Tập làm văn là một phân môn thực hành của môn Tiếng Việt ở cấp tiểu học, có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình xét trên hai phương diện:
- Phân môn Tập làm văn tận dụng các hiểu biết và kĩ năng về tiếng Việt do các phân môn khác rèn luyện hoặc cung cấp, đồng thời góp phần hoàn thiện chúng.
- Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn bản (nói và viết). Qua đó góp phần hiện thực hoá mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học tiếng Việt là dạy cho học sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học
Nhiệm vụ cơ bản và chủ yếu của phân môn tập làm văn là giúp học sinh sau một quá trình luyện tập lâu dài và có ý thức, dần dần nắm được cách viết các bài văn theo nhiều loại phong cách khác nhau do chương trình quy định.
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 8792 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh lớp 3 trong giờ Tập làm văn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tập làm văn là một phân môn thực hành của môn Tiếng Việt ở cấp tiểu học, có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình xét trên hai phương diện:
- Phân môn Tập làm văn tận dụng các hiểu biết và kĩ năng về tiếng Việt do các phân môn khác rèn luyện hoặc cung cấp, đồng thời góp phần hoàn thiện chúng.
- Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn bản (nói và viết). Qua đó góp phần hiện thực hoá mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học tiếng Việt là dạy cho học sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học …
Nhiệm vụ cơ bản và chủ yếu của phân môn tập làm văn là giúp học sinh sau một quá trình luyện tập lâu dài và có ý thức, dần dần nắm được cách viết các bài văn theo nhiều loại phong cách khác nhau do chương trình quy định.
Thực hiện nhiệm vụ rèn luyện kĩ năng sản sinh văn bản ở dạng nói hay viết, phân môn Tập làm văn đồng thời góp phần cùng các môn học khác rèn luyện tư duy, phát triển ngôn ngữ và hình thành nhân cách cho học sinh.
Nhưng dạy Tập làm văn ở tiểu học như thế nào cho phù hợp và có hiệu quả là điều không đơn giản. Thực tế dạy học ở địa phương chúng tôi thời gian qua cho thấy việc dạy và học Tập làm văn còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế chưa được giải quyết thấu đáo. Kết quả làm văn của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của viếc sản sinh văn bản. Các em chưa nắm chắc được công cụ quan trọng nhất của loài người là ngôn ngữ trong hoạt động hành chức. Tức là học sinh chưa nắm chắc các kĩ năng tạo lập văn bản để phục vụ cho giao tiếp và học tập. Điều này sẽ làm hạn chế rất lớn đến sự phát triển của các em.. Giáo viên tiểu học cũng còn lúng túng khi dạy Tập làm văn, họ rất “ngán ngại” dạy phân môn này. Bởi vì bản thân họ cũng còn đang loay hoay tìm câu trả lời: Làm thế nào để học sinh biết nói đúng, nói hay trong giờ học Tập làm văn, làm thế nào để giúp học sinh khắc phục lỗi dùng từ, viết câu, dựng đoạn khi viết một bài tập làm văn,…
Với vai trò là một giáo viên đang dạy tiểu học, trăn trở trước những khó khăn, hạn chế vừa nêu trên, bản thân tôi tự nhận thấy mình cần phải nghiên cứu, học hỏi thêm rất nhiều để mỗi giờ dạy Tập làm văn của mình ngày càng đạt hiệu quả cao, thu hút, khơi gợi được năng lực làm văn của từng học sinh.
Xuất phát từ những lí do vừa được trình bày trên đây, chúng tôi mạnh dạn chọn “Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh lớp 3 trong giờ Tập làm văn” làm đề tài cho bài tập nghiệp vụ sư phạm của mình với mong muốn qua đề tài này góp phần nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 3 ở địa phương.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2.1 Đối tượng nghiên cứu
- Nội dung, phương pháp dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3.
- Thực trạng dạy học phân môn Tập làm văn ở đối tượng là học sinh lớp 3 (đa số là người dân tộc Khmer) thuộc trường Tiểu học Bàn Tân Định 3, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.
- Những biện pháp dạy học Tập làm văn lớp 3 đã mang lại hiệu quả cao đang áp dụng ở địa phương.
2.2 Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên chúng tôi chỉ tổ chức thực hiện các biện pháp đề xuất ở nội dung rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 3 trong giờ Tập làm văn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
3.1 Đọc và phân tích các tài liệu dạy học
Chúng tôi đã đọc và phân tích các tài liệu sau:
- Đọc và phân tích sách giáo khoa, sách giáo viên, vở bài tập Tiếng Việt và các tài liệu chỉ đạo dạy học phân môn Tập làm văn.
- Đọc và phân tích các sách tham khảo, các bài báo có nội dung liên quan đến đề tài như; tạp chí Giáo dục, tạp chí Thế giới trong ta, tạp chí Khoa học giáo dục, chuyên san Giáo dục tiểu học,…
- Đọc và phân tích các bài viết sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp.
- Đọc các giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học.
3.2 Khảo sát thực tế dạy học
Chúng tôi đã tiến hành điều tra thực trạng dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3 tại trường Tiểu học Bàn Tân Định 3, huyện Giồng Riềng,tỉnh Kiên Giang. Qua đó tổng hợp, đánh giá và phân tích nguyên nhân của thực trạng.
3.3 Dạy thực nghiệm
Chúng tôi soạn giáo án và tổ chức dạy thực nghiệm bài “Kể lại bưổi đầu đi học (tuần 6)
3.4 Kiểm tra đánh giá
Chúng tôi soạn đề và tổ chức cho học sinh làm bài kiểm tra để đánh giá kết quả sau khi dạy thực nghiệm.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Nội dung dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3
Nội dung kiến thức cần truyền đạt cho học sinh
Tiếp tục đường hướng chung là hình thành và phát triển các kĩ năng giao tiếp cho học sinh, nhưng so với lớp 2, ở lớp 3, học sinh được dạy kĩ năng giao tiếp ở bậc cao hơn: Không phải là các nghi thức lời nói thông thường như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi… mà là các hoạt động giao tiếp có tính chất chính thức như viết thư, làm đơn, khai giấy tờ, hội họp (tổ chức, xây dựng chương trình, điều khiển và phát biểu trong cuộc họp…), giới thiệu hoạt động, viết quảng cáo, làm báo cáo…
Tăng cường rèn luyện kĩ năng nói thông qua hình thức nghe - kể (trung bình 3 tuần/ 1 tiết nghe và kể lại một mẩu chuyện, chủ yếu là chuyện vui) và tăng cường các hình thức sinh hoạt tập thể tự nhiên như họp nhóm, họp tổ, giới thiệu tranh ảnh về các cảnh đẹp đất nước cho lớp hoặc tổ nghe…
Chương trình phân môn Tập làm văn lớp 3 cũng gồm 15 đơn vị học (như của cả môn Tiếng Việt), mỗi đơn vị học gắn với một chủ điểm, học trong 2 tuần (trừ chủ điểm “Ngôi nhà chung”). Mỗi tuần có 1 tiết Tập làm văn. nội dung dạy học Tập làm văn lớp 3 bao gồm:
- Trang bị cho học sinh một số hiểu biết và kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày như: điền vào các giấy tờ in sẵn, viết thư, làm đơn, tổ chức họp và phát biểu ý kiến trong cuộc họp, giới thiệu hoạt động của tổ, lớp và trường, ghi chép sổ tay.
- Tiếp tục rèn luyện kĩ năng nói viết, kĩ năng nói thông qua kể chuyện và miêu tả: kể một sự việc đơn giản, tả sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi.
- Rèn luyện kĩ năng nghe thông qua các bài tập nghe - kể và các hoạt động học tập trên lớp.
* Phân loại các bài tập Tập làm văn ở sách giáo khoa Tiếng Việt 3
a) Bài tập nghe:
+ Nghe và kể lại một mẩu chuyện ngắn.
+ Nghe và nói lại một mẩu tin.
+ Nghe báo cáo.
b) Bài tập nói:
+ Tổ chức, điều khiển cuộc họp, phát biểu trong cuộc họp.
+ Kể hoặc tả miệng về người thân, gia đình, trường lớp, quê hương, lễ hội, hoạt động thể thao – văn nghệ…
+ Thảo luận về bảo vệ môi trường, về tình hình học tập và họct động của lớp.
+ Báo cáo về hoạt động.
+ Giới thiệu về hoạt động của tổ, lớp…
+ Nói về Đội thiếu niên tiền phong, thành thị, nông thôn, người lao động trí óc,…
c) Bài tập viết:
+ Điền vào giấy tờ in sẵn.
+ Viết một số giấy tờ theo mẫu.
+ Viết thư
+ Ghi chép sổ tay.
+ Kể hoặc tả ngắn về người thân, gia đình, trường lớp, quê hương, lễ hội, hoạt động thể thao – văn nghệ, thành thị, nông thôn…
1.2 Các phương pháp dạy học chủ yếu
Trong dạy học Tiếng Việt nói chung, dạy học Tập làm văn nói riêng có ba phương pháp được sử dụng rộng rãi là :
+ Phương pháp luyện tập theo mẫu, ví dụ giáo viên hướng dẫn học sinh làm mẫu một phần bài tập để giúp các em nhận biết đặc điểm (dạng) bài tập và cách thực hiện bài tập đó.
+ Phương pháp phân tích ngôn ngữ : Rất thường được sử dụng trong giờ Tập làm văn. Chẳng hạn khi hướng dẫn học sinh nhận xét, giáo viên giúp học sinh phân tích ngữ liệu để rút ra các kiến thức, kĩ năng cần ghi nhớ để áp dụng thực hành giải bài tập. Hoặc khi hướng dẫn học sinh nhận xét, chữa bài làm, giáo viên cũng thường giúp học sinh phát hiện và phân tích các yếu tố ngôn ngữ như: cách dùng từ, cách đặt câu, lỗi viết sai chính tả,…để rút kinh nghiệm và ngày càng hoàn thiện kĩ năng làm văn.
+ Phương pháp giao tiếp : Thông qua việc dạy tiếng dựa vào lời nói, vào những thông báo sinh động, vào giao tiếp ngôn ngữ, giáo viên hướng học sinh vào những tình huống để tạo ra sản phẩm giao tiếp (là kết quả bài nói hay bài viết làm văn của học sinh).
Bên cạnh việc xác định phương pháp dạy học cho từng bài học, giáo viên cũng cần lựa chọn những biện pháp dạy học cụ thể
Y Biện pháp dạy học chủ yếu
a) Hướng dẫn học sinh làm bài tập
- Giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập (bằng câu hỏi, bằng lời giải thích).
- Giúp học sinh chữa một phần của bài tập làm mẫu (một học sinh chữa mẫu trên bảng lớp hoặc cả lớp làm bài vào vở, vở bài tập).
b) Thực hành luyên tập
- Tuỳ theo các dạng bài tập, giáo viên tổ chức cho học sinh thực hành giải các bài tập bằng các hình thức học tập khác nhau: cá nhân, thảo luận cặp đôi, thảo luận nhóm, tổ chức trò chơi,…
- Qua trình thực hành giải bài tập, giáo viên cần lưu ý giúp học sinh nắm được các bước để thực hành giải các bài tập cụ thể chứ không phải chỉ quan tâm đến đáp án cuối cùng.
- Tổ chức cho học sinh trao đổi, nhận xét kết quả, rút ra những điểm ghi nhớ về kiến thức trong mỗi dạng bài tập cụ thể.
c) Đánh giá kết quả thực hành luyện tập thực hành ở lớp, hướng dẫn hoạt động tiếp nối (ở ngoài giờ, sau tiết học)
- Hướng dẫn học sinh nhận xét kết quả của bạn, tự đánh giá kết quả của bản thân trong quá trình luyện tập.
- Nêu yêu cầu, hướng dẫn học sinh thực hiện những hoạt động tiếp nối nhằm củng cố kết quả thực hành luyện tập ở lớp (viết bài ở nhà, thực hành giao tiếp ngoài lớp học, sử dụng kĩ năng đã học vào thực tế cuộc sống…)
1.3 Các kĩ năng học sinh cần đạt
a) Về kiến thức
- Biết cấu tạo ba phần của bài văn: (nhận biết các phần mở bài, thân bài, kết bài qua các bài tập đọc và qua các câu chuyện được học).
- Bước đầu nhận biết đoạn văn và ý chính của đoạn văn (biết tìm ý chính của một đoạn văn đã đọc theo gợi ý; lựa chọn đầu đề cho đoạn văn).
- Bước đầu nhận biết cấu tạo của một số văn bản thông thường (nhận biết các phần của bức thư, lá đơn, báo cáo đơn giản về công việc).
b) Về kĩ năng
- Biết viết đơn, viết tờ khai theo mẫu; biết viết thư ngắn để báo tin tức hoặc hỏi thăm người thân.
- Viết được đoạn văn kể, tả đơn giản (6 – 8 câu) theo gợi ý.
- Biết kể một đoạn truyện hoặc một câu chuyện đã đọc, đã nghe.
- Nói được một đoạn đơn giản về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh hoặc câu hỏi.
- Bước đầu biết phát biểu ý kiến trong cuộc họp (nêu ý kiến cá nhân, nhận xét ý kiến của bạn trong các tiết học trên lớp và trong sinh hoạt tập thể).
- Biết giới thiệu các thành viên, các hoạt động của tổ, của lớp.
1.4 Giới thiệu kiểu bài được lựa chọn trong đề tài
Như trong tên đề tài đã nói, chúng tôi tập trung nghiên cứu những đặc điểm về kĩ năng nói cần rèn luyện cho học sinh lớp 3 trong giờ Tập làm văn. Để giúp cho học sinh luyện tập tốt trong những bài tập tập làm văn nói, giáo viên nên lưu ý một số nội dung:
- Khi nói cần hết sức bình tĩnh, tự tin. Không bình tĩnh thì không thể nói năng lưu loát. Không tự tin thì không thể truyền niềm tin của mình sang cho ngưới khác. Vì thế cần rèn cho học sinh thái độ bình tĩnh, tự tin, có như thế mới có thể đạt hiệu quả giao tiếp tốt,
- Trong khi nói, cần luyện cho học sinh thói quen chú ý theo dõi diễn biến tâm lí, sự hứng thú của người nghe đối với bài nói của mình để có thể điều chỉnh kịp thời cách nói hoặc một phần nào đó nội dung nói cho phù hợp với nhu cầu, với những đòi hỏi và hứng thú của người nghe.
- Rèn cho học sinh thức tôn trọng những nghi thức lời nói trong giao tiếp. Tránh nói những lời không đúng chỗ, tránh những cử chỉ thừa, những thói quen xấu có ảnh hưởng đến hiệu lực của lời nói. Cũng cần hết sức tránh những thái độ nóng nảy, những lời nói gay gắt khi không đồng tình với những ý kiến của người khác. Vấn đề văn hoá trong lời nói, trong giao tiếp phải hết sức được tôn trọng trong quá trình hội thoại.
- Rèn ngữ điệu nói cho học sinh. Ngữ điệu có ảnh hưởng lớn tới chất lượng của bài nói. Nói đều đều, nói to quá hay nhỏ quá, nói đứt quãng, không liên tục, nói hết ý trước mà vẫn không tiếp nối được ý sau… đều hạn chế kết quả giao tiếp. Vì thế, tuỳ thuộc vào điều kiện giao tiếp cụ thể, người nói cần phải chọn giọng nói sao cho phù hợp với từng thời điểm nói.
- Cần rèn cho học sinh: khi nói, cần tránh lối nói như đọc thuộc lòng bài văn. Bởi vì đặc điểm của lời nói miệng khác hẳn với lời viết. Nói mà như đọc, lời nói sẽ mất tính tự nhiên và gây ức chế ở người nghe, tạo ra một lực cản lớn trong việc tiếp thu nội dung bài nói. Hơn nữa, việc đọc như vậy sẽ làm giảm sự quan sát, theo dõi đối tượng giao tiếp và vì thế trong những thời điểm nào đó, ngưới nói sẽ không điều chỉnh kịp thời nội dung nói của mình.
Chương 2. những thuận lợi và khó khăn trong dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3 tại trường Tiểu học Bàn Tân Định 3, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang
Để hoàn thành bài tập nghiên cứu nghiệp vụ sư phạm này, chúng tôi đã tiến hành tìm hiểu, điều tra, khảo sát tại trường Tiểu học Bàn Tân Định 3, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang. Chúng tôi đã tiến hành trao đổi, phỏng vấn Ban giám hiệu nhà trường và các giáo viên giảng dạy khối lớp 3. Nội dung trao đổi, phỏng vấn tập trung vào các vấn đề:
- Đánh giá thực trạng dạy học Tập làm văn lớp 3 của nhà trường hiện nay.
- Các biện pháp, kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy học Tập làm văn lớp 3.
- Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng dạy học Tập làm văn lớp 3 như hiện nay.
Bên cạnh đó, chúng tôi đã tiến hành dự giờ các đồng nghiệp trong khối lớp 3, đặc biệt chúng tôi quan tâm tìm hiểu các biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh trong giờ Tập làm văn. Đồng thời chúng tôi cũng đã khảo sát chất lượng, quan sát và trao đổi trực tiếp với học sinh để đánh giá kĩ năng nói của của các em. Kết quả tìm hiểu, điều tra giúp chúng tôi có những nhận xét sau:
2.1 Những thuận lợi
a) Về nhà trường:
+ Ban giám hiệu nhà trường rất quan tâm đến chất lượng giáo dục học sinh, thường xuyên dự giờ, thăm lớp; tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn định kì để bàn bạc, trao đổi kinh nghiệm dạy học; tổ chức thao giảng, mở chuyên đề để giúp giáo viên ngày càng hoàn thệin hơn các kĩ năng dạy học.
b) Về giáo viên:
+ Tất cả giáo viên đều đã tham dự đầy đủ các lớp tập huấn, bồi dưỡng về dạy học theo chương trình và sách giáo khoa mới. Nhìn chung, đa số giáo viên dạy lớp 3 nắm được các yêu cầu cơ bản về nội dung và phương pháp dạy học Tập làm văn theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học.
+ Một số giáo viên chịu khó tìm tòi, suy nghĩ nên khi tổ chức giờ dạy thể hiện được sự sáng tạo, phù hợp với điều kiện dạy học và đặc điểm học sinh.
c) Về học sinh: Các em đã làm quen với việc học Tập làm văn theo chương trình và sách giáo khoa mới từ năm lớp 2 nên thích nghi nhanh với nội dung và phương pháp dạy học Tập làm văn lớp 3.
2.2 Những khó khăn
a) Về nhà trường:
+ Cơ sở vật chất nhà trường còn gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức học 2 buổi/ ngày. Các trang thiết bị phục vụ cho giờ dạy Tập làm văn còn thiếu và chưa đồng bộ.
b) Về giáo viên:
+ Một số giáo viên chưa trang bị tốt cho bản thân những kiến thức cơ bản để ứng dụng vào dạy học Tập làm văn như: các dạng lời nói, từ vựng - ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ pháp văn bản, phong cách ngôn ngữ, lí luận văn học.
+ Giáo viên chưa nắm vững các cơ sở lí luận về lí thuyết hoạt động lời nói để ứng dụng vào dạy Tập làm văn. Từ đó không hiểu quy trình sản sinh ngôn bản nên khi tổ chức giờ dạy đã không giúp học sinh hình thành được các kĩ năng làm văn cơ bản. Đặc biệt là kĩ năng nói.
+ Việc vận dụng quy trình giảng dạy vào từng giờ học cụ thể còn cứng nhắc, bám máy móc vào sách giáo viên, không phù hợp với tình hình cụ thể và trình độ học sinh. Việc đổi mới phương pháp dạy học mang nặng tính hình thức.
+ Về mặt nội dung dạy học, giáo viên còn quá lệ thuộc vào các đáp án gợi ý trong sách giáo viên. Khi xuất hiện tình huống kết quả thực hiện một yêu cầu hay nhiệm vụ nào đó của bài học của học sinh khác với đáp án đó thì giáo viên tìm cách “gò” học sinh về đáp án của sách. Hoặc khi học sinh thực hành luyện tập dựng đoạn văn, giáo viên hay đưa ra bài mẫu và yêu cầu học sinh làm giống như mẫu đó. Như thế đã làm thui chột tư duy sáng tạo của các em và cũng đã vi phạm nguyên tắc phát triển lời nói trong dạy học Tiếng Việt.
+ Giáo viên chưa lường trước được những khó khăn của học sinh trong quá trình thực hiện các bài tập nên không chủ động trong khâu xử lí các tình huống sư phạm phát sinh. Ví dụ: để có thể thực hiện được bài tập đó thì trước đó học sinh cần phải chuẩn bị những gì, cần phải nắm chắc những kiến thức, kĩ năng gì. Trường hợp học sinh ở vùng sâu, vùng khó khăn thì giáo viên cần phải chuẩn bị gì để giúp các em trong quá trình học tập.
+ Nội dung dạy học Tập làm văn lớp 3 thựcchất là những tình huống giao tiếp, nhưng trong tiết dạy, giáo viên chưa biết tạo ra môi trường giao tiếp thuận lợi (kể cho ai nghe, viết cho ai đọc…). Từ đó hạn chế nhu cầu giao tiếp của các em.
- Về học sinh:
+ Là học sinh vùng sâu, đa số là người dân tộc Khmer học tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ hai, các em ít có điều kiện để mở rộng vốn hiểu biết, ít giao lưu nên môi trường giao tiếp hạn chế. Điều này dẫn đến hệ quả là vốn sống, vốn ngôn ngữ của các em cũng chưa được phát triển tốt, làm hạn chế kĩ năng tìm hiểu, kĩ năng biểu đạt.
+ Do cách dạy của giáo viên chưa kích thích hứng thú học tập của các em, đôi khi còn mang tính chất áp đặt nên hầu hết học sinh rất ngán ngại khi học giờ Tập làm văn.
+ Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy các kĩ năng làm văn của các em còn rất yếu. Việc lựa chọn và sử dụng từ chưa chính xác ; việc đặt câu chưa hoàn chỉnh, chưa rõ ý diễn đạt ; chưa biết cách liên kết các câu thành đoạn, liên kết đoạn thành bài, thường hay xuất hiện những câu lạc, câu sai với chủ đề đang nói (hoặc viết) ; bố cục bài văn còn lộn xộn; những yêu cầu về lời nói trong hội thoại của học sinh chưa đạt yêu cầu mong muốn. Bên cạnh đó, kĩ năng phân tích, kiểm tra kết quả bài làm của bạn và của bản thân học sinh còn hạn chế rất nhiều. Hầu như các em chưa biết cách tự chữa lỗi viết văn.
+ Ngoài ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, thực tế dạy học ở địa phương chúng tôi vẫn tồn tại một bộ phận học sinh bị hổng kiến thức và kĩ năng tiếng Việt. Đến lớp 3 mà các em đọc, viết chưa thành thạo.
Với kết quả khảo sát trên đây chúng tôi cho rằng : Việc giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 3 tại trường Tiểu học Bàn Tân Định 3 chưa đảm bảo vững chắc chất lượng dạy làm văn theo yêu cầu về chuẩn kiến thức, kĩ năng do Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành. Vì thế việc nghiên cứu, đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn cần được tiến hành thường xuyên.
Chương 3. Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh lớp 3 trong giờ Tập làm văn
Mục 1. Đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 3 trong giờ Tập làm văn
Chuẩn bị lên lớp
Giáo viên
a) Xác định mục đích yêu cầu của bài
Xác định mục đích yêu cầu của bài, mục đích của từng bài tập nhằm rèn luyện kĩ năng nào hoặc hình thành kiến thức gì về tập làm văn ; quan hệ giữa bài tập đó với các bài tập khác trong tiết học (kể cả quan hệ giữa bài tập đó với các bài tập khác ở những giờ học trước đó trong phân môn Tập làm văn hoặc phân môn khác).
Việc xác định rõ mục đích của bài tập sẽ giúp người dạy định hướng và có kế hoạch tổ chức thực hiện các họat động sao cho các hoạt động đó đều hướng tới đạt mục đích yêu cầu.
Ví dụ : Bài tập làm văn số 1 trang 11 sách giáo khoa Tiếng Việt 3 tập 1 : Hãy nói những điều em biết về Đội thiếu niên Tiền Phong Hồ Chí Minh.
Gợi ý :
a) Đội thành lập ngày nào?
b) Những đội viên thiếu niên tiền phong đầu tiên của Đội là ai?
c) Đội được mang tên Bác Hồ từ khi nàơ?
* Mục đích của bài tập này là nhằm rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh về một đề tài theo những câu hỏi gợi ý (câu hỏi gợi ý nhằm giúp học sinh định hướng chuẩn bị ý, sắp xếp các ý theo trình tự câu hỏi để dựa vào đó nói thành đoạn văn).
* Bài tập 1 và bài tập 2 trong tiết học rèn 2 kĩ năng 2 nội dung khác nhau. Vì vậy khối lượng công việc nhiều, người dạy phải tính toán sao cho hợp lí mới có thể hoàn thành nhiệm vụ của bài dạy.
Nội dung luyện nói ở bài tập 1 chưa được chuẩn bị ở các bài học trong tuần. Học sinh tuần đầu lớp 3, về cơ bản chưa có những hiểu biết về Đội; vùng sâu, vùng xa khó tìm tư liệu, vì vậy người dạy phải tính trước để khắc phục khó khăn trên. Ví dụ: giáo viên soạn tư liệu để cung cấp cho học sinh, yêu cầu học sinh về nhà chuẩn bị trước các tư liệu bằng cách tìm đọc sách báo hoặc hỏi các anh chi lớp trên v.v…
b) Giáo viên phải giải mẫu các bài tập; xác định các thao tác cần thực hiện theo trình tự trước sau khi làm bài tập để sẽ hướng dẫn học sinh khi lên lớp. Ví dụ: Với bài tập 1 đã nêu ở mục 1.1
+ Giáo viên giải mẫu: Trả lời 3 câu hỏi gợi ý theo trình tự và nói thành đoạn văn giới thiệu về Đội.
+ Xác định các thao tác cần thực hiện khi làm bài tập:
Thao tác 1: Đọc bài tập và xác định yêu cầu.
Thao tác 2: Trả lời vắn tắt lần lượt từng câu hỏi (dựa vào tư liệu hoặc suy nghĩ cá nhân hoặc trao đổi,… tuỳ theo trình độ học sinh.)
Thao tác 3: dựa vào các ý vừa trả lời, tập nói thành đoạn văn (nói liền mạch về nội dung giới thiệu Đội thiếu niên tiền phong chứ không phải trả lời rời rạc từng câu hỏi).
c) Giáo viên lường trước những khó khăn, những lỗi của học sinh khi giải bài tập để chuẩn bị cách sửa chữa đưa về lời giải đúng. Thực chất là khi học sinh không giải được bài tập thì giáo viên phải phân cắt nhiệm vụ thành các bước nhỏ hơn, xác định cho các em các bước thực hiện và làm lại các bước đó. Ví dụ: bài tập 1 đã nêu ở trên:
+ Khó khăn của học sinh là không có tư liệu để trả lời các câu hỏi gợi ý.
+ Không nắm được nhiệm vụ của mình là: trả lời các câu hỏi mói7 chỉ là chuẩn bị, còn nhiệm vụ phải hoàn thành là dựa vào các ý đã trả lời để nói liền mạch thành đoạn văn giới thiệu về Đội.
+ Lỗi học sinh thường mắc phải là không trả lời được câu hỏi chuẩn bị (cách khắc phục của giáo viên: cung cấp tư liệu).
+ Lỗi thứ hai là học sinh trả lời được từng câu hỏi nhưng không nói được thành đoạn vn (chuẩn bị biện pháp: giáo viên phải giúp Hs nắm được nhiệm vụ: dựa vào ý đã trả lời hoặc đã chuẩn bị để nói liền mạch thành đoạn văn, không nói rời rạc từng câu như trả lời câu hỏi, vì em đang làm nhiệm vụ giới thiệu về Đội cho người khác nghe. Nếu học sinh bí từ ngữ để diễn đạt thì giáo viên phải chuẩn bị từ ngữđể tiếp lời cho các em).
d) Giáo viên cần căn dặn học sinh chưẩn bị và có kiểm tra, động viên khen ngợi những em chuẩn bị bài tốt.
Sau khi đã chuẩn bị như trên mới bắt tay vào soạn giáo án. Đó phải là một giáo án có dự kiến những khó khăn, lỗi của học sinh khi làm bài tập và kèm theo biện pháp giúp đỡ các em, để các em có thể tự làm được bài tập ở các mức độ khác nhau.
1.1.2 Học sinh
Học sinh có ý thức và thói quen chuẩn bị bài, có hứng thú nhiệt tình học tập (điều này giáo viên có nhiệm vụ xây dựng cho các em). Ví dụ:
+ Để chuẩn bị cho bài học, học sinh cần chuẩn bị trước những công việc gì (đọc, sưu tầm, liên hệ các bài nào đã học…)
+ Cho học sinh thấy được ích lợi của những công việc đã chuẩn bị (nếu chuẩn bị bài tốt thì kết quả học tập của các em sẽ tốt…)
+ Tạo nhu cầu, động cơhọc tập để các em thích học phân môn Tập làm văn, ngày càng bớt đi sự e ngại. Chẳng hạn: sự biểu dương khen ngợi kịp thời. Giáo viên cần phải tạo ra những tình huống giao tiếp, tạo ra môi trường giao tiếp thuận lợi (sự thân thiện, sự chú ý của các bạn…). Điều quan trọng là những tình huống được tạo ra phải chân thực, không gượng ép, có sức lôi cuốn, hấp dẫn, kích thích nhu cầu nói năng ở các em. Từ sự ham thích sẽ giúp cho học sinh có ý thức chuẩn bị bài tốt hơn.
1.2 Tổ chức tốt các hoạt động dạy học trên lớp
Các bước lên lớp của giờ Tập làm văn hay các giờ học khác, bản chất là các bước tổ chức cho học sinh thực hiện các bài tập Tiếng Việt. Nó phải được tiến hành theo trình tự chung của việc tổ chức thực hiện bài tập Tiếng Việt và dựa vào đặc thù của phân môn Tập làm văn. Có thể thực hiện theo các bước sau:
1.2.1 Giup học sinh chuẩn bị nói (hoặc viết):
a) Giúp học sinh xác định yêu cầu của bài tập. Ở bước này, giáo viên cần phải giúp học sinh nắm vững yêu cầu của từng bài tập bằng câu hỏi gợi ý hoặc bằng lời giải thích. Ví dụ: trả lời câu hỏi gợi ý trong sách giáo khoa hoặc tìm ý, sắp xếp ý…
b) Ở khâu này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách thực hiện bài tập (trình tự các thao tác). Nếu bài tập xuất hiện lần đầu, giáo viên cần hướng dẫn trình tự cách làm thật chi tiết, tỉ mỉ; có thể cho học sinh khá giỏi làm mẫu một phần trước lớp rồi tổ chức nhận xét rút kinh nghiệm để các em có thể theo cách đó mà làm các ý còn lại của bài tập. Nếu bài tập đã xuất hiện nhiều lần, giáo viên có thể không cần hướng dẫn cách làm mà yêu cầu học sinh thực hiện, nhất là nêu cách làm dạng bài tập đó.
Đối với các bài tập yêu cầu kể hoặc nói về một sự việc mà không có câu hỏi gợi ý trong sách giáo khoa, giáo viên cần giúp học sinh định hướng bằng hệ thống câu hỏi gợi mở.
Nếu bài tập có liên quan đến nội dung va78n bản bài Tập đọc đã được học trước đó, giáo viên cần giúp học sinh liên hệ, nhớ lại những kiến thức cần thếit phục vụ cho việc thực hiện bài tập đó, đồng thời giáo viên cũng cần giúp học sinh huy động những vốn kiến thức của các phân môn khác như Luyện từ và câu, Chính tả… mà các em đã được trang bị tham gia vào quá trình thực hiện bài tập nêu trên.
Ở những lớp có nhiều học sinh yếu kém, giáo viên phải gợi mở, h
File đính kèm:
- TLV3.doc