Đề tài Rèn kĩ năng nghe - nói cho học sinh lớp 1 trong môn tiếng việt

 Là một giáo viên dạy lớp 1 đã nhiều năm ,tôi nhận thấy việc hình thành và rèn cho học sinh 4 kĩ năng: đọc, nghe, nói, viết là vấn đề rất quan trọng trong môn Tiếng Việt. Kĩ năng nghe - nói là một trong những kĩ năng mà học sinh đã có trước khi vào lớp 1. Nhưng để rèn cho học có kĩ năng nghe - nói tốt không phải việc dễ đối với giáo viên lớp 1. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Rèn kĩ năng nghe - nói cho học sinh lớp 1 trong môn Tiếng Việt” để nghiên cứu và thực nghiệm trong quá trình dạy học của tôi .

 

doc9 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2816 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Rèn kĩ năng nghe - nói cho học sinh lớp 1 trong môn tiếng việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phòng giáo dục huyện Thuỷ Nguyên Trường tiểu học lại xuân *********************************** &@& *********************************** Rèn kĩ năng nghe - nói cho học sinh lớp 1 trong môn Tiếng Việt Họ và tên : Hoàng Thuý Mai Đơn vị: Trường Tiểu học Lại Xuân Năm học : 2006 - 2007 A.Đặt Vấn đề Là một giáo viên dạy lớp 1 đã nhiều năm ,tôi nhận thấy việc hình thành và rèn cho học sinh 4 kĩ năng: đọc, nghe, nói, viết là vấn đề rất quan trọng trong môn Tiếng Việt. Kĩ năng nghe - nói là một trong những kĩ năng mà học sinh đã có trước khi vào lớp 1. Nhưng để rèn cho học có kĩ năng nghe - nói tốt không phải việc dễ đối với giáo viên lớp 1. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Rèn kĩ năng nghe - nói cho học sinh lớp 1 trong môn Tiếng Việt” để nghiên cứu và thực nghiệm trong quá trình dạy học của tôi . B.Nội dung I . Yêu cầu kĩ năng nghe - nói trong nội dung chương trình Tiếng Việt 1 1.Kĩ năng nghe * Nghe trong hội thoại + Học sinh nhận biết sự khác nhau của các âm , các thanh và các kết hợp của chúng ; nhận biết sự thay đổi về độ cao, ngắt nghỉ hơi. + Học sinh nghe hiểu các câu kể, câu hỏi đơn giản. + Học sinh nghe hiểu lời hướng dẫn hoặc yêu cầu. *Nghe hiểu văn bản: Nghe hiểu một câu truyện ngắn có nội dung thích hợp với học sinh lớp 1. 2.Kĩ năng nói : *Nói trong hội thoại: + Học sinh nói đủ to, rõ ràng, thành câu. + Biết đặt câu hỏi và trả lời câu hỏilựa chọn về đối tượng. + Học sinh biết chào hỏi, chia tay trong gia đình, trường học. *Nói thành bài: Kể lại một câu chuyện đơn giản đã được học. II. Kĩ năng nghe- nói được rèn trong các dạng bài Tôi nhận thấy kĩ năng nghe - nói thường được luyện cùng lúc trong hệ thống bài học như sau: 1.Với các bài làm quen với âm và chữ: Trong giai đoạn này, kĩ năng nghe- nói bắt đầu được luyện trong tất cả các giờ học nhưng được rèn tập trung nhất trong phần “ Luyện nói” của bài. Phần này luyện nói theo tranh tương đối tự do theo chủ đề của tranh, không gò bó trong các âm và thanh vừa học. Giáo viên có thể định hướng cho học sinh bằng các câu hỏi, hướng dẫn học sinh nói qua các câu trả lời đơn giản với nội dung gần gũi với các em. Mục tiêu của phần luyện nói trong giai đoạn này là giúp học làm quen với không khí học tập mới, không khí học tập mới, không rụt rè, nhút nhát, dám mạnh dạn hơn nói cho các bạn nghevà nghe các bạn nói theo hướng dẫn của giáo viên trong môi trường giao tiếp mới - giao tiếp văn hoá, giao tiếp trong nhà trường. VD: Trong bài “Dấu hỏi” (sách TV/11), học sinh sẽ được luyện nghe –nói theo chủ đề “bẻ”.Đây là một trong những bài luyện nói đầu tiên giáo viên có thể hướng dẫn học sinh nói theo chủ đề của tranh không chỉ gò bó trong các tranh thể hiện từ ( tiếng) có dấu hỏi vừa học. Giáo viên có thể gợi ý định hướng cho học sinh bằng các câu hỏi. Tuỳ theo trình độ của học sinh mà ra câu hỏinhiều hay ít dễ hay khó. Trước khi hỏi giáo viên nên định hướng nghe cho học sinh bằng một yêu cầu: “Cả lớp hãy nghe bạn nói và nhận xét câu nói của bạn” H:-Trong phần luyện nói có mấy bức tranh? -Các bức tranh vẽ gì? Giáo viên có thể chia nhỏ hỏi từng tranh: - Bác nông dân đang làm gì?(Bác nông dân đang bẻ ngô.) -Bạn gái đang làm gì?(Bạn gái đang bẻ bánh đa cho bạn.) -Mẹ đang làm gì cho bé ?(Mẹ đang bẻ cổ áo cho bé.) - Các bức tranh đều thể hiện việc gì ? Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh sửa các câu sai. Khi học sinh nói được 1-2 câu, hay nói được câu hay cần tuyên dương khích lệ học sinh ngay để học sinh mất đi cảm giác rụt rè sẽ hăng hái xung phong nói, nói được tự nhiên hơn. Trong những bài đầu tiên này giáo viên nên bắt đầu tập cho học sinh làm quen với việc thảo luận trong nhóm cặp để tất cả học sinh đều được nói và được nghe bạn mình nói. Trong bước này, giáo viên cần theo dõi các nhóm để hướng dẫn các em cách trao đổi trong nhóm cặp của mình. Trong thời gian này để học sinh nghe và hiểu các yêu cầu của giáo viên, khi đưa ra các “lệnh” giáo viên cần giữ nguyên không nên thay đổi từ ngữ trong các yêu cầu. 2. Với các bài dạy chữ ghi âm (vần )mới: Trong các bài này, học sinh được luyện nghe - nói theo các gợi ý trong tranh. Giáo viên có thể dựa vào chủ đề, tranh tiến hành linh hoạt tuỳ theo trình độ của học sinh để đạt được yêu cầu sau: Nói về chủ đề của bài, chú ý đến các âm (vần ) vừa học, có thể mở rộng các âm (vần) chưa học. Giáo viên cần chú ý trong những bài này, nếu trình độ học sinh của mình có thể tự nói được giáo viên nên để học sinh tự nói, chỉ nên gợi ý bằng câu hỏi đối với học sinh không nói được. Học sinh có thể nói các câu đơn giản gần gũi với cuộc sống xung quanh các em. Phần luyện nói được thực hiện với thời gian từ 5-7 phút. Sau mỗi phần luyện nói giáo viên nên nhẹ nhàng liên hệ bằng 1-2 câu hỏi để giáo dục học sinh. 3. Luyện nghe - nói trong các bài ôn tập; bài kể chuyện Trong các bài ôn tập, kể chuyện phần nghe - nói được thực hành bằng hình thức kể chuyện theo tranh. Phần này giúp cho nội dung học tập thêm phong phú, sinh động hấp dẫn. Tên truyện cũng gắn với các âm vần đã học. Trong phần này giáo viên kể cho học sinh nghe là chủ yếu. Học sinh được quan sát tranh trong sách giáo khoa và nghe cô giáo kể. Giờ kể chuyện là giờ thực hành nói của học sinh. Sau khi nghe giáo viên kể chuyện , học sinh nhớ được nội dung chính của câu chuyện, kể lại dược câu chuyện một cách tóm tắt. Phân môn kể chuyện còn giúp cho giáo viên có thể rèn cho học sinh kĩ năng nói thành bài. Nó cũng giúp cho học sinh nói được những câu liên kết với nhau tạo thành bài. Khi học sinh kể chuyện học sinh sẽ thể hiện kĩ năng nói của mình với những học sinh có kĩ năng nói tốt giáo viên cần phát huy, khuyến khích các em kể toàn bộ câu chuyện (ở cuối tiết). Cần rèn giọng kể chuyện linh hoạt , phù hợp với nội dung lời nói của từng nhân vật. Giáo viên nên khai thác tranh minh hoạ bằng các câu hỏi gợi ý từ đó giúp học sinh yếu nhớ được câu chuyện, kể lại được từng đoạn, khơi gợi trí tưởng tượng , sự sáng tạo của các em . Giáo viên nên tạo điều kiện để học sinh ở các trình độ khác nhau ít nhiều được thực hành kể, nói về nội dung câu chuyện. Giáo viên có cho học sinh cùng tham gia kể trong hoạt động nhóm như : kể chuyện tiếp sức, kể chuyện phân vai…Giáo viên nên thay đổi hình thức để tạo sự hấp dẫn cho các em. Giáo viên nên khuyến khích học sinh có thể thêm từ, thay các từ khác nhưng không làm thay đổi nội dung chuyện. VD:Kể chuyện “Thỏ và sư tử”(sách TV1/45) Giáo viên có thể hướng học sinh dựa vào tranh minh hoạ và các câu hỏi gợi ý để kể lại được từng đoạn theo tranh. - Tranh1: Thỏ đến gặp sư tử vào lúc nào? - Tranh 2: Thỏ và sư tử đối đáp với nhau như thế nào? - Tranh 3: Sư tử nhìn thấy gì khi nhìn xuống giếng? - Tranh 4: Sư tử bị chết như thế nào? Với bài này giáo viên có thể cho học sinh kể phân vai ở tranh 1 và 2. Cuối cùng cho một học sinh khá kể toàn bộ câu chuyện. Giáo viên nên hướng giọng kể cho phù hợp với lời nói của các nhân vật trong truyện. 4.Luyện nghe- nói trong các bài tập đọc trong phần luyện tập tổng hợp Luyện nghe trong các bài tập đọc thường xuyên suốt trong cả giờ học. Học sinh được nghe bạn đọc, bạn nói. Để kĩ năng nghe được rèn có hiệu quả giáo viên cần đưa ra những “lệnh” để yêu cầu học sinh chú ý lắng nghe phần trình bày của giáo viên hoặc của bạn mình. VD:Trước khi vào phần luyện đọc luyện nói giáo viên nhắc nhở học sinh : “Các em chú ý nghe bạn đọc(nói) để nhận xét!” Trong quá trình học sinh luyện đọc, nói phần gọi học sinh nhận xét bài đọc, nói sẽ khiến học chú ý lắng nghe bạn đọc hơn để có thể nhận xét được bài đọc, bài nói của bạn từ đó học sinh rút kinh nghiệm cho bài nói của mình. Phần luyện nói trong các bài tập đọc được kí hiệu là “N” phần này giúp phát triển ngôn ngữ cho trẻ, rèn cho các em nói năng tự tin. Trong phần này kĩ năng nói của học sinh được rèn rất phong phú, yêu cầu luyện nói có thể là : - Nối các từ ngữ để thể hiện sự hiểu biết nội dung. (VD: Xếp các ô chữ thành câu nói đúng về chú sẻ trong bài -Sách TV1,tập 2/71) -Trả lời câu hỏi.(VD :Vì sao bạn thích đi học? - Sách TV1, tập 2/104) -Nói tiếp câu dở dang. (VD: Nói về sen - Sách TV1, tập 2 /92) -Nói một vài câu kể (VD:Hãy kể với cha mẹ : Hôm nay ở lớp em đã ngoan thế nào - Sách TV1, tập 2/101) -Nói về con vật, cây cối em biết -Hỏi và trả lời (VD: Hỏi nhau về trường lớp.- Sách TV1, tập 2 /47) -Tập nói lời chào, mời (VD: Nói lời chào hỏi của Minh : Khi gặp bác đưa thư, khi mời bác uống nước.-Sách TV1, tập 2/137) -Hát (VD: Hát bài về con công- Sách TV1, tập 2/98) Trong phần này, để rèn cho học sinh cách diễn đạt bằng những câu nói, câu kể tôi thường yêu cầu học sinh nhận xét bài nói của bạn đã đúng chưa và chỉ ra lỗi sai của bạn và yêu cầu em nói sai sửa lại câu sai của mình. Nếu học sinh không tự sửa được giáo viên nên yêu cầu học sinh khác sửa giúp bạn. Giáo viên là người nhận xét cuối cùng cho học sinh, tránh trường hợp giáo viên làm hộ, làm thay học sinh. Để rèn cho học sinh có kĩ năng đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi tốt, tôi hướng cho học sinh làm quen với thảo luận cặp. Qua việc thảo luận cặp số học sinh được nói cũng nhiều hơn. Ngay từ những bài đầu, tôi hướng dẫn cho từng cặp học sinh cách hỏi và trả lời. Để học sinh có thể hỗ trợ nhau, tôi sắp xếp một em có kĩ năng nói khá với một em nói kém hơn, để tránh tình trạng có cặp học sinh không biết cách hỏi và trả lời làm cho việc thảo luận không có kết quả. Ngoài ra, khi thảo luận những học sinh có kĩ năng kém khi được nghe bạn nói sẽ học tập ở bạn của mình để nói tốt hơn. Thời gian thảo luận của học sinh không nhiều, khoảng 1-2 phút nên giáo viên cần theo dõi các nhóm thảo luận để có thể kịp thời giúp đỡ, nhắc nhở các em. III. Một số lỗi học sinh thường mắc khi nói mà giáo viên cần sửa Trong câu của học sinh có từ sai VD: Trong bài 36 - chủ đề luyện nói là “ Chạy, bay, đi bộ, đi xe”.Học sinh lớp tôi đã sai khi nói: “Máy bay đi trên không.” Từ sai trong câu trên là “đi”.Với trường hợp này giáo viên nên gọi học sinh khác nhận xét lỗi sai của bạn, và cho học sinh nói sai sửa lại câu nói của mình. Trong câu này từ sai có thể thay bằng từ “bay” hoặc “lượn”. 2.Câu nói của học sinh không đúng với chủ đề của bài VD: Trong bài 81/ 164, với chủ đề luyện nói “Giữ gìn sách vở” Một học sinh lớp tôi đã nói một câu không đúng với chủ đề: “Bên ngoài cửa sổ có một cái cây.”Với trường hợp này tôi gọi học sinh khác nhận xét câu của bạn và cho học sinh nhắc lại chủ đề của bài và yêu cầu học sinh nói lại câu khác đúng với chủ đề. 3.Phần nói của học sinh mới chỉ là một từ hoặc cụm từ VD: Trong bài 35/ 72 - Với chủ đề “Chuối, bưởi,vú sữa”. Một học sinh lớp tôi đã nói : “Quả bưởi”. Để giúp em đó sửa câu này tôi gợi ý cho học sinh nói tiếp bằng câu hỏi: “Quả bưởi có màu gì?" và học sinh sẽ nói tiếp được câu “Quả bưởi có màu vàng.” Vậy với việc gợi ý bằng các câu hỏi bạn sẽ giúp học sinh sửa được các lỗi như trên. 4.Trong phần ôn vần, học sinh cũng được luyện nghe- nói khi nói câu có vần vừa ôn.Với một số vần giống nhau về cách phát âm nhưng khác nhau về cách viết học sinh rất dễ nhầm lẫn khi tìm tiếng, từ, câu. VD: Trong phần ôn vần: yêu- iêu. Khi tôi yêu cầu học sinh: “Hãy nói câu có vần iêu”. Một học sinh lớp tôi đã nói: “Em yêu bố mẹ.”Câu nói này của học sinh có tiếng có vần “yêu” nhưng không đúng với yêu cầu của giáo viên. Trong trường hợp này tôi ghi lại câu nói của học sinh lên bảng sau đó cho học sinh nhận xét sửa sai. Để tránh tình trạng sai như vậy trong bước giới thiệu vần ôn giáo viên cần giới thiệu cho học sinh biết luật chính tả: Khi tiếng có âm đầu thì viết bằng vần “iêu”, tiếng không có âm đầu thì viết bằng vần “yêu”. Phần hướng dẫn này sẽ giúp học sinh không bị nhầm lẫn như trên nữa. C. Phần kết luận Trong chương trình Tiếng Việt mới, học được hình thành và rèn luyện cả bốn kĩ năng: Nghe, đọc, nói, viết. Trong các chương trình trước đây dường như kĩ năng nghe- nói bị xem nhẹ, thậm chí bỏ qua. Nhưng với chương trình mới này, tôi nhận thấy kĩ năng nghe nói được chú ý đúng mức. Học sinh được phát triển khả năng nghe nói của mình một cách đúng hướng, với hệ thống bài học của mỗi phần có đặc trưng riêng. Trên đây là một số ý kiến của riêng tôi về việc dạy và rèn kĩ năng nghe- nói cho học sinh lớp1. Nó đã đem lại những kết quả đáng kể cho học sinh của tôi. Nhưng quá trình rèn kĩ năng nghe - nói cho học sinh là một quá trình lâu dài và liên tục.Trong khuôn khổ có hạn, khả năng và vốn kinh nghiệm của tôi còn ít nên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong được sự góp ý bổ sung của Ban giám hiệu và đồng nghiệp để chuyên đề của tôi dược hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Lại Xuân, ngày 10 tháng 2 năm 2007 Người thực hiện: Hoàng Thuý Mai

File đính kèm:

  • docSKKN.doc