Đề tài Tổ chức dạy học hoạt động nhóm trong thí nghiệm và thực hành Vật lý – 7

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước mở cửa để hội nhập với cộng đồng thế giới trong nền kinh tế cạnh tranh quyết liệt, đòi hỏi công tác giáo dục ở nước ta phải có những đổi mới sâu sắc và toàn diện nhằm đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa giữ gìn và phát huy được bản sắc dân tộc, vừa có khả năng sáng tạo, có tình cảm và thái độ của con người mới xã hội chủ nghĩa.

 

doc19 trang | Chia sẻ: haianhco | Lượt xem: 2641 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tổ chức dạy học hoạt động nhóm trong thí nghiệm và thực hành Vật lý – 7, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước mở cửa để hội nhập với cộng đồng thế giới trong nền kinh tế cạnh tranh quyết liệt, đòi hỏi công tác giáo dục ở nước ta phải có những đổi mới sâu sắc và toàn diện nhằm đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa giữ gìn và phát huy được bản sắc dân tộc, vừa có khả năng sáng tạo, có tình cảm và thái độ của con người mới xã hội chủ nghĩa. Ở trường trung học những sự đổi mới đó được thực hiện chủ yếu thông qua việc dạy học các môn học, trong đó có Vật lý học. Việc đổi mới cần được thực hiện cả ba mặt: nội dung dạy học, phương pháp dạy học (bao gồm cả tổ chức dạy học ), và phương tiện dạy học. Cần phải huy động nhiều lực lượng khác nhau của xã hội để thực hiện sự đổi mới đó. Đối với người giáo viên thì quan trọng nhất là đổi mới phương pháp dạy học vì giáo viên là người trực tiếp tác động đến học sinh và sử dụng những phương tiện mà xã hội cung cấp cho nhà trường để thực hiện thắng lợi mục tiêu dạy học. Với khí thế sôi nổi của phong trào thi đua dạy và học ở các trường THCS, mặc dù khả năng còn hạn chế nhưng với sự nhiệt tình động viên giúp đỡ của ban giám hiệu và hội đồng khoa học trường, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu, ghi nhận để viết một sáng kiến kinh nghiệm với nội dung là “Tổ chức dạy học hoạt động nhóm trong thí nghiệm và thực hành Vật Lí”. Dù cố gắng nhiều nhưng bài viết chắc hẳn còn nhiều thiếu sót. Kính mong các cấp và quí thầy cô thông cảm và có sự đóng góp để bài viết tốt hơn. Chương I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Việc đổi mới phương pháp dạy học phải căn cứ vào mục tiêu của môn Vật lí ở trường trung học cơ sở. Một trong những đổi mới của mục tiêu giáo dục phổ thông là phát triển và hình thành năng lực nhận thức , năng lực hành động, năng lực thích ứng và tự khẳng định mình. Vật lí học là môn khoa học thực nghiệm. Các khái niệm, định luật đều được xây dựng trên cơ sở khảo sát, phân tích các sự kiện thực nghiệm và kiểm tra bằng thực nghiệm. Vì vậy trong việc giảng dạy vật lí cấp hai , phương pháp thực nghiệm có vị trí rất đặc biệt góp phần phát triển năng lực tư duy , xây dựng thế giói quan khoa học và rèn luyện những kỹ năng cơ bản có tính chất kỹ thuật tổng hợp của người lao động mới. Nội dung chương trình vật lí 7 đơn giản, gắn liền với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của các em phần lớn thí nghiệm đưa vào sách giáo khoa đều đơn giản, dễ thực hiện, phù hợp với nhu cầu, năng lực và hứng thú của học sinh nhằm tạo điều kiện cho số đông học sinh được trải nghiệm ( tự mình làm thí nghiệm, tự mình quan sát, đo đạc) và rút ra nhận xét, kết luận. Vậy thì làm thế nào để các em tiến hành thí nghiệm hiệu quả? Rút ra tính chất, kết luận chính xác? Hoạt động nhóm đồng bộ, mạnh dạn đề xuất ý kiến?... Đây là vấn đề mà bản thân tôi muốn nghiên cứu tìm ra phương pháp khả thi để giúp học sinh hoạt động nhóm tích cực hiệu quả nhằm nâng cao chất lương học tập của học sinh. Do đó tôi viết sáng kiến kinh nghiệm “Tổ chức dạy học hoạt động nhóm trong thí nghiệm và thực hành vật lí”. II. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: Sáng kiến kinh nghiệm này nghiên cứu về quá trình tạo nhóm và hoạt động nhóm của học sinh khi thí nghiệm và thực hành vật lí. Tổ chức cho học sinh nắm vững hệ thống cơ bản của tiết học. Từ thí nghiệm , nhận xét để rút ra kết luận của bài học. Khả năng đề xuất phương án thí nghiệm, sử dụng dụng cụ thí nghiệm và các thao tác trong thực hành. Kỹ năng diễn đạt rõ ràng , chính xác bằng ngôn ngữ vật lí. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU – PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Sáng kiến kinh nghiệm nghiên cứu về tổ chức hoạt động thí nghiệm và thực hành vật lí ở hai lớp 7A và 7B trường THCS Bến Củi, huyện Dương Minh Châu- Tây Ninh. Các nội dung về Quang Học, Âm Học và Điện Học từ tuần 1 đến tuần 20 của năm học 2004-2005. IV. ÁP DỤNG CỦA ĐỀ TÀI: Sáng kiến kinh nghiệm này không chỉ áp dụng để giảng dạy các bài thí nghiệm thực hành vật lí trong suốt năm học này mà có thể áp dụng trong suốt quá trình giảng dạy của giáo viên. Chương II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Dựa vào mục tiêu chung của giáo dục phổ thông nhằm vươn tới, đuổi kịp và hòa nhập với xu thế phát triển giáo dục trên thế giới. Dựa vào lí luận kiểu dạy học “hướng tập trung vào học sinh trên cơ sở hoạt động của học sinh”. Những đổi mới đồng bộ về giáo dục trung học cơ sở theo tư tưởng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh đã đặt ra những yêu cầu bức thiết về đổi mới phương pháp dạy học. Dựa vào đặc điểm riêng của môn học mà vật lí học có thể thực hiện nhiệm vụ chung theo cách riêng của mình. Dựa vào nội dung chương trình vật lí 7 và tình hình thực tế của học sinh trường trung học cơ sỏ Bến Củi. Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học là một đòi hỏi bức thiết. Trong đó một trong những hoạt động quan trọng là hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm và thực hành trong bài học vật lí. II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI: 1/ Thực trạng bộ môn: Vật lí là một môn học còn khá mới đối với học sinh cấp hai. Các sự vật, hiện tượng vật lí tuy gần gũi với cuộc sống hàng ngày ,nhưng đối với học sinh lớp 7 thì trình độ tư duy của các em còn thấp, kỹ năng hành động nhận thức còn thiếu, vốn sống thực tế còn nghèo. Do đó các em thường tìm hiểu nội dung một cách qua loa, không có căn cứ khoa học. Còn nhiều học sinh và phụ huynh có cách nhìn và thái độ chưa đúng đắn trong học tập. Học sinh lười học, lười tìm hiểu hoặc không muốn tìm hiểu , thích ghi chép bài có sẵn, ít làm bài tập. Nội dung chương trình vật lí lớp 7 tương đối nặng, không có tiết bài tập để củng cố kiến thức khó. 2./ Các biện pháp thực hiện Sáng Kiến Kinh Nghiệm: Qua thực tế áp dụng giảng dạy theo phương pháp mới, tôi thấy học sinh tích cực tham gia các hoạt động đóng góp xây dựng bài tại lớp. Các em sôi nổi, hứng thú khi được tự mình làm thí nghiệm. Trong các giờ học này thì giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn. Học sinh tự khám phá và chiếm lĩnh kiến thức mới. Giáo viên không chỉ dạy cho học sinh kiến thức mà cả phương pháp học ( chủ yếu là tự học). Hầu hết các bài học trong chương trình đều có thí nghiệm. Hình thức chủ yếu vẫn là học tập theo lớp, cả lớp cùng nghiên cứu một vấn đề, đạt đến cùng một kết luận. Các thí nghiệm do học sinh tiến hành trên lớp gồm hai nội dung : thí nghiệm nghiên cứu kiến thức mới và thí nghiệm thực hành. Thí nghiệm để hình thành kiến thức mới: Trong chương trình Vật lí 7, thí nghiệm trực diện phần lớn để hình thành kiến thức mới. Một số ít thí nghiệm để củng cố kiến thức. Ví dụ: Thí nghiệm để giải thích ứng dụng về sự truyền thẳng của ánh sáng ( bài 2), thí nghiệm kiểm tra sự thay đổi vùng bóng tối và bóng nửa tối ( bài 3), thí nghiệm để kiểm tra độ cao của âm phụ thuộc vào tần số ( bài 11). Khi dạy các bài có thí nghiệm, giáo viên phải nghiên cứu cách bố trí thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm( để đạt được mục đích thí nghiệm, cần sử dụng các dụng cụ nào, bố trí thí nghiệm ra sao, tiến hành thí nghiệm theo các bước nào, cần quan sát gì, đo đạt cái gì?…), không xem nhẹ các dụng cụ thí nghiệm đơn giản.Giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh tự tay làm thí nghiệm, tự mình quan sát, đo đạt và rút ra nhận xét, kết luận- tức là được trải nghiệm trong thực tế. Đối với các thí nghiệm đơn giản dựa trên những dụng cụ rẻ tiền, dễ kiếm và có hiệu quả rõ ràng, giáo viên tổ chức thực hành đồng loạt theo nhóm nhỏ để nhiều em được tự tay làm, tự mình trải nghiệm. Ví dụ: -Thí nghiệm về sự truyền thẳng của ánh sáng. Mỗi nhóm 2 em tự chuẩn bị các ống nhỏ thẳng và ống cong để quan sát ánh sáng từ đèn pin.(bài 2) -Thí nghiệm kiểm tra ảnh tạo bởi gương cầu lồi. Mỗi bàn tự chuẩn bị một cái muôi múc canh bằng inox để quan sát ảnh của vật ở mặt lồi của cái muôi ( bài 7). -Thí nghiệm bật dây cao su để quan sát dao động của dây và lắng nghe âm phát ra, gõ vào mặt trống và tìm phương án kiểm tra sự rung động của mặt trống (bài 10). -Thí nghiệm bật thước thép để quan sát dao động nhanh hay chậm, mạnh hay yếu và lắng nghe âm phát ra ( bài 17)… Khi làm từng thí nghiệm này cần chú ý hướng dẫn học sinh quan sát cụ thể cái gì và rèn các em dùng thuật vật lí ngữ phù hợp để thu thập những thông tin cần thiết. Chẳng hạn như khi quan sát dao động nhanh hoặc chậm thì phải dùng thuật ngữ tương ứng là tần số lớn hoặc nhỏ à âm phát ra cao hoặc thấp ; khi quan sát dao động mạnh hoặc yếu thì phải dùng thuật ngữ tương ứng là biên độ lớn hoặc nhỏ à âm phát ra to hoặc nhỏ. Sau khi học xong bài “ Độ to của âm” các em phải rút ra nhận xét là âm nhỏ cũng có thể cao , âm to cũng có thể trầm. Ví dụ một số âm tuy nhỏ nhưng làm cho ta sởn gai óc như tiếng cọ xát móng tay vào bảng, hoặc một số bạn nam tuy nói to nhưng giọng vẫn khàng khàng. Đối với các thí nghiệm khó thực hiện hơn thì cho các em làm việc theo nhóm lớn (2 bàn, khoảng 8 đến 10 học sinh). Giáo viên có thể tiến hành thí nghiệm trước toàn lớp kết hợp hướng dẫn học sinh cùng tham gia nhưng không được đưa ra kết luận trước. Ví dụ: - Thí nghiệm để hình thành định luật phản xạ ánh sáng (bài 4).Sau khi đọc thông tin, các em phải biết dùng các dụng cụ thí nghiệm gì? (đèn pin có khe nhỏ, gương phẳng, thước đo góc),cách tiến hành thí nghiệm ? (cho chùm sáng hẹp đi là là tờ giấy đến gương ), dự đoán kết quả, hiện tượng xảy ra… Ở thí nghiệm này có thể có nhóm nêu nhận xét sai, giáo viên phải phân tích nguyên nhân và yêu cầu học sinh cần chú ý cách đặt gương phải vuông góc với mặt tờ giấy, tia sáng tới phải nằm trên mặt phẳng tờ giấy mới thấy rõ tia phản xạ. Sau đó so sánh góc tới , góc phản xạ.Kiểm tra dự đoán : Liệu điều này có đúng cho mọi vị trí của tia tới, nghĩa là với mọi góc tới không? Các nhóm tiến hành thí nghiệm nhiều lần với nhiều góc tới khác nhau và đo các góc phản xạ tương ứng rồi kết luận chung. - Thí nghiệm nghiên cứu mối quan hệ giữa dao động nhanh, chậm và tần số dao động : sau khi xác định dao động nhanh chậm của hai con lắc a và b, giáo viên nêu rõ mục đích tiếp theo của thí nghiệm là đếm số lần dao động của từng con lắc trong 10 giây.Phân công một học sinh theo dõi và thông báo thời gian cho từng con lắc dao động một học sinh khác thực hiện thả cho con lắc dao động,hướng dẫn cả lớp đếm đồng thanh số lần dao động của nó.Mỗi nhóm tự tính tần số của mỗi con lắc, so sánh và kết luận. - Thí nghiệm về sự truyền âm trong chất rắn.Trước khi làm thí nghiệm giáo viên nêu rõ mục đích , phân công và hướng dẫn cụ thể công việc phải làm: em A áp tai xuống bàn, em B đứng bình thường để tai trong không khí. Cả hai em này không nhìn thấy thao tác của em C ở đầu bàn kia. Em C gõ nhẹ xuống bàn vài lần, hai bạn kia nêu số lần mà bạn C đã gõ à nhận xét âm truyền trong gỗ tốt hơn truyền trong không khí. - Thí nghiệm về hai loại điện tích ( bài 18).Mỗi nhóm đọc thông tin. Gọi vài em nêu phương án thí nghiệm.Bước 1: khi chưa cọ xát à không có hiện tượng xảy ra. Bước 2 : cọ xát hai thanh nhựa giống nhau vào vải khô à quan sát, nhận xét: chúng đẩy nhau.Tương tự cọ xát thanh nhựa vào vải, thanh thủy tinh vào lụa khi đưa lại gần nhau thì chúng hút nhau. Khi làm thí nghiệm này giáo viên cần theo dõi thao tác các nhóm (phải cọ xát theo một chiều như nhau với số lần như nhau, đặt nhanh thanh nhựa lên giá nhọn, đưa thanh thủy tinh lại gần ) và giúp đỡ các nhóm gặp khó khăn sao cho kết quả thí nghiệm là chính xác. Các thí nghiệm với các dụng cụ có sẵn không quá phức tạp , việc bố trí và tiến hành thí nghiệm với các dụng cụ này cũng không quá khó đối với học sinh, các hiện tượng vật lí diễn ra trong thí nghiệm dễ quan sát, không quá phức tạp. Có thể sử dụng những dụng cụ dễ kiếm, quen thuộc trong đời sống hàng ngày. Nhờ sự quen thuộc này mà học sinh có thể đề xuất được những phương án thí nghiệm chứ không chỉ máy móc tiến hành thí nghiệm do giáo viên đưa ra. Các thí nghiệm này không đòi hỏi nhiều thời gian trong việc bố trí và tiến hành thí nghiệm. Các thí nghiệm có tác dụng to lớn trong việc phát triển năng lực hoạt động nhận thức của học sinh nhưng do khó khăn về dụng cụ thí nghiệm về thời gian, về trình độ học sinh, về kỹ thuật thí nghiệm... nên không phải tất cả các thí nghiệm đều tiến hành đồng loạt được. Ví dụ: thí nghiệm hình 11.3 nghiên cứu về mối quan hệ giữa dao động nhanh chậm và độ cao của âm phát ra. Trường hợp này giáo viên chỉ làm biểu diễn cho cả lớp quan sát. Các yêu cầu trong việc chuẩn bị thí nghiệm: Đối với giáo viên: - Vì thí nghiệm trực diện là một bộ phận của bài học nên giáo viên cần phải chuẩn bị phương án thí nghiệm ngay khi soạn bài. Cần dự đoán các phương án thí nghiệm mà học sinh có thể đề xuất. Phân tích được những ưu điểm, nhược điểm của mỗi phương án để chọn một phương án phù hợp với điều kiện cụ thể. Giáo viên có thể huy động sự đóng góp của học sinh bằng các dụng cụ tự làm , tự tìm kiếm cho đủ số lượng dụng cụ cần thiết cho bài học. - Chia nhóm cho học sinh nhằm rèn luyện phương pháp làm việc tập thể. - Để giảm bớt ghi chép của học sinh trên lớp, giáo viên cần soạn một bảng hướng dẫn học sinh trong đò chỉ rõ những hành động trí óc và hành động chân tay chủ yếu cần thực hiện, những số liệu cần thu thập , các câu hỏi cần giải đáp với những chỗ trống (......) để học sinh điền vào khi làm việc , thảo luận và phát cho từng nhóm học sinh vào đầu giờ học. Đối với học sinh: Các hóm học sinh thực hiện nhiệm vụ mà giáo viên đã giao cho như tìm kiếm, làm các dụng cụ đơn giản, tìm hiểu bài học trước. Các yêu cầu trong việc tổ chức và hướng dẫn hoạt động tự lực của học sinh trong thí nghiệm: Phải đảm bảo mọi học sinh trong nhóm đều tích cực, tự lực hoạt động trong giờ học như quan sát, bố trí thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm, đo đạc, ghi chép, xử lí kết quả, rút ra kết luận. Phối hợp hình thức làm việc cá nhân, làm việc theo nhóm và làm việc chung toàn lớp dưới sự hướng dẫn của giáo viên sao cho vừa phát huy tính chủ động tự lực của từng học sinh vừa tạo điều kiện cho sự giúp đỡ nhau, biết phân công, phối hợp công việc của các nhóm học sinh. Trong thí nghiệm, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn và trọng tài. Sự hướng dẫn của giáo viên cần phải đúng lúc, đúng chỗ và chỉ với mức độ cần thiết. Để đảm bảo tiến độ làm việc chung giáo viên cần bao quát hành động của các nhóm, giúp đỡ kịp thời các nhóm gặp khó khăn. v Thí nghiệm thực hành: Là loại thí nghiệm do học sinh thực hiện mà sự tự lực làm việc của học sinh cao hơn. ØThực hành để hình thành kiến thức mới: Loại bài này các em phải thực hành đo đạc định lượng dựa vào tài liệu hướng dẫn sẵn rồi viết báo cáo thực hành. Ví dụ: Thực hành đo hiệu điện thế và cường độ dòng điện đối với đoạn mạch nối tiếp và đoạn mạch song song (bài 27, 28). Sau khi đọc thông tin các nhóm lựa chọn dụng cụ phù hợp và mắc mạch điện theo sơ đồ. Giáo viên quan sát, theo dõi và chỉ dẫn các nhóm yếu. Sau khi kiểm tra hoàn chỉnh mạch điện các nhóm đóng khóa , quan sát và ghi kết quả. Thông qua hai bài thực hành này các em rút ra kiến thức mới về hiệu điện thế và cường độ dòng điện trong đoạn mạch nối tiếp và đoạn mạch song song. ØThực hành để rèn luyện một loại kĩ năng chuyên biệt : Về hình thức tổ chức dạy học phần này cũng giống như các tiết thí nghiệm khác . Ví dụ : Bài thực hành “ Quan sát và vẽ ảnh cuả một vật tạo bởi gương phẳng” ( Bài 6). Thông qua thực hành học sinh tự nhận biết được khái niệm vùng nhìn thấy của gương phẳng . Trong bài thực hành này, mỗi nhóm học sinh dùng chung một bộ thí nghiệm, nhưng mỗi học sinh phải làm một báo cáo riêng . Không cần thống nhất ý kiến trong nhóm nên không cần thảo luận nhóm . Thông qua kết qủa thực hành chung , cá nhân học sinh làm việc độc lập, nhịp độ làm việc của các em có thể khác nhau . Sau khi phân phát dụng cụ cho mỗi nhóm, giáo viên nêu hai nội dung của bài thực hành và nhấn mạnh nội dung thứ hai là xác định vùng nhìn thấy của gương phẳng . Nội dung này chưa được nằm trong các bài trước học sinh phải tự xác định lấy . Khi thực hành các em căn cứ vào tài liệu hướng dẫn – Đây cũng là một cách tập cho học sinh thu lượm thông tin qua tài liệu . Để cá nhân học sinh vẽ ảnh chính xác và xác định xem mắt nhìn thấy ảnh của điểm nào ở trước gương thì mỗi học sinh phải nắm vững tính chất của ảnh tạo bởi gương phẳng là bằng vật và đối xứng với vật qua gương . Qua đó rèn kĩ năng vẽ ảng tạo bởi gương phẳng cho học sinh . Các yêu cầu trong việc chuẩn bị thí nghiệm thực hành Đối với giáo viên: Cần tìm hiểu kỹ các bài thí nghiệm thực hành trong sách giáo khoa để xác định rõ ràng các nhiệm vụ giao cho học sinh và cách kiểm tra đánh giá việc thực hiện các nhiệm vụ đó. Chuẩn bị đầy đủ và kiểm tra chất lượng từng dụng cụ thí nghiệm cần thiết cho nhóm học sinh. Phải làm thử các thí nghiệm trước để dự kiến những khó khăn mà học sinh có thể gặp khi thực hành và cách hướng dẫn, giúp đỡ để học sinh vượt qua khó khăn đó. Đối với học sinh: Nghiên cứu trước nội dung bài thực hành trong sách giáo khoa và chuẩn bị báo cáo thực hành theo mẫu để nắm rõ mục đích thực hành và ôn tập các kiến thức có liên quan, trả lới các câu hỏi trong bài thực hành. Vào đầu buổi thực hành , giáo viên cần kiểm tra sự chẩn bị của nhóm, cá nhân. Hướng dẫn cách sử dụng những dụng cụ mà học sinh chưa quen. Nhắc nhở học sinh bảo quản cẩn thận dụng cụ và tiến hành trên nguyên tắc an toàn. Sau khi thực hành xong, cần yêu cầu các em tháo rời các chi tiết đã lắp ráp. Sắp xếp các dụng cụ gọn gàng như ban đầu. Tùy theo nội dung bài thực hành mà việc hoàn thành công việc của học sinh, giáo viên có thể yêu cầu các em nộp báo cáo thực hành tại lớp hoặc cho về nhà hoàn chỉnh tiếp, nộp sau. III. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : Trải qua quá trình giảng dạy Vật lí lớp 7 từ năm học 2003 - 2004, bản thân tôi không ngừng tìm hiểu, lựa chọn để có một phương pháp giảng dạy phù hợp với bộ môn, phù hợp với trình độ của học sinh vùng nông thôn . Nếu trong năn học 2003 – 2004 giáo viên còn lúng túng khi tạo nhóm, khi hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm ; học sinh còn ồ ào mất trật tự khi thực hành và hầu hết các bài dạy đều “bị cháy giáo án” thì trong năm học 2004 – 2005 đã có bước tiến khả quan hơn. Thời gian được đảm bảo và phân bố hợp lí, không mất nhiều thời gian khi sắp xếp thí nghiệm, thu gọn dụng cụ . Ngay từ tiết học đầu tiên giáo viên cần uốn nắn để các em phát triển hoàn thiện hình thức làm việc theo nhóm . Cụ thể : - Phân công nhận và thu dọn dụng cụ thí nghiệm của nhóm. -Bố trí dụng cụ thí nghiệm, bảo quản cẩn thận trong suốt tiết học. - Phân công công việc cụ thể cho từng thành viên để không mất nhiều thời gian. -Mạnh dạn đề xuất ý kiến, trao đổi thống nhất ý kiến . - Thí nghiệm dễ nên sắp xếp để mỗi thành viên trong nhóm đều được làm thí nghiệm . Tránh trường hợp dựa dẫm, lấy sẵn kết quả cuả bạn. - Báo cáo kết quả của nhóm mình. - Cá nhân làm báo cáo thực hành ( Đối với bài thực hành ). IV. KẾT QUẢ : Phải khẳng định đổi mới phương pháp dạy học theo tinh thần tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh đã tạo ra môi trường học tập sôi động , mọi người cùng nhau xây dựng nhận thức mới . Nó thúc đẩy con người linh hoạt, sáng tạo trong việc giải vấn đề và khám phá cái mới. Đây không phải là việc nhận thức một chiều nên việc nắm kiến thức của học sinh được diễn ra theo khả năng biểu lộ tính tích cực của trí tuệ và lòng ham hiểu biết của học sinh . Khi chưa thực hiện phương pháp mới : Giờ học giáo viên làm việc là chủ yếu, thuyết trình nhiều. Học sinh ghi chép nhiều, ít nói, thụ động, lười soạn bài, hiệu quả mỗi tiết học không cao. Khi thực hiện phương pháp mới : không khí sôi động, thoải mái hơn. Các em mạnh dạn đề xuất ý kiến của mình, chủ động học bài, chuẩn bị bài và nắm bài ngay tại lớp, thao tác thí nghiệm thành thạo, lập luận có căn cứ khoa học.Cụ thể: KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH LỚP 7A VÀ 7B HỌC KÌ I: THỜI ĐIỂM TSHS GIỎI KHÁ T.BÌNH YẾU SL TL SL TL SL TL SL TL Đầu năm 73 04 5.5 16 21.9 42 57.5 11 15.1 Giữa HK1 73 09 11.8 32 43.7 24 34.2 08 10.3 Học kỳ 1 73 13 17.8 34 46.6 20 27.4 06 8.2 V. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA ĐỀ TÀI: Qua thực hiện phương pháp dạy học mới, nhờ sự nổ lực của bản thân giáo viên, học sinh đã có thá độ học tập đúng đắn, yêu thích bộ môn, nắm bắt kiến thức tốt. Ngoài ra còn rèn cho học sinh một số kỹ năng cơ bản cần thiết như: kỹ năng thu thập thông tin (quan sát, lắp ráp thí nghiệm, đo lường...), kỹ năng xử lí thông tin, kỹ năng diễn đạt rõ ràng chính xác bằng ngôn ngữ vật lí. Tuy nhiên do điều kiện cơ sở vật chất hiện tại nên có một số bài dạy tôi chưa áp dụng phương pháp mới một cách triệt để. Đó là điều kiện khách quan. Ví dụ như bàn ghế không đúng cách cho việc tạo nhóm, dụng cụ thí nghiệm không chất lượng, không có phòng chức năng khi dạy bài thực hành. Tôi thấy muốn thực hiện đổi mới phương pháp dạy học phải có điều kiện để thực hiện từ nhiều phía : - Cơ sở vật chất phải đảm bảo. - Trò phải có mục đích và động cơ học tập đúng đắn, phải chuẩn bị từng bài chu đáo. - Thầy phải suy nghĩ, thiết kế bài soạn, tìm hiểu đối tượng và mục tiêu để có kế hoạch cho phù hợp. V. KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT : 1. Với trường : Tạo điều kiện để giáo viên được dự giờ học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Tham mưu với các ngành có liên quan để trang bị cơ sở vật chất phục vụ việc dạy và học. 2. Với ngành : Cần đầu tư thỏa đáng cho việc trang bị các thiết bị phục vụ cho tiết dạy như : có phòng chức năng, bàn ghế và dụng cụ thí nghiệm đủ cho hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm. Xem đây là việc cấp bách nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Mở chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lý, để giáo viên trong huyện có dịp trao đổi và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. 3. Với đồng nghiệp : Rất mong được sự thông cảm, đóng góp để sa

File đính kèm:

  • docSKKNVAT LY 7.doc