trình ĐKT 12 PTTH) để dạy cấu tạo MBA giáo viên dùng trực quan (MBA) vừa cho học sinh quan sát, gợi ý để các em trả lời câu hỏi.
GV: Biến áp gồm mấy phần chính?
HS: Biến áp gồm hai phần chính (GV chỉ ra các phần).
GV: Kể tên các bộ phận chính đó (GV gợi ý).
HS: Đó là lõi thép và dây quấn.
GV: Đúng. Em hãy quan sát kỹ và cho biết vật liệu, đặc điểm cấu tạo, công dụng của từng phần (GV phân tích đ học sinh trả lời).
......
Cũng có thể giáo viên hỏi tập trung vào một học sinh hoặc hỏi nhiều học sinh để không khí lớp sôi nổi hơn. Điều đáng lưu ý là giáo viên phải nắm vững khả năng của học sinh nếu không sẽ mất nhiều thời gian.
Một kiểu đàm thoại khác kích thích cao tư duy của học sinh. Đặc điểm của đàm thoại loại này là xây dựng, một hệ thống câu hỏi - trả lời theo dáng dấp nêu vấn đề. Cách đàm thoại này có thể dùng để kiểm tra, khắc sâu kiến thức cũ hoặc dạy bài mới. Các câu hỏi đặt ra không có ngay trong nội dung của bài mà đòi hỏi các em phải suy nghĩ, dựa vào kiến thức cũ mới có thể trả lời được. Sau khi trả lời được các em sẽ nắm rất chắc kiến thức đã tiếp thu được.
Một số ví dụ:
GV: Tại sao phải dùng lõi thép cho stato và roto? Có thể không dùng lõi thép hoặc thay lõi thép bằng vật liệu khác được không?
- Tại sao không dùng lõi thép đặc mà phải dùng nhiều lá thép mỏng ghép lại?.
- Tại sao không dùng lõi thép thường mà phải dùng lá thép ĐKT (có chứa silic)?
HS: Căn cứ vào kiến thức cũ phân tích và trả lời.
- Dùng lõi thép để dẫn từ, các vật liệu khác không dẫn từ.
- Dùng nhiều lá thép mỏng ghép lại để tránh dòng fuco (dòng điện xoáy trong lõi thép đặc sinh nhiệt gây nóng và tổn hao).
- Dùng lõi thép thường dẫn từ kém, lõi thép ĐKT dẫn từ tốt hơn...
Phương pháp đàm thoại có nhiều ưu điểm, song cũng có nhiều hạn chế. Trong một bài dạy ta không nên lạm dụng dễ gây nhàm chán mất thời gian.
Điều đáng lưu ý ở đây là để đàm thoại cho tốt giáo viên phải xác định rõ mục đích đàm thoại để xây dựng, củng cố đơn vị kiến thức nào. Câu hỏi đặt ra phải được chọn lọc sao cho dễ hiểu, dễ trả lời và phù hợp với trình độ học sinh. Cao hơn câu hỏi phải mang tính "gợi mở", "dẫn dắt" học sinh đi tìm kiến thức. Chính vì yêu cầu trên mà giáo viên khi sử dụng đàm thoại phải tốn nhiều công sức để chuẩn bị câu hỏi. Yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của phương pháp này là nội dung và kỹ thuật đặt câu hỏi.
Một số yêu cầu khi đặt ra câu hỏi:
- Xác định rõ mục đích, yêu cầu nội dung cần hỏi.
- Dự kiến câu trả lời của học sinh (tuỳ theo trình độ học sinh) dự kiến câu hỏi, gợi ý bổ sung.
- Đặt câu hỏi phải rõ ràng, chính xác, dễ hiểu và phù hợp với trình độ của học sinh.
Phương pháp đàm thoại cần kết hợp tốt với các phương pháp khác (nhất là phương pháp trực quan) bài giảng mới đạt kết quả cao. Có thể áp dụng phương pháp đàm thoại cho toàn bài, thông thường ta nên áp dụng ở những nội dung cần thiết và có thể "đàm thoại".
2- Dạy học nêu vấn đề trong bài dạy KTCN:
Dạy học nêu vấn đề đang được nhiều giáo viên ủng hộ, đó là một phương pháp hay nhưng khó áp dụng và phải tốn nhiều công sức. Trong một bài dạy kỹ thuật nếu được áp dụng phương pháp này sẽ trở nên vô cùng hấp dẫn và chất lượng bài giảng sẽ có kết quả không ngờ.
Phương pháp dạy học nêu vấn đề có ưu điểm rất lớn kích thích tư duy, trí sáng tạo khoa học của học sinh. Điểm mấu chốt của phương pháp này là giáo viên phải tạo ra được các "tình huống có vấn đề". Tình huống có vấn đề là mâu thuẫn khách quan của nhiệm vụ nhận thức (muốn hiểu biết) được học sinh chấp nhận như mâu thuẫn nội tại của bản thân.
Tình huống có vấn đề phải đảm bảo 3 điều kiện:
- Phù hợp với mục đích dạy học tạo được sự ngạc nhiên hấp dẫn.
- Là kiến thức mới mà học sinh không thể giải thích được bằng kiến thức cũ hoặc cảm thấy như "trái ngược" với kiến thức cũ.
- Phù hợp với trình độ học sinh.
Trong bài dạy kỹ thuật tình huống có vấn đề rất đa dạng. Để tạo ra được tình huống có vấn đề giáo viên phải dựa vào nội dung của bài tìm ra những mâu thuẫn giữa nội dung kiến thức mới với nội dung kiến thức cũ, giữa kiến thức lý thuyết với thực hành ... (nếu có). Từ đó giáo viên đặt câu hỏi tạo ra tình huống có vấn đề cần giải quyết.
Có thể phân ra các loại tình huống sau trong bài dạy KTCN:
a- Tình huống thể hiện mâu thuẫn kiến thức đã học với yêu cầu nảy sinh trong việc tiếp thu kiến thức mới.
Trong nhiều bài dạy kỹ thuật ta thấy nảy sinh mâu thuẫn loại này. Xin lấy một số ví dụ.
Ví dụ 1: Trong chương trình ĐCĐT lớp 11 kỹ thuật cơ khí để phân biệt điểm khác nhau cơ bản về nguyên lý giữa động cơ xăng và điêgen là: ở động cơ diêgen cuối hành trình nén khi không khí bị nén với áp suát và nhiệt độ cao thì vòi phun nhiên liệu (dầu ma dút) vào buồng cháy gặp không khí có nhiệt độ và áp suất cao thì tự bốc cháy. Còn ở động cơ xăng cuối hành trình nén buzi phải bật tia lửa điện để đốt cháy hỗn hợp xăng + không khí.
Điều mâu thuẫn xảy ra ở đây là giữa kiến thức các em đã học (xăng dễ cháy hơn dầu ma dút) lại mâu thuẫn với kiến thức mới (xăng dễ cháy nhưng phải có tia lửa điện để đốt cháy còn dầu khó cháy lại không cần tia lửa điện). .
Mục đích đạt được giáo viên phải làm rõ đây là yếu tố kỹ thuật; Hiện tượng cháy kích nổ ở động cơ xăng và chỉ số ốc tan của xăng ..
Giáo viên khi dạy có thể đặt các câu hỏi sau dẫn dắt các em vào tình huống có vấn đề.
GV: Dâù ma dút và xăng nhiên liệu nào dễ cháy hơn.
HS: Xăng dễ cháy hơn dầu (HS dựa vào kiến thức thực tế đã có).
GV: Vậy tại sao với động cơ điegien (dùng nhiên liệu dầu khó cháy) lại không cần tia lửa điện để đốt cháy nhiên liệu còn động cơ xăng (dùng nhiên liệu xăng dễ cháy) lại phải cần buzi bật tia lửa điện để đốt cháy nhiên liệu.
HS??? (Bằng kiến thức cũ không trả lời được).
Như vậy tình huống có vấn đề đã xuất hiện. Mâu thuãn giữa kiến thức cũ và mới đã trở thành mâu thuẫn nội tại của các em. Các em có nhu cầu hiểu biết, giải đáp. Giáo viên nêu về hiện tượng cháy kích nổ của nhiên liệu xăng sẽ làm ảnh hưởng tới chỉ tiêu kỹ thuật của động cơ và biện pháp tránh kích nổ bằng cách đốt cháy nhiên liệu tại một điểm và làm cho màng lửa lan tràn ra xung quanh nên không bị kích nổ vì vậy phải dùng bu zi đánh lửa. Giáo viên liên hệ tới chỉ số chống kích nổ của xăng (chỉ số ốc tan) khi mua xăng cho xe. Như vậy các em vừa nắm được kiến thức, lại vừa có bài học thực tế khi sử dụng động cơ như dùng xe máy...
Ví dụ 2: Trong chương trình về kỹ thuật 10 sách giáo khoa cũng đã đưa ra tình huống có vấn đề sau:
Để biểu diễn vật thể có thể biểu diễn bằng hai hình chiéu (đứng bằng) muốn lập lại vật thể trong không gian, ta căn cứ vào hai hình chiếu nói trên. Điều mâu thuẫn nảy sinh ở chỗ một số vật thể có hình chiếu đứng và bằng giống nhau (hình hộp chữ nhật, hình trụ, hình lăng trụ đáy tam giác vuông cân ... có kích thước tương ứng bằng nhau). Vậy từ hai hình chiếu đã cho có thể lập lại các vật thể khác nhau trong không gian hay không ???
Điều này không đảm bảo được tính kỹ thuật. Từ đây giáo viên dẫn dắt học sinh suy nghĩ và đưa ra kết luận phải dùng thêm một hình chiếu nữa là hình chiếu thứ ba.
Có thể lợi dụng tình huống có vấn đề trên để đặt vấn đề chuyển tiếp sang nội dung sau: Hình chiếu thứ 3.
GV: Các em đã biết cách vẽ hình chiếu đứng, hình chiếu bằng các em hãy vẽ hai hình chiếu của những vật thể sau:
(GV vẽ lên bảng gọi 3 học sinh thực hiện)
(Dài b đáy cạnh a) (Dài b, ĐK a) (Dài b cạnh Da)
HS: (Cả 3 học sinh đều vẽ h/c đứng và bằng giống nhau là 3 hình chữ nhật chiều rộng là a chiều dài là b).
GV: Từ hai hình chiếu trong trường hợp này có lập lại được vật thể không ???
HS: ???
GV: Phải dùng thêm hình chiếu thứ 3 (hình chiếu cạnh) và tiếp tục làm rõ vấn đề ở nội dung mới. ( Giáo viên chỉ ra hình vẽ SGK để xây dưng nội dung hình chiếu cạnh)
Hình hộp chữ nhật Hình trụ Nửa hình hộp chữ nhật
VD3: Khi giảng về lộ chế hoà khí (KTCK 11) giáo viên cần truyền thụ để học sinh nắm được cấu tạo và nguyên tắc hoạt động của bộ chế hoà khí (BCHK) dựa trên nguyên tắc của định luật Becnuli. Giáo viên (GV) có thể tạo ra tình huống sau:
GV: Dùng hai tờ giấy viết học sinh đặt song song nhau và hỏi (hình vẽ) :Nếu thổi vào khoảng giữa hai tờ giấy thì hai tờ giấy sẽ như thế nào? (Xa ra hay gần lại ?)
HS: Hai tờ giấy sẽ bị đẩy xa nhau ra ! (Do hiểu rằng thổi vào giữa không khí sẽ đẩy hai tờ giấy ra).
GV: Thực hiện (hoặc để HS làm) thổi vào khoảng giữa hai tờ giấy. Trái ngược với điều các em suy nghĩ hai tờ giấy bị hút vào gần nhau tạo ra điều mâu thuẫn với kiến thức cũ. Tình huống có vấn đề xuất hiện. Giáo viên để dành ít phút để các em trao đổi, phân tích, dẫn dắt, giải thích, đưa ra định luật Becnuli và áp dụng của định luật vào bộ chế hoà khí.
b- Tình huống có vấn đề thể hiện ở mâu thuẫn giữa lý thuyết và thực hành.
Ví dụ 1: Về lý thuyết nếu dùng bút thử điện ở ổ điện, đèn của bút đỏ là có điện, nhưng khi cắm quạt, đèn vào ổ thì quạt không quay, đèn không sáng. Kiến thức cần tìm hiểu là do ở mấtt nguội nên cả hai bên ổ đều đỏ.
Giáo viên đưa ra hình vẽ để giải thích như sau:
A
0
Đứt dây nguội
Hai chốt ổ đều có điện
Nếu mạch điện làm việc bình thường một bên chốt của ổ cắm nối với dây lửa khi thử bút điện sẽ đỏ còn bên chốt kia nối với dây nguội, khi thử bút không đỏ. Do mắt nguội nên điện thế (của dây nóng qua thiết bị điện) sẽ làm cả hai bên ổ cắm đều đỏ do dòng điện bị ngăn cách không về dây nguội được. Cần lưu ý học sinh tuỳ theo vị trí đứt dây nguội mà ta có những trường hợp khác nhau. Loại tình huống này dùng để giảng dạy phần điện dân dụng khi học nghề.
Hình vẽ là mạch điện xoay chiều gồm có tụ điện C cuộn cảm L mắc nối tiếp với đèn Đ. Giữa hai đầu tụ C là công tắc K( Hình vẽ). Về lý thuyết các em đã học (dòng điện một chiều). Nếu đóng K tức là đã giảm trở kháng của mạch, làm dòng điện tăng qua đèn làm đèn sẽ sáng hơn. Song với dòng điệu xoay chiều
Ví dụ 2: Để giảng về kiến thức tổng trở của mạch điện xoay chiều (Điện kỹ thuật 12) giáo viên đưa ra hình vẽ sau:
U~
Đ
L
C
K
chiều (nếu XL >XC), khi đóng khóa K thì hiện tượng lại xảy ra ngược lại trái với dòng điện một chiều các em đã học đèn lại tối di. Như vậy đã nảy sinh tình huống có vấn đề.
Trong phần ôn tập để làm rõ đặc điểm của mạng điện xoay chiều và trở kháng của mạch xoay chiều giáo viên nên đưa ra tình huống này để thấy rõ sự khác nhau giữa dòng điện một chiều và xoay chiều - khái niệm trở kháng (cảm kháng, dung kháng, điện trở) và tổng trở mạch điện xoay chiều.
Có thể đưa ra các câu hỏi:
GV: Khi đóng khoá K đèn sáng lên hay tối đi?
HS: Đèn sáng lên do điện trở giảm dòng điện qua đèn tăng!
GV: Các em hãy quan sát độ sáng của đèn khi đóng khóa K, GV đóng khóa K đèn tối đi.
HS: ???
GV: Giảng về kiến thức trở kháng dòng điện xoay chiều, tổng trở.
c- Tình huống có vấn đề thể hiện ở mâu thuẫn giữa tính đa dạng của tri thức với sự cần thiết phải lựa chọn lấy một tri thức hợp lý nhất (nhiều giải pháp lựa chọn lấy một).
Ví dụ 1: Để biểu diễn vật thể (VKT10) ta có thể dùng nhiều phương pháp biểu diễn như hình chiếu, hình chiếu trục đo, hình phối cảnh... nhưng trong bản vẽ kỹ thuật phải chọn phương pháp tối ưu nhất. Giáo viên nêu ra tình huống có vấn đề (nhiều phương pháp lựa chọn lấy một).
GV: Tại sao hình chiếu trục đo có ưu điểm chỉ dùng một hình chiếu đã biểu diễn được ba chiều vật thể lại không dùng làm phương pháp chính để biểu diễn vật thể.
HS: ???
GV: Chỉ rõ ưu nhược của phương pháp này và yêu cầu với việc biểu diễn vật thể là phản ánh đúng hình dạng và kích thước thật của vật thể nên phải sử dụng hình chiếu vuông góc. (Hình chiếu trục đó không phản ánh đúng hình dạng và kích thước thật của vật thể).
Ví dụ 2: Khi giảng về "Biểu diễn quy ước" (VKT10) giáo viên phải cho học sinh nắm được sự cần thiết của biểu diễn quy ước với những chi tiết nếu dùng hình chiếu sẽ rất phức tạp như chi tiết có ren, mối hàn (Lựa chọn phương án tối ưu).
Để làm rõ mâu thuẫn và sự cần thiết phải lựa chọn phương án biểu diễn tối ưu giáo viên yêu cầu học sinh vẽ hình chiếu của ren, mối hàn - học sinh theo quy ước về hình chiếu sẽ rất khó thực hiện (hoặc không vẽ được) Tình huống có vấn đề nảy sinh, giáo viên dẫn dắt các em thực hiện theo phương án biểu diễn quy ước và vào bài học.
d- Tình huống có vấn đề còn thể hiện ở mâu thuẫn giữa phương pháp sử dụng kiến thức đã hình thành với sự cần thiết phải thay đổi phương pháp này vào hoàn cảnh mới.
Ví dụ: Khi giảng bài "cơ cấu phân phối khí - KTCN 11) giáo viên phải làm rõ để truyền chuyển động từ trục khuỷu đến trục cam phải dùng bánh răng ăn khớp nếu hai trục xa nhau phải dùng xích cam không thể dùng phương pháp khác dược để đảm bảo yêu cầu pha phối khí.
GV: Trong kỹ thuật dây đai (dây curoa) dùng để làm gì?
HS: Để truyền chuyển động giữa hai trục xa nhau.
GV: Tại sao cơ cấu phối khí của xe máy để truyền chuyển động giữa trục khuỷu và trục cam lại không dùng dây đai.
HS: ???
GV: Nêu yêu cầu kỹ thuật của cơ cấu, để đảm bảo đúng pha phối khí, dây curoa khi truyền sẽ bị trượt làm sai pha phối khí nên phải truyền động bằng xích (xích cam).
Các tình huống có vấn đề rất đa dạng, điều quan trọng nhất là phải tìm ra được tình huống có vấn đề là những mâu thuẫn của kiến thức đã nêu trên.
Không phải bài dạy nào, phần nội dung nào cũng có tình huống có vấn đề. Vì vậy tuỳ bài, tuỳ nội dung mà áp dụng một cách linh hoạt không gượng ép. Không nhất thiết áp dụng phương pháp này cho toàn bài mà có thể áp dụng từng phần nội dung và kết hợp với các phương pháp khác.
Để bài giảng được thành công tốt cần lưu ý giai đoạn tạo ra tình huống có vấn đề mới chỉ là bước đầu làm nảy sinh điều muốn biết với học sinh kích thích tư duy cho học sinh. Bước quan trọng hơn khi đã nảy sinh tình huống có vấn đề giáo viên phải hướng để học sinh nghiên cứu và giải quyết vấn đề, củng cố và vận dụng tri thức. Đây mới là bước cốt yếu quan trọng giúp học sinh nắm chắc tri thức.
b- Phát huy tính tích cực của học sinh thông qua việc kiểm tra, đánh giá kiến thức
Việc đánh giá kiến thức cũng góp phần rất lớn vào việc thúc đẩy cách học của các em. Cách kiểm tra truyền thống là câu hỏi tự luận, cách kiểm tra này nhiều khi chỉ yêu cầu các em học thuộc lòng mà không hiểu bài. Phương pháp kiểm tra trắc nghiệm đã được áp dụng từ lâu trên thế giới không những ở nhà trường mà còn ở nhiều lĩnh vực khác. ở nhiều nước đã áp dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan vào tuyển sinh cao đẳng, đại học, tuyển năng khiếu, học sinh giỏi...
Phương pháp kiểm tra trắc nghiệm đã được đưa vào chương trình, nội dung SGK mới và đang khuyến khích áp dụng.
Thấy rõ được lợi ích của phương pháp kiểm tra trắc nghiệm, trong ba năm qua tôi đã áp dụng phương pháp kiểm tra trắc nghiệm để kiểm tra học sinh lớp 12 và trao đổi nhiều với đồng nghiệp về vấn đề này.
Qua kiểm tra tôi thấy phơng pháp trắc nghiệm khách quan có nhiều ưu điểm, đặc biệt nó phất huy được tính tích cực học tập, đánh giá nhanh, chính xác, tiết kiệm nhiều thời gian kiểm tra và chấm bài. Khi kiểm tra, học sinh hứng thú làm bài và tỏ ra rất phấn khởi. Kết quả kiểm tra cho thấy các em hiểu bài, đạt kết quả khá cao.
1, Khái niệm:
Trắc nghiệm là kiểm tra, đánh giá sự hiểu biết, nắm kiến thức của học sinh. Phương pháp trắc nghiệm khách quan là phương pháp kiểm tra cho trước đáp số, chỗ trống của một câu...Yêu cầu học sinh chọn câu trả lời đúng hoặc điền vào chỗ trống...khi làm bài.
2, Phân loại: Phương pháp kiểm tra trắc nghiệm có nhiều loai :
â)Trắc nghiệm nhiều lựa chọn (MCQ): Trong nhiều câu trả lời( hoặc nhiều đáp số) chọn câu trả lời (hoặc đáp số) đúng.
Ví dụ: Hãy đánh dấu nhân(x) vào câu trả lời mà em cho là đúng.
Có thể truyền chuyển động quay từ trục khuỷu tới trục cam bằng cách nào?
a, Dùng bánh răng hoặc xích cam.
b, Dùng dây đai, bánh đai.
c, Cả hai cách trên.
Trong ba ý trên câu trả lời đúng là ý a vì chỉ có truyền chuyển động bằng răng hoặc xích cam thì mới đảm bảo góc đóng mở của các xu-páp theo quy luật phối khí.Học sinh đánh dấu nhân (x) vào ý a
-Trắc nghiệm đúng sai: Với câu dẫn là một mệnh đề có thể đúng hoặc sai. Học sinh phải lựa chọn một trong hai câu trả lời: Đúng hoặc sai.
Ví dụ: Điện trở 100 K có vòng màu trên thân theo thứ tự là: Nâu-đen-vàng. Đúng hay sai?
Câu trả lời là đúng.
Học sinh trả lời bằng cách đánh dấu (x) vào ý(hoặc cột) đúng hoặc sai.
b)Trắc nghiệm điền khuyết: Trên cơ sở nắm vững kiến thức học sinh điền vào chỗ trống (.........) theo yêu cầu của câu kiểm tra.
Ví dụ: ở bộ chế hoà khí hiện đại :
Hệ thống phun chính có nhiệm vụ..........................................
Hệ thống không tải có nhiệm vụ..............................................
Học sinh cần điền ở dòng trên: Làm nhạt bớt khí hỗn hợp.
ở dòng dới: Làm đậm thêm khí hỗn hợp.
c)Trắc nghiệm đối chiếu cặp đôi: Là loại hình đặc biệt của trắc nghiệm nhiều lựa chọn gồm hai dãy thông tin một dãy là các câu dẫn, một dãy là các phương án lựa chọn được dùng để trả lời. Học sinh phải ghép hai dãy trên cho phù hợp với nội dung bài
Ví dụ: Hãy chọn mỗi nội dung ở cột 1 nối với một nội dung ở cột 2 để thành câu đúng
Cột 1
Cột 2
A Nét liền đậm dùng để
a vẽ đường bao khuất, cạnh khuất
B Nét liền mảnh dùng để
b vẽ đường bao khuất, cạnh khuất
C Nét đứt dùng để
c vẽ đường bao khuất, cạnh khuất
D Nét chấm gạch mảnh dùng để
d vẽ đường ghi kích thớc,đường gióng, đường gạch gạch
E Nét lượn sóng dùng để
e vẽ đường trục đường tâm
3 ,Ưu nhược điểm của phương pháp trắc nghiệm.
- Phương pháp trắc nghiệm có ưu điểm nổi bật là phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh. để trả lời được câu hỏi yêu cầu các em phải hiểu, nắm vững bài mới chọn được đáp án đúng. Mặt khác trong một thời gian rất ngắn có thể kiểm tra được nhiều kiến thức của học sinh. Bài trắc nghiệm chấm rất nhanh, có thể chấm ngay trên lớp với câu hỏi tìm hiểu và củng cố kiến thức mới.
Với giáo viên KTCN vì dạy nhiều lớp nên số bài kiểm tra rất nhiều. Mỗi năm hoc có 8 lần kiểm tra, mỗi lần khoảng 800 - 1000 bài nên việc đưa trắc nghiệm khách quan sẽ giảm đáng kể thời gian và công sức chấm bài. Giáo viên có thêm thời gian nghiên cứu kiến thức, đổi mới phương pháp giảng dạy làm tăng hứng thú học tập của học sinh. Đó cũng chính là mối quan hệ hai mặt giữa giảng dạy và đánh giá kết quả giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng giờ lên lớp.
Tuy nhiên phương pháp trắc nghiệm khách quan cũng có những nhược điểm sau:
- Nếu quá lạm dụng trắc nghiệm khách quan sẽ làm mất khả năng diễn đạt của học sinh. Khi hỏi câu hỏi bình thường học sinh sẽ không biết cách trả lời. Khắc phục nhược điểm này bằng cách kết hợp với cách kiểm tra truyền thống hoặc với số lượng không vượt quá 60 %.
Trên đây mới chỉ bàn đến việc đổi mới phương pháp dạy học và cách kiểm tra đánh giá kiến thức của học sinh. Việc tổ chức giờ lên lớp, thảo luận trên lớp, ngoại khoácũng góp phần rất lớn để phát huy nội lực của các em, nâng cao chất lượng học tập.
C- Kết quả đạt được
Bộ môn kỹ thuật đã được đưa vào giảng dạy ở trường phổ thông từ nhiều năm qua, do vị trí bộ môn nên nhiều học sinh không chuyên tâm học tập. Bài học kỹ thuật công nghiệp lại nhiều kiến thức khó, trìu tượng nên các em ngại học. Nếu giáo viên tăng cường cho bài soạn, đặc biệt đổi mới phương pháp, trong đó tích cực phát huy tính tích cực của học sinh trong mọi lĩnh vực học tập, các em sẽ yêu thích bộ môn, yêu kỹ thuật, làm tiền đề cho học kỹ thuật sau này khi các em vào trường kỹ thuật.
Trong bài dạy trên lớp, tôi luôn áp dụng những phương pháp phát huy được tính tích cực cao nhất của các em. Nhiều câu hỏi, vấn đề đưa ra các em đều thảo luân sôi nổi. Trong bài dạy về khởi động từ cấu tạo gồm một công tắc tơ kết hợp với hai rơle nhiệt. Các em hiểu nguyên lý làm việc và đã đưa ra được thắc mắc mà trước đây các em không bao giờ hỏi: Tại sao lại phải ghép hai rơle nhiệt, theo em chỉ cần một là đủ? Trước câu hỏi này tạo tiền đề cho cuộc tranh luận bổ ích giúp các em nắm chắc bài. Khi dạy bài máy biến áp tôi dùng thí nghiệm cho điện vào một cuộn dây để cạnh cuộn dây khác. Dùng kiến thức vật lý (hiện tượng cảm ứng điện từ) để xây dưng nội dung. Dùng các dụng cụ đo vôn kế, am pe kế để xây dựng công thức quan hệ giữa dòng điện và điện áp
Trong bài dạy tôi thường không đưa ngay kiến thức bắt các em công nhận mà dẫn dắt đưa các em đến vứi kiến thức. Những em có nhiều thắc mắc và giải đáp được thắc mắc đều được thưởng điểm. Với bộ môn các em học tập say mê, có kết quả cao mà không tốn nhiều thời gian. Giờ học kỹ thuật sôi nổi, nhẹ nhàng, không gò bó mà thoải mái.
Thấy được nhiều ưu điểm của phương pháp trắc nghiệm tôi đã mạnh dạn áp dụng. Trong 3 năm qua tôi đã sử dụng phương pháp không những để đánh giá, kiểm tra bài cũ mà còn để dạy và củng cố bài học mới. Tuy vậy vì thời gian có hạn, lĩnh vực lại mới nên tôi mới chỉ thực hiện bài kiểm tra ở lớp 12. Kết quả cho thấy các em hiểu bài và đạt kết quả cao. Để kiểm tra tôi thường dùng từ 4 đến 6 đề trong đó các câu hỏi có nội dung khác nhau trong cùng nội dung. Nên học sinh không trao đổi được. Trong quá trình làm bài không có thái độ sai, mỗi học sinh đều cố gắng và tự lực làm bài. Nhiều học sinh có sức học khá nhng vẫn bộc lộ nắm bài chưa vững, chỉ khi qua bài trắc nghiệm mới hiểu đúng và hiểu sâu bài.
Với câu hỏi Điốt có tác dụng:
a) Cho dòng điện một chiều đi qua.
b) Cho dòng điện đi qua một chiều.
c) Cả hai ý trên.
Câu trả lời đúng là ý b nhng nhiều em đã chọn ngay ý a hoặc ý c mà vẫn nghĩ là mình đúng và cho rằng câu hỏi dễ!, chỉ đến khi biết sai các em mới hiểu bài
File đính kèm:
- SKKN mon Cong nghe.doc