Như chúng ta đã biết, mục tiêu của giáo dục trong đó hoạt động cơ bản là dạy học là hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Dạy học không chỉ đơn thuần cung cấp cho học sinh những tri thức và kinh nghiệm mà loài người đã tích luỹ được mà phải góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh theo mục tiêu đào tạo. Học sinh cùng được tham gia tích cực chủ động vào các hoạt động học tập thì các phẩm chất và năng lực cá nhân cá nhân sớm được hình thành và phát triển hoàn thiện. Năng động sáng tạo là những phẩm chất cần thiết trong cuộc sống hiện đại nó phải được hình thành ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường .
11 trang |
Chia sẻ: lephuong6688 | Lượt xem: 1068 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sử dụng dụng cụ, thiết bị thí nghiệm vật lý trong dạy học ở bậc trung học cơ sở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I - Đặt vấn đề.
Như chúng ta đã biết, mục tiêu của giáo dục trong đó hoạt động cơ bản là dạy học là hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Dạy học không chỉ đơn thuần cung cấp cho học sinh những tri thức và kinh nghiệm mà loài người đã tích luỹ được mà phải góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh theo mục tiêu đào tạo. Học sinh cùng được tham gia tích cực chủ động vào các hoạt động học tập thì các phẩm chất và năng lực cá nhân cá nhân sớm được hình thành và phát triển hoàn thiện. Năng động sáng tạo là những phẩm chất cần thiết trong cuộc sống hiện đại nó phải được hình thành ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường .
Chính vì lẽ đó trong các môn học nói chung và môn vật lí nói riệng, việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh đã được các giáo viên áp dụng từ nhiều năm nay, trong đó phương pháp tự nghiên cứu giúp học sinh tự học, tự sáng tạo được đánh giá là phương pháp có giá trị trí đức dục lớn nhất. Các thí nghiệm thực hiện theo phương pháp nghiên cứu vấn đề giúp học sinh tự học tự sáng tạo, khuyến khích các em tự tìm tòi phát hiên vấn đề qua đó giúp các em nắm chắc cả kiến thức lí thuyết lẫn kĩ năng thực hành. Để đạt được điều đó thì việc hướng dẫn học sinh sử dụng dụng cụ thí nghiệm và thực hiện các thí nghiệm trong mỗi bài học là rất quan trọng nó có thể quyết định đến việc thành công của tiết dạy .
Là một giáo viên dạy môn vật lí ở bậc trung học cơ sở, ta cần phải làm gì để có thể làm tốt được các thí nghiệm trên lớp đồng thời hướng dẫn học sinh thực hiện tốt được các thí nghiệm?
Qua thực tế giảng dạy bản thân tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm về vấn đề “Sử dụng dụng cụ thiết bị thí nghiệm vật lí trong dạy học ở bậc trung học cơ sở”. Xin được trao đổi cùng đồng nghiệp.
Phần II . Nội dung
I- Cơ sở lí luận:
Bộ môn vật lí là bộ môn khoa học thực nghiệm, các nội dung kiến thức mới được hình thành phần lớn thông qua các thí nghiệm, các tri thức vật lí là sự khái quát các kết quả nghiên cứu từ thực nghiệm và các hiện tượng diễn ra trong đời sống. Lứa tuổi học sinh học trung học cơ sở có tính hiếu động, tò mò thích tìm tòi khám phá tìm hiểu thế giới xung quanh nên các em rất thích làm thí nghiệm để được trực tiếp quan sát, theo dõi hiện tượng, tập làm những nhà khoa học nhỏ tuổi để tự nghiên cứu phát hiện vấn đề và do đó việc ghi nhớ kiến thức mới tốt hơn, nó tạo cho việc học tập của học sinh hứng thú và nhẹ nhàng hơn. Thông qua thí nghiệm, nhất là các thí nghiệm kèm theo màu sắc, âm thanh và các hiện tượng mới lạ sẽ kích thích mạnh hứng thú của học sinh, tạo điều kiện rèn luyện kĩ năng quan sát cẩn thận tỉ mỉ, kĩ năng lắp ráp dụng cụ thí nghiệm chính xác và tác phong làm việc khoa học; nó có sức thuyết phục lớn và tạo ra ở học sinh niềm tin vào bản chất của sự vật và hiện tượng, vào các quy luật của tự nhiên. Tạo điều kiện tốt để rèn luyện ở học sinh khả năng phân tích, so sánh, đối chiếu, trừu tượng, khái quát hóa, cũng như khả năng suy luận quy nạp trong quá trình xử lí kết quả thi nghiệm để rút ra kết luận, học sinh áp dụng kiến thức vào thực tế cũng sẽ tốt hơn. Mặt khác đa số trong các bài dạy, nếu không có thí nghiệm học sinh không có cơ sở để thưc hiện các thao tác tư duy và tiếp nhận kiến thức mới, nên phần lớn tri thức mà giáo viên muốn mang đến cho học sinh về bản chất là áp đặt. Chính cách dạy chay hoặc việc làm thí nghiệm không thành công là nguyên nhân của tình trạng chất lượng học tập của bộ môn thấp, và là sự tách rời lý thuyết với thực hành, giữa nhà trường với đời sống thực tế.
II- Thực trạng về vấn đề thực hiện thí nghiệm vật lí trong bài dạy.
Hiện nay, song song với việc đổi mới phương pháp dạy học, bộ giáo dục và đào tạo đã đưa về các trường những bộ dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho việc giảng dạy, nhưng thực tế còn có nhiều giáo viên ngại làm thí nghiệm, ngại triển khai cho học sinh làm thí nghiệm theo nhóm. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do thiết bị thí nghiệm chất lượng kém, có những thiết bị mới chỉ sử dụng một vài lần đã hỏng. Ví dụ như bộ mô đun lắp ráp mạch điện ở vật lí 7; máy phát điện xoay chiều ở vật lí 9; Bộ thí nghiệm về cân bằng lực - quán tính ( máy A tút ) ở lớp 8 ...Một số trang thiết bị còn thiếu chính xác như nhiệt kế, lực kế, đồng hồ vạn năngdẫn đến kết quả thí nghiệm giữa lí thuyết với thực tế khác xa nhau, thiếu tính thuyết phục đối với học sinh.Trang thiết bị phục vụ cho thí nghiệm còn thiếu thốn. Còn có sự không đồng bộ giữa việc hướng dẫn thí nghiệm ở sách giáo khoa với đồ dùng thí nghiệm thực tế ( ví dụ thí nghiệm bài lực điện từ lý 9). Cơ sở vật chất của các trường chưa đủ đáp ứng nhu cầu dạy học như hiện nay, Hầu hết các trường ở ngoại thành chưa có phòng học bộ môn, do đó tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm theo nhóm gặp nhiều khó khăn. Bài dạy thì dài ( nhất là phần điện học vật lý 9 ) do đó làm thí nghiệm theo nhóm khó đảm bảo thời gian trong một tiết học. Mặt khác học sinh còn chưa quen với việc sử dụng các thiết bị thí nghiệm ( nhất là học sinh có lực học trung bình, yêú) các em thường nghịch đồ dùng thí nghiệm và biến nó thành đồ chơi của riêng mình. Phòng thí nghiệm chưa được xắp xếp khoa học còn là kho chứa đồ dùng dạy học, việc lấy đồ dùng thí nghiệm chưa thuận tiện. Hiện nay nhiều trường chưa có phòng học bộ môn để tổ chức các giờ học vật lí, nên việc di chuyển thiết bị thí nghiệm từ phòng học của lớp này sang phòng học của lớp khác sẽ làm cho giáo viên và học sinh vừa vất vả lại mất nhiều thời gian, công sức vào việc lắp ráp thí nghiệm, giữ gìn, bảo quản dụng cụ thí nghiệm
Tất cả những nguyên nhân trên và nhiều nguyên nhân khác nữa đều ảnh hưởng lớn đến chất lượng sử dụng dụng cụ thí nghiệm và việc thực hiện các thí nghiệm vật lí dẫn đến chất lượng giáo dục trong các giờ dạy hiệu quả không cao.
III. Các giải pháp và ứng dụng.
1)Chuẩn bị điều kiện để thực hiện thí nghiệm.
Chúng ta biết rằng để có thể lên lớp một tiết dạy thành công thì việc chuẩn bị bài dạy vô cùng quan trọng, giáo viên cần nghiên cứu kĩ bài trong SGK sách giáo viên, tìm hiểu thêm kiến thức có liên quan ở các sách tham khảo đọc thêm bài dạy kế sau đó (nếu có liên quan ) để giúp chúng ta hiểu vấn đề toàn diện hơn, tìm hiểu xem kiến thức chính của bài thí nghiệm cần cung cấp cho học sinh là gì? Thí nghiệm trong bài học là do giáo viên làm hay học sinh làm? hay giáo viên và học sinh cùng làm từ đó bố trí thời gian làm thí nghiệm, chọn không gian cho việc làm thí nghiệm được hợp lí. Giáo viện phải chuẩn bị thí nghiệm cẩn thận trước khi đưa vào dạy học, cần suy nghĩ tới các tình huống thí nghiệm không thành công, từ đó tìm ra nguyên nhân để khắc phục.Giáo viên cần cho học sinh thu thập thông tin qua kênh chữ, kênh hình ở SGK để xác định mục tiêu của thí nghiệm , dụng cụ cần cho mỗi thí nghiệm là gì? cách thức tiến hành thí nghiệm, cách quan sát, ghi chép những hiện tượng diễn ra .
Để làm thí nghiêm thành công, hạn chế tới mức thấp nhất sự cố diễn ra ngoài ý muốn và đạt được kết quả thí nghiệm trong thời gian ngắn nhất thì trước khi cho các em làm thí nghiệm người giáo viên cần lưu ý học sinh một số điểm trong quá trình làm thí nghiệm. Ví dụ trong bài “ Lực đẩy ác si mét” phần “thí nghiệm kiểm tra” SGK vật lý 8, giáo viên cần lưu ý học sinh :
- Hiệu chỉnh lực kế cho đúng trước khi làm thí nghiệm.
- Bố trí thí nghiệm để lực kế dãn đều theo phương thẳng đứng.
- Quả nặng khi thả vào nước phải chìm hẳn và không chạm vào đáy, thành bình.
- Để cố định bình tràn, cần tráng nước ở các cốc B, A trước khi làm thí nghiệm
- Khi hứng nước, đổ nước từ cốc nọ sang cốc kia phải cẩn thận, tránh để nước rơi vãi dẫn đến thí nghiệm thiếu chính xác.
Việc lắp ráp dụng cụ thí nghiệm là rất cần thiết, tạo cho học sinh sự linh hoạt sáng tạo nên phần lớn các thí nghiệm giáo viên không nên lắp sẵn từ trước, mà phải để cho học sinh tự lắp ráp thí nghiệm .
Hiện nay với bộ thí nghiệm của học sinh các nhà sản xuất cũng đã tính toán đến thời gian và điều kiện lắp ráp của hoc sinh trong một tiết học, nên đã bố trí lắp ráp chúng thành bộ ví dụ như bộ thí nghiệm về tác dụng từ của dòng điện xoay chiều (thí nghiệm hình 35.2 + 35.3 SGK vật lý 9) hoặc bộ thí nghiệm về khảo sát từ phổ, đường sức từ của ống dây có dòng điện chạy qua ( Vật lý 9). Làm như vậy rất tiện lợi cho việcbố trí thí nghiệm, tránh mất nhiều thời gian vào việc không thật cần thiết. Nhưng cá biệt có những bài mà giáo viên có thể hướng dẫn một số học sinh lắp ráp trước ví dụ như lắp ráp máy phát điện xoay chiều trong bài 38 SGK vật lý 9.
Kinh nghiệm cho thấy trước mỗi bài dạy có thí nghiệm giáo viên cần chuẩn bị làm trước thí nghiệm trên đồ dùng thí nghiệm của mỗi nhóm, tìm sự cố xảy ra từ đó tìm cách khắc phục. Những thí nghiệm khó thành công giáo viên phải làm thí nghiệm nhiều lần để hướng dẫn học sinh học tập có kết quả tốt nhất.
2) Quản lí hoạt động nhóm học sinh khi làm thí nghiệm
Trong khâu tổ chức lên lớp cần hướng dẫn học sinh học tập theo nhóm như sau:
+Làm việc chung cả lớp: Giáo viên nêu vấn đề, nhiệm vụ nhận thức; yêu cầu học sinh đọc thông tin SGK, nghiên cứu hình vẽ,nêu mục đích, dụng cụ thí nghiệm, cách tiến hành thí nghiệm giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm hướng dẫn cách làm việc theo nhóm.
+Làm việc theo nhóm :
- Nên chia nhóm có sự tham gia của cả học sinh nam và học sinh nữ, học sinh có nhiêù trình độ khác nhau như giỏi, khá ,trung bình, yếu để các em tương trợ giúp đỡ lẫn nhau tạo điều kiện tốt cho việc làm thí nghiệm.
- Giao nhiệm vụ cho nhóm trưởng, nhóm phó: Nhóm trưởng nhận, trả dụng cụ thí nghiệm điều khiển các bạn trong nhóm cùng làm thí nghiệm. Nhóm phó (thư kí ) ghi chép lại các kết quả thí nghiệm, hiện tượng thí nghiệm cần quan tâm.
- Các thành viên trong nhóm được nhóm trưởng phân công chịu trách nhiệm (hoặc giám sát) một công việc nào đó.
- Mọi thành viên trong nhóm đều phải có trách nhiệm để hoàn thành thí nghiệm và đảm bảo an toàn khi làm thí nghiệm.
-Cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm( không nhất thiết phải là nhóm trưởng hay thư kí, mà có thể là một thành viên trong nhóm đại diện trình bày)
+Làm việc chung cả lớp: Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả thí nghiệm; thảo luận chung ( các nhóm nhận xét, dóng góp ý kiến và bổ sung cho nhau) giải thích nguyên nhân sai số (nếu có).
Ví dụ trong bài thực hành “Kiểm nghiệm mối quan hệ Q tỉ lệ với I2” Sau khi giáo viên cho học sinh nắm rõ yêu cầu của bài thực hành, dụng cụ thí nghiệm cần thiết, cách tiến hành thí nghiệm, giáo viên lưu ý học sinh về tính an toàn trong khi thí nghiệm, bố trí thí nghiệm tránh để nhiệt kế chạm vào dây đốt, phải dùng lượng nước tương đối đủ, để làm giảm sai số trong phép đo(vì trong thí nghiệm bỏ qua sự truyền nhiệt cho vỏ bình).
Nhóm trưởng cần phân công một học sinh di chuyển con chạy của biến trở để điều chỉnh cường độ dòng điện: một học sinh theo dõi số chỉ của am pe kế , một học sinh theo dõi nhiệt độ: Một học sinh theo dõi đồng hồ đo thời gian, một học sinh khuấy nước trong cốc. Một số học sinh khác giám sát việc đọc việc ghi chép, thư kí làm nhiệm vụ ghi các kết quả thí nghiệm ở bảng 1
Hoặc trong bài thí nghiệm “độ cao của âm”- Vật lí 7 nhóm trưởng cần phân công mỗi thành viên trong nhóm thực hiện một nhiệm vụ: Thư kí ghi kết quả thí nghiệm một học sinh đếm dao động của con lắc dài, một học sinh đếm số dao động của con lắc ngắn, hai học sinh giám sát đọc: một học sinh bấm dây đồng hồCó như vậy mới tạo cho mọi thành viên trong nhóm ý thức trách nhiệm với công việc của mình, hiệu quả làm thí nghiệm sẽ cao hơn.
Trong khi tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm theo nhóm, giáo viên phải quản lí tốt hoạt động nhóm nếu không một số học sinh ý thức kém không chú ý đến việc làm thí nghiệm mà ỷ lại vào bạn, nghịch ngợm làm hỏng đồ dùng thí nghiệm. Trong giờ học thực hành giáo viên cho điểm bài thực hành nên tổng hợp chung cả điểm ý thức và điểm nội dung thực hành .
3) Rèn tính tích cực sáng tạo của học sinh qua việc làm thí nghiệm.
* Khi tổ chức cho các nhóm học sinh làm thí nghiệm giáo viên nên chủ động giao thời gian cho các nhóm hoàn thành thí nghiệm dể tạo sự thi đua giữa các nhóm giúp các thành viên trong nhóm tích cực hơn sau đó giáo viên nhận xét, động viên các nhóm làm việc tích cực nhất, hiệu quả nhất dể kịp thời động viên học sinh.
Trong nhiều bài học, sách giáo khoa chỉ đưa ra một phương án làm thí nghiệm cơ bản nhất và giáo viên cũng hướng dẫn học sinh làm theo phương án sách giáo khoa đưa ra, nhưng giáo viên có thể đặt ra câu hỏi để học sinh đưa ra các tình huống làm thí nghiệm theo phương án khác cũng có thể đạt được mục đích của thí nghiệm .
Ví dụ trong thí nghiệm: Kiểm tra sự khúc xạ của tia sáng truyền từ nước sang không khí sách giáo khoa vật lí 9 đưa ra phương án thí nghiệm dùng “ phương pháp che khuất ” nhưng học sinh có thể đưa ra phương án khác như: Để nguồn sáng trong nước chiếu ánh sáng từ đáy bình lên, hoặc để nguồn sáng ở ngoài chiếu ánh sáng qua đáy bình qua nước rồi ra không khí. Giáo viên giúp học sinh cân nhắc xem có thể dùng phương án nào dễ thực hiện nhất và sẽ thực hiện theo phương án đó. Hoặc trong thí nghiệm của bài “Hiện tượng cảm ứng điện từ”.Thí nghiệm H31.4 SGK là cho nam châm quay quanh trục thẳng đứng trước cuộn dây dẫn kín để tạo ra dòng điện cảm ứng trong cuộn dây. Giáo viên đặt vấn đề: Nếu cho nam châm đứng yên, ống dây quay quay quanh trục thẳng đứng có tạo ra được dòng điện cảm ứng không? Học sinh nêu dự đoán giáo viên yêu cầu học sinh làm thí nghiệm kiểm tra dự đoán và rút ra kết luận.
*Nếu thí nghiệm do giáo viên biểu diễn với sự tham gia tích cực của học sinh thì cần chọn nơi bố trí thí nghiệm cho học sinh dễ quan sát giáo viên dễ thực hiện, bố trí thí nghiệm không được lộn xộn gây khó khăn cho việc quan sát của học sinh và không làm cản trở thao tác thí nghiệm của giáo viên. Đối với các bài thí nghiệm điện có mắc vôn kế, am pe kế thì cần nối kín mạch điệnvới am pe kế trước, vôn kế và các dụng cụ hỗ trợ nối sau, dùng dây màu để phân biệt các cực của nguồn điện (đối với nguồn một chiều thường dùng dây màu đỏ nối với cực dương, dây màu đen hoặc xanh nối với cực âm ). Những thí nghiệm có dụng cụ đo như vôn kế, am pe kế thì cần hiệu chỉnh số không trước khi thí nghiệm, sử dụng thang đo cho phù hợp để làm giảm sai số trong phép đo. Cần lưu ý học sinh mắc xong mạch điện, chưa đóng khoá K mà mời giáo viên đến để kiểm tra cách mắc mạch điện rồi mới đóng K (nhất là đối với học sinh lớp 7). Ví dụ làm thí nghiệm về sự phụ thuộc của dòng điện vào hiệu điện thế trong bài 1 (sách giáo khoa vật lý 9) để mắc mạch điện như hình 1.1 nên dùng dây đỏ nối từ cực dương của nguồn điện qua công tắc đến am pe kế, đến điện trở khảo sát và kết thúc bằng dây xanh nối với cực âm của nguồn điện, vôn kế là dụng cụ mắc sau cùng mắc song song với điện trở khảo sát. Trong khi làm thí nghiệm chỉ đóng điện trong thời gian ngắn đủ để quan sát số chỉ của am pe kế và vôn kế , nếu đóng mạch lâu thì dây điện trở sẽ nóng và dòng điện sẽ nhỏ đi kết quả đo không không chính xác Không được mắc nhầm vị trí của của am pe kế và vôn kế hoặc va chạm mạnh vôn kế và am pe kế, sẽ gây hỏng dụng cụ đo.
Các thiết bị dạy học như thí nghiệm, mô hình, tranh vẽ, biểu bảng, băng hình SGK được sử dụng không chỉ là phương tiện minh họa kiến thức , mà là nguồn tri thức, là phương tiện để học sinh khai thác tìm tòi, phát hiện giải quyết vấn đề đặt ra, thông qua đó mà chiếm lĩnh kiến thức và rèn luyện kĩ năng ví dụ như : Tạo điều kiện để học sinh tự tay làm thí nghiệm, tự mình quan sát, đo đạc và rút ra nhận xét, kết luận; tạo điều kiện dể học sinh tìm hiểu cấu tạo, cách sử dụng một dụng cụ đo ; thông qua việc nghiên cứu các số liệu đã cho trong bảng để rút ra kết luận; khai thác hình vẽ với vai trò là nguồn thông tin, chứ không phải là hình ảnh minh họa lời trình bày của SGK. Tạo điều kiện cho đa số học sinh được sử dụng thiết bị day học dể hoàn thành nhiệm vụ học tập
4) Chú ý đến đặc tính kĩ thuật của đồ dùng kĩ thuật và thao tác thí nghiệm
Các dụng cụ thí nghiệm thường có độ chính xác không giống nhau mặc dù có cùng một khuôn mẫu chế tạo. Các dụng cụ trong các bộ thí nghiệm hiện nay chất lượng còn thấp, do đó trước khi làm thí nghiệm (hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm) trên lớp giáo viên cần làm trước thí nghiệm nhiều lần để tìm hiểu nguyên nhân sai số, tìm cách khắc phục để hạn chế đến mức thấp nhất sai số trong phép đo. Nếu sau thí nghiệm có sai số cho phép thì nên cho học sinh giải thích nguyên nhân dẫn đến sai số trong các phép đo.
Thao tác thí nghiệm là một vấn đề khó, nó không chỉ đưa ra kết quả thực nghiệm tốt mà trong mỗi động tác của người thầy đều phải mang tính sư phạm . Để có được thao tác đẹp, chính xác và thuyết phục thì mỗi người giáo viên cần rèn luyện kĩ năng thực hành của mình bằng cách làm thí nghiệm nhiều lần, tiếp xúc với đồ thí nghiệm nhiều lần để rút ra kinh nghiệm cho bản thân
5) Sử dụng máy tính điện tử trong việc mô phỏng ,hỗ trợ các thí nghiệm vật li:
Vật lí học ở trường phổ thông là một môn khoa học thực nghiệm, mọi kiến thức đều được xây dựng từ việc quan sát các hiện tượng, quá trình trong tự nhiên và nhất là từ các thí nghiệm. Trong nhà trường hiện nay không phải tất cả các thí nghiệm trong các bài dạy đều thực hiện được; có những bài phải dùng thí nghiệm mô phỏng VD trong bài về “Mắt”-SGK vật lí 9 phải sử dụng phần mềm dạy học bài “mắt”-VL 9 (sản phẩm của đề tài khoa học cấp Nhà nước NKC-01-14, được Công ti thiết bị giáo dục 2Bộ giáo dục và Đào tạo phát hành) mới có thể giải thích được cơ chế điều tiết của mắt , khái niệm điểm cực cận, cực viễn .
Sử dụng máy tính điện tử hỗ trợ các thí nghiệm vật lí sẽ khắc phục được một số nhược điểm của thí nghiệm vật lí truyền thống.
6) Ví dụ minh họa:
Dạy học trích đoạn “ tìm hiểu mối quan hệ giữa hiệu điện thế và cường độ dòng điện chạy qua dây dẫn đó (VL-9)” GV cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu theo các bước sau :
*Làm việc chung cả lớp
-Đọc thông tin I SGK, quan sát hình vẽ
-Nêu mục tiêu của thí nghiệm :Trả lời câu hỏi : “Giữa hiệu điện thế đặt vào 2 đầu dây dẫn và cường độ dòng diện chạy qua dây dẫn đó có mối quan hệ không, và có thì mối quan hệ đó như thế nào?”
-Tìm hiểu các dụng cụ thí nghiệm: nguồn điện, vôn kế, am pe kế , dây dẫn, công tắc vai trò của các dụng cụ đó?
-Nêu các bước tiến hành thí nghiệm :
+ Mắc mạch điện kín gồm nguồn điện, dây dẫn và công tắc, vôn kế đo hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn, am pe kế đo cường độ dòng điện qua dây dẫn.
+Thay đổi hiệu điện thế và đo cường độ dòng điện tương ứng
+Ghi lại giá trị cường độ dòng điện tương ứng với mỗi giá trị của hiệu điện thế vào bảng chuẩn bị sẵn.
*Lưu ý học sinh:
-Hiệu chỉnh số 0 của am pe kế và vôn kế trước khi tiến hành đo.
-Cần mắc đúng cực (+), (-) của am pe kế và vôn kế.
-Sử dụng thang đo cho phù hợp để làm giảm sai số của kết quả đo.
-Chú ý cách mắc am pe kế nối tiếp với mạch, vôn kế mắc song song với mạch cần đo; Chỉ đóng mạch trong thời gian ngắn đủ để đọc số chỉ của am pe kế và vôn kế; không làm rơi và va chạm mạnh vào am pe kế và vôn kế
* Hoạt động nhóm: Làm thí nghiệm theo các bước trên.
* Làm việc chung toàn lớp:
-Đai diện nhóm báo cáo kết quả thí nghiệm .
-GV điều khiển học sinh thảo luận toàn lớp,nêu nhận xét .Tìm và giải thích nguyên nhân sai số (nếu có)
- Xử lí kết quả thu được từ thí nghiệm : Từ bảng số liệu thu được , vẽ đồ thị biểu thị phụ thuộc của cường đội dòng điện chạy qua dây dẫn vào hiệu điện thế giữa hai đầu dây . Từ đó rút ra mối quan hệ “cường độ dòng điện chạy qua dây dẫn tỉ lệ thuận với hiệu điện thế đặt vào hai đầu dây”
-Cho HS làm bài tập trắc nghiệm củng cố kết luận trên.
IV. Kết quả thực hiện
Bằng những biện pháp thực hiện như trên kết quả giảng dạy của tôi được nâng lên rõ rệt. Năm học 2006- 2007 năm đầu tiên phòng giáo dục, sở giáo dục tổ chức thi học sinh giỏi các môn thực hành, trong đó có thực hành vật lí, tôi có một học sinh tham gia thi, thì một học sinh đó đạt giải nhất cấp thành phố.Từ năm 2003 trở lại đây tôi liên tục có học sinh đạt giải cao cấp thành phố về cả lí thuyết lẫn thực hành. Chất lượng bộ môn đã đạt và vượt chỉ tiêu nhà trường và phòng giáo dục đề ra. Năm học 2004-2005; 2005-2006 phòng giáo dục khảo sát chất lượng các bộ môn, đổi coi đổi chấm thì môn vật lí do tôi phụ trách đã được xếp thứ I, II trong toàn thi xa. Kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tế của học sinh tương đối tốt.
Kết quả Cụ thể
Năm học
Mức độ áp dụng biện pháp trên vào dạy học
Chất lượng bộ môn
( Tính theo%)
Số học sinh làm được câu hỏi , bài tập vận dụng áp dụng kiến thức vào thực tế
(Tính theo %)
1999-2001
Thí nghiệm do giáo viên
làm , học sinh quan sát nhận xét
80%
60%
2001-2004
Giáo viên đã có triển khai thí nghiệm cho học sinh làm theo nhóm, nhưng chưa thường xuyên
85% -> 90%
80% -> 85%
2004-2005
Giáo viên có áp dụng các biện pháp nêu trên nhưng chưa đầy đủ
90%
85%
2005-2007
Giáo viên áp dụng các biện pháp nêu trên khá đầy đủ
95% -> 100%
90% -> 98%
2007-2008
áp dụng đầy đủ các phương pháp dạy học vật lí cùng với ứng dụng của máy tính -công nghệ thông tin
98% -> 100%
95% -> 100%
Phần III: Kết luận và kiến nghị.
*Kết luận
Như vậy để đáp ứng được yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học đối với bộ môn vật lí thì việc hướng dẫn học sinh sử dụng dụng cụ thí nghiệm để thực hiện các thí nghiệm là vô cùng quan trọng, nó quyết định đến sự thành công của bài dạy quyết định trực tiếp đến chất lượng giáo dục .
Thí nghiệm vật lí trước hết là nguồn thộng tin về thuộc tính của các sự vật và hiện tượng vật lí ; phải tìm cách tiến hành thí nghiệm vật lí để thu được những thông tin đúng đắn về đối tượng cần tìm hiểu. Thí nghiệm vật lí gắn bó hữu cơ với tiến trình dạy học và phải nhằm mục tiêu là đạt tới nhận thức mới trong quá trình dạy học.
Dạy học theo phương pháp thí nghiệm vật lí cần tuân theo quy trình sau;
-Phải thảo luận để học sinh hiểu rõ mục tiêu của thí nghiệm và do đó tạo ra hứng thú nhận thức của học sinh
-Cho học sinh tìm hiểu đầy đủ chức năng của từng bộ phận có trong dụng cụ thí nghiệm được sử dụng.
- Cho học sinh thảo luận về các bước của việc tiến hành, những yêu cầu cần quan sát hay đo đạc trong mỗi bước thí nghiệm này. Phải chuẩn bị các bảng ghi số liệu đo được hoặc biên bản ghi các quan sát các số liệu đo, lâp biểu đồ , đồ thị.
-Xử lí các kết quả thu được từ thí nghiệm , rút ra mối quan hệ giữa các quan sát , giữa các số liệu đo. Từ đó phát biểu về kết luận về sự vật, hiện tượng hoặc quá trình vật lí như là những kiến thức mới .
Ngày nay với khoa học công nghệ hiện đại ngoài việc cho học sinh làm thí nghiệm trên đồ dùng thật, trên giấy, ta có thể đưa thí nghiệm mô phỏng trên máy vi tính, thí nghiệm quay lại bằng vidio. Các thí nghiệm đó đều có tác động tích cực tới việc nắm bắt kiến thức mới của học sinh. Theo tôi những thí nghiệm đơn giản, dễ làm, giáo viên nên tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm theo nhóm, qua đó học sinh có thể trao đổi học tập lẫn nhau, giúp học sinh tự khẳng định mình, kiến thức các em ghi nhớ lâu hơn, học sinh hứng thú học tập, bài học trở nên nhẹ nhàng hơn ,tiết học hiệu quả hơn .
Hy vọng rằng áp dụng những biện pháp tôi vừa nêu trên sẽ ít nhiều giúp các bạn thực hiện được các thí nghiệm tốt hơn, hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn trong mỗi bài dạy .
Trên đây là một số kinh nghiệm của cá nhân tôi xuất phát từ việc giảng dạy trong thực tế, nó còn có nhiều hạn chế. Tôi mong được sự đóng góp ý kiến đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn !
* Một số kiến nghị
1- ẹoỏi vụựi Sụỷ giaựo duùc, phoứng giaựo duùc
- Neõn toồ chửực caực hoọi thaỷo, caực chuyeõn ủeà veà sửỷ duùng ủoà duứng daùy hoùc moọt caựch coự hieọu quaỷ, caựch laứm thớ nghieọm ụỷ moọt soỏ baứi thớ nghieọm khoự thaứnh coõng vaứ ủaỷm baỷo ủuỷ thụứi gian nhử baứi –Thửùc haứnh vaứ kieồm tra thửùc haứnh nghieồm nghieọm laùi moỏi quan heọ Qtổ leọ I2;; thớ nghieọm veà gửụng phaỳng H5.3 SGK vaọt lyự 7. . .
- Vieọc ra ủeà thi hoùc sinh gioỷi caực caỏp caõứn ra saựt vụựi chửụng trỡnh hoùc cuỷa hoùc sinh khoõng neõn ra trửựục chửụng trỡnh hoùcà vaứ nhửừng phaàn hoùc sinh chửa ủửụùc hoùc
- ẹeà nghũ vụựi boọ giaựo duùc ủieàu chổnh phaõn phoỏi chửụng trỡnh caàn boồsung theõm caực tieỏt baứi taọp (nhaỏt laứ ụỷ caực khoỏi lụựp 8,9) ủeồ hoùc sinh ủửụùc luyeọn kyừ naờng giaỷi baứi taọp,giaựo vieõn coự thụứi gian reứn kyừ naờng giaỷi baứi taọp cho hoùc sinh.
2- ẹoỏi vụựi trửụứng hoùc,
- Haứng naờm caàn boồ sung theõm caực trang thieỏt bũ phuùc vuù cho vieọc giaỷng daùy ,coự keỏ hoaùch thay theỏ caực ủoà duứng ủaừ cuừ, hoỷng khoõng coứn sửỷ duùng ủửụùc hoaởc sửỷ duùng nhửng thieỏu chớnh xaực.
- Tham mửu vụựi ủũa phửụng hoó trụù kinh phớ ủeồ xaõy dửùng caực phoứng chửực naờng, phoứng hoùc boọ moõn taùo ủieàu kieọn toỏt cho vieọc hoaùt ủoõng nhoựm , laứm thớ nghieọm cuỷa hoùc sinh, giuựp hoùc sinh tớch cửùc hoaùt ủoọng
- Giaựo vieõn phuù traựch thớ nghieọm ủaàu naờm caàn leõn keỏ hoach mua saộm,sửỷa chửừa caực ủoà duứng thớ nghieọm chaỏt lửụùng khoõng toỏt, cuứng hoó trụù giaựo vieõn chuaồn bũ caực thớ nghieọm cho tieỏt daùy,vaứ hoó trụù giaựo vieõn trong caực giụứ thửùc haứnh.
- Tổ chức cho GV học tập phần mềm để làm thí n
File đính kèm:
- SKKN su dung do dung day hoc trong mon vat li.doc