Đề tài Tứ thơ và việc tìm hiểu tứ thơ trong thi phẩm Tràng giang ( Huy Cận)

Nguyễn Đình Thi trong “ Mấy suy nghĩ về thơ” có nói rằng: Đường đi của thơ là con đường đi thẳng vào tình cảm, không quanh co qua những chặng, những trung gian, những cột cây số. Văn xuôi lôi cuốn người đọc như dòng nước, đưa ta đi lần lượt từ điểm này qua điểm khác. Thơ, trái lại chỉ chọn một ít điểm chính bám vào những điểm ấy thì toàn thể động lên theo.” Chính vì lẽ đó mà thơ được coi là sản phẩm của tâm hồn, là nơi gặp gỡ của “ những điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu”.Hiểu được một bài thơ không phải là việc dễ dàng, có thể cảm nhận tất cả những tinh tuý, lắng đọng ẩn chứa trong câu thơ không phải người đọc nào cũng có thể làm được. Có những bài thơ hay từ những câu thơ đầu tiên nhưng có những bài chỉ nổi gió ( chữ dùng của Nguyễn Tuân) ở một tứ mà thôi. Cái tứ ấy xuất hiện và đọng lại mãi trong bài thơ và trong lòng những ai đọc và biết đến nó. Vậy, thực chất tứ là gì? Tại sao tứ lại có vai trò quan trọng đến vậy trong một bài thơ?

 

Tứ thơ- là khái niệm đã được nhắc đến trong bài giảng về Lý luận văn học. Tuy nhiên, trong chương trình SGK Ngữ văn THPT, những bài học được chọn giảng về LLVH rất ít. Chính điều này đã tạo ra tâm lý xem nhẹ, xem qua trong việc dạy và học của GV- HS. Vì vậy, việc tìm hiểu kĩ lưỡng những kiến thức lý luận nói chung và kiến thức về tứ thơ nói riêng sẽ giúp giáo viên và học sinh tìm hiểu trọn vẹn và thành công tác phẩm văn học

doc7 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 11417 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tứ thơ và việc tìm hiểu tứ thơ trong thi phẩm Tràng giang ( Huy Cận), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Nguyễn Đình Thi trong “ Mấy suy nghĩ về thơ” có nói rằng: Đường đi của thơ là con đường đi thẳng vào tình cảm, không quanh co qua những chặng, những trung gian, những cột cây số. Văn xuôi lôi cuốn người đọc như dòng nước, đưa ta đi lần lượt từ điểm này qua điểm khác. Thơ, trái lại chỉ chọn một ít điểm chính bám vào những điểm ấy thì toàn thể động lên theo.” Chính vì lẽ đó mà thơ được coi là sản phẩm của tâm hồn, là nơi gặp gỡ của “ những điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu”.Hiểu được một bài thơ không phải là việc dễ dàng, có thể cảm nhận tất cả những tinh tuý, lắng đọng ẩn chứa trong câu thơ không phải người đọc nào cũng có thể làm được. Có những bài thơ hay từ những câu thơ đầu tiên nhưng có những bài chỉ nổi gió ( chữ dùng của Nguyễn Tuân) ở một tứ mà thôi. Cái tứ ấy xuất hiện và đọng lại mãi trong bài thơ và trong lòng những ai đọc và biết đến nó. Vậy, thực chất tứ là gì? Tại sao tứ lại có vai trò quan trọng đến vậy trong một bài thơ? Tứ thơ- là khái niệm đã được nhắc đến trong bài giảng về Lý luận văn học. Tuy nhiên, trong chương trình SGK Ngữ văn THPT, những bài học được chọn giảng về LLVH rất ít. Chính điều này đã tạo ra tâm lý xem nhẹ, xem qua trong việc dạy và học của GV- HS. Vì vậy, việc tìm hiểu kĩ lưỡng những kiến thức lý luận nói chung và kiến thức về tứ thơ nói riêng sẽ giúp giáo viên và học sinh tìm hiểu trọn vẹn và thành công tác phẩm văn học. 2. Phạm vi đề tài: - Tìm hiểu về tứ thơ trong các sách LLVH - Tìm hiểu về tứ thơ trong thi phẩm Tràng giang ( Huy Cận ) 3. Phương pháp nghiên cứu - Tổng hợp, phân tích. B. Nội dung I. Lý luận về tứ thơ 1. Khái niệm về tứ thơ Thơ ca là sản phẩm của tâm hồn con người nên nó mang lắm điểu kì diệu. Có những bài thơ viết về một bi kịch quen thuộc bằng một điệu tâm cảm cũng không phải là xa lạ, vậy mà vẫn mãi day dứt, ám ảnh tâm hồn người đọc. Nguyên nhân nào khiến nhà thơ làm được điều đó? Câu trả lời ở đây: Phải chăng là thi tứ? “Người xưa nói: Thân mình ở trên sông trên biển mà tâm hồn ở dưới cửa khuyết của triều đình. Đó là nói đến cái thần và cái tứ. Cái tứ của văn chương, cái thần của nó ở xa lắm.” ( Lưu Hiệp- Văn tâm điêu long). Nếu hình ảnh là cái mần đầu tiên được nảy lên trong tâm hồn nhà thơ thì tứ thơ chính là nhân tố quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của một bài thơ. Bởi vậy, tứ còn được coi là trung tâm của quá trình sáng tạo thơ ca, là linh hồn, cốt tuỷ, nó nâng đỡ và tạo nên một dòng chảy tư tưởng xuyên suốt cho tác phẩm. Tứ là cứu tinh của thơ, có vai trò khới mở, tạo nên mạch thơ. Bàn về tứ, từ trước đến nay có rất nhiều ý kiến khác nhau . “ Người xưa nói: Thi tứ ở trong tuyết, trên lưng ngựa, trên cầu Bá Phong.(…). Thi tứ ở nơi khóm trúc. ý nói thơ là cảm xúc thẩm mĩ, thi vị, không giống cảm xúc sinh hoạt thực dụng hằng ngày. Làm thơ phải bắt đầu từ cảm xúc thơ, tức là thi tứ- phải có tứ thơ.” ( Từ điển thuật ngữ Văn học). Tạp chí Văn học( 2/1981) dẫn ý kiến của Nguyễn Xuân Nam: : “ Tứ trong toàn bài là hình tượng xuyên suốt cả bài thơ, thể hiện tư tưởng nghệ thuật( và cũng là tư tưởng chính trị) của bài thơ.” Trần Đình Sử cho rằng : “ Tứ thơ là sự kết hợp của hình ảnh sống động với ý nghĩa thơ sao cho hình ảnh càng triển khai ra thì càng khơi sâu thêm nhiều ý nghĩa của bài thơ.” Như vậy, hiểu được tứ- không phải là một việc dễ dàng. Khẳng định một cách nôm na, tứ thơ là yếu tố bao trùm và chi phối tất cả các yếu tố trong một bài thơ. Nó chính là sự đan dệt của hình ảnh, ngôn ngữ, thủ pháp nghệ thuật để bộc lộ cảm xúc. 2. Phân biệt ý và tứ: Thơ khác với văn xuôi, “ cùng mọc lên từ cái đống tài liệu của thực tế nhưng từ một cái hữu hình mà nó thức dậy được cái vô hình bao la.” ( Nguyễn Tuân – Thời và thơ Tú Xương). Bởi vậy, sáng tạo thơ chưa bao giờ và không bao giờ là công việc dễ dàng. “ Phải đào, phải xới, phải chắt lọc mới ra thơ được.” ( Lưu Trọng Lư – Một vài cảm nghĩ về thơ). Đó là sự kết hợp của sự sống được ủ men với quá trình thăng hoa của người nghệ sĩ. Khi nói về quá trình sáng tạo thơ ca, người ta hay nhắc đến sự hình thành của ý và tứ. Thế nào là ý? ý có trước hay tứ có truớc? ý và tứ liệu có phải chỉ là một khái niệm? Thực ra, không phải nhà thơ có ý trước rồi mới đi tìm tứ. Công việc tìm ý và tứ diễn ra đồng thời với nhau. Trong sáng tạo thơ, ý tứ luôn hoà quyện với nhau. Chỉ khi cần bình giá, chúng ta mới cần phân biệt ý và tứ. Theo từ điển Tiếng Việt: “ Tứ là ý của bài thơ nảy ra trong quá trình cảm thụ và phản ánh hiện thực”. Chế Lan Viên thì lại cho rằng: “ Gọi nó là tứ để phân biệt với ý. Chữ tứ chẳng qua chỉ là ý lớn toàn bài thôi.” Mỗi bài thơ có thể có một ý nhưng cũng có bài thơ mỗi câu là một ý. Tứ chính là cái ý đủ cao để bài thơ cần đạt tới. “ ý thơ chưa phải là sự sống nhưng tứ thơ thì đã là sự sống rồi. ý là của chung mọi người, tứ mới là của riêng mỗi thi sĩ.” ( Xuân Diệu- Tác phẩm mới – 1/1972). 3. Có phải bài thơ nào cũng có tứ thơ? Tứ thơ được coi là phần hồn của bài thơ. Bởi vậy , trước khi sáng tạo thơ ca, thi sĩ phải tìm cho mình một tứ thơ. Tuy nhiên, có một câu hỏi được đặt ra gây khá nhiều tranh cãi: Có phải bài thơ nào cũng có tứ? Liệu có bài thơ hay nào mà lại không có tứ? Trả lời câu hỏi này, không phải là một vấn đề dễ dàng. Bởi ngay cả trong một bài thơ có tứ thì việc xác định tứ cũng không hề đơn giản. Trong thực tế Văn học, có rất nhiều bài thơ mà tứ lộ ra ngay ở nhan đề : Bóng cây Kơnia ( Thu Bồn ); Sóng ( Xuân Quỳnh )… Tuy nhiên, có nhiều bài thơ, tứ lại ẩn, phải đọc hết mới phát hiện ra cái thi tứ đặc biệt và tầm quan trọng của nó: Sông lấp ( Tú Xương); Đi hát mất ô ( Tú Xương)… Bởi vậy, khó có thể đưa ra một kết luận chắc chắn rằng bài thơ nào cũng có tứ. Nó phụ thuộc vào cách cảm, cách nghĩ của người tiếp nhận. Và đặc biệt, nó phụ thuộc vào chính ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ. Hơn thế nữa, do đặc trưng của thơ là tiếng nói tình cảm nên những vần thơ sinh ra dường như không có quy luật gì cả, chỉ là những cảm xúc trào dâng mãnh liệt mà sinh ra thơ thôi. Nói như Hoàng Cầm khi viết Bên kia sông Đuống: “ Đó là tâm tư chồng chất những nhớ thương, nuối tiếc, xót xa…viết một mạch, có lúc cảm xúc lên mạnh, chỉ sợ viết không kịp với cảm xúc.” II. Tìm hiểu tứ thơ trong thi phẩm Tràng giang ( Huy Cận ). “ Vẻ đẹp sáng nhất của nghệ thuật là vẻ đẹp ẩn hiện. Nó cần hiện lên để hấp dẫn mời chào, lại cần ẩn để tiếp tục mời chào, hấp dẫn”( Chu Văn Sơn). Bởi vậy, một nhà văn tài năng là một con người luôn biết tạo ra sự ẩn hiện trong tác phẩm, vừa khiến người đọc dễ dàng nắm bắt, vừa thôi thúc họ phải lao vào khám phá, lật giở. Tràng giang là một thi phẩm như thế. Nhà thơ của “ Cái hồn buồn Đông á” đã tác động trực tiếp đến thế giới tâm cảm của người đọc bằng một tứ thơ độc đáo- tứ thơ Tràng giang. Sau cách mạng, Huy Cận có ngồi chiêm nghiệm lại chặng đường thơ trước 1945 của mình, ông phát biểu: Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm. Nỗi nhớ thương không biết đã với chưa Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưa Cùng đất nước mà nặng buồn sông núi. Có thể nói, thơ Huy Cận trước Cách mạng bài nào cũng buồn. Nói như Hoài Thanh, “ Huy Cận đã lượm nhặt chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não.” Tràng giang( in trong tập Lửa thiêng- 1940) cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó. Bao trùm toàn bộ bài thơ là một nỗi buồn. Nỗi buồn thấm sâu trong từng hình ảnh, câu chữ. Nguyên nhân của nỗi buồn ấy chính là từ tứ thơ Tràng giang. Theo như lời Huy Cận, tứ thơ Tràng giang được hình thành vào một buổi chiều mùa thu năm 1939. Trước đó, nhà thơ thường có một thú vui đặc biệt là đi lên vùng bến Chèm để ngắm cảnh Hồ Tây và sông Hồng. Sông nước mênh mông, đất trời bao la đã vô tình gợi lên sự rợn ngợp trong tâm hồn nhà thơ. Một chút suy tư, một thoáng trăn trở và cuối cùng thì những dòng chữ đầu tiên khơi mở nguồn mạch cảm xúc xuất hiện. “ Tràng giang” – cái ý lớn toàn bài, tứ thơ lạ đã bắt nhịp được suy nghĩ của Huy Cận. Và hệ quả của nó chính là sự ra đời của bài thơ Tràng giang. Khi Hoàng Cầm viết Lá diêu bông, đã biết bao người cầm bút tìm hiểu: Lá diêu bông là lá gì? Trong thực tế không hề có thứ lá ấy. Lá diêu bông chỉ tồn tại trong thế giới sáng tạo của người nghệ sĩ mà thôi. Nhưng chính Lá diêu bông- một ảo ảnh không bao giờ tồn tại trong cuộc đời lại là nguyên nhân tạo nên sự hấp dẫn cho thi phẩm. Bởi trong suốt bài thơ, tứ thơ Lá diêu bông đã khiến bạn đọc phải chơi vơi, hẫng hụt, có gì đó : “ chập chờn năm tháng, bảng lảng không gian, xanh mơi mong manh màu kỉ niệm…”. Như vậy, có thể khẳng định rằng, thành công của bài thơ phụ thuộc rất nhiều vào tứ thơ. Trở lại bài thơ Tràng giang, Huy Cận đã chọn tứ thơ Tràng giang- vừa là tên bài thơ, vừa là mạch cảm xúc lan toả, chảy tràn trong từng câu chữ. Tràng giang có nghĩa là sông dài. Nhưng nó khác với trường giang ở chỗ nó gọi được cái rộng lớn, bao la của không gian. Bởi vậy, mà nó mới độc đáo, bơỉ vậy mà nó mới khêu gợi được cả xúc cảm, cả ấn tượng của độc giả từ cái bắt nhịp đầu tiên vào tác phẩm. Tứ thơ Tràng giang xuất hiện không trực tiếp trong lời đề từ: “ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.” Tràng là dài, giang là sông. Nghĩa của từ Tràng giang được nhắc lại đầy đủ trong lời đề từ. Đó vừa là cảm xúc ( Bâng khuâng – nhớ ) trước thiên nhiên bao la rộng lớn ( trời rộng – sông dài ), vừa là nỗi buồn phảng phất được gợi lên bởi sự xa cách, chia ly giữa trời và sông ( trời rộng nhớ sông dài). Để rồi từ lời đề từ này, mạch cảm xúc của bài thơ cứ chảy tràn, chảy miết theo nhịp cuộn của sông nước mênh mang. Để nói về tầm quan trọng của tứ thơ Tràng giang, có ý kiến cho rằng thử bỏ tất cả những chữ có liên quan đến sông nước mênh mông. Chắc chắn, bài thơ sẽ sụp đổ. Nó sẽ không còn là Tràng giang nữa bởi ý đồ nghệ thuật và ý đồ tư tưởng của nhà thơ đã không tồn tại. Tràng giang đã trở thành một cái cớ để giúp Huy Cận tự tin, thăng hoa trong từng bức tranh miêu tả cảnh vật. Bài thơ có bốn khổ, viết theo thể thất ngôn trường thiên. Mỗi khổ thơ là một sự khám phá của tác giả về thiên nhiên và vũ trụ, về cái nhịp nhàng, lặng lẽ của thế giới bên trong con người: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp. Con thuyền xuôi mái nước song song. Tràng giang đó, bình thản suy tư qua bao lớp sóng buồn điệp điệp, qua dòng khơi nước song song, cảm giác buồn gửi lại trong vần điệu, trong những từ ngữ gợi hình, trong không gian của vũ trụ mênh mông. Xuân Diệu nói: “Bài thơ hầu như đã trở thành cổ điển của một nhà thơ Mới.” Cổ điển trong tứ thơ, trong nhan đề, trong lời đề từ, và cổ điển trong cả đề tài về sông nước. Tứ thơ tràng giang không chỉ dừng lại ở đó. Người ta nhắc nhiều đến hình ảnh “củi một cành khô”. Bên những cái đã thành truyền thống, mang tầm vóc lớn là sông, là thuyền, bỗng dưng xuất hiện cái tầm thường, nhỏ nhoi, vô nghĩa, mang đậm chất hiện thực, thô ráp của đời thường. Nói như Xuân Diệu, đó là sự chân thực đến mức sống sít. Nói như Hà Minh Đức, hình ảnh cành củi khô chính là thân phận của cỏ cây đã mấy lần thương đau, khô héo, mấy lần trôi dạt. Cái hay của thi phẩm chính là ở sự kết hợp độc đáo này. Bùi Công Hùng khi “ Bàn thêm về tứ thơ” ( TCVH 1/1986 ) có khẳng định rằng: “Tứ thơ là linh hồn, là cốt tuỷ của bài thơ, là cái phần tinh túy có khi không rõ hình hài nhưng có sức lay động tâm hồn.” Huy Cận đã rất tài tình khi chọn được tứ thơ Tràng giang. Nó vừa có không khí đường thi, cổ kính của phương Đông, vừa có hơi thở mới lạ độc đáo của thơ Mới. Bởi vậy, đã ba phần tư thế kỉ trôi qua kể từ khi bài thơ ra đời, Tràng giang từng song hành với rất nhiều thi phẩm hay của nhiều xu hướng, trào lưu nghệ thuật khác nhau, song giá trị của nó thì vẫn không hề bị suy giảm, vẫn trường tồn trong suy nghĩ và cảm nhận của độc giả. Tứ thơ Tràng giang trước hết gợi cho người đọc một bức tranh về thiên nhiên. Thiên nhiên trải dài, xuyên suốt và được sắp xếp theo hệ thống đôí lập. Một bên là những hình ảnh cao lớn, rộng dài bao la kì vĩ mang chiều vũ trụ: sông dài, trời rộng, mây cao, núi bạc, bờ xanh, bãi vàng… Một bên là những hình ảnh, sự vật nhỏ bé đơn sơ, trơ trọi, trôi nổi vật vờ: con thuyền, cồn nhỏ, bèo dạt…Hệ thống hình ảnh đối lập này đã tạo nên sự liên tưởng về thân phận con người nhỏ bé, bơ vơ, bất lực, buông xuôi, không định hướng như bèo dạt hàng nối hàng không biết đi về đâu, như một cành củi khô lạc mấy dòng.. Huy Cận rất tài tình khi chọn tứ là Tràng giang chứ không phải trường giang. Dù cả hai từ này nghĩa đều giống nhau. Tràng giang- với sự láy lại 2 lần của vần ang, vô hình chung đã làm kéo dài ngữ điệu, gợi lên một cảm giác mênh mang khó tả. Cái cảm giác ấy có tên là nỗi buồn.Nỗi buồn choáng ngợp câu chữ, choáng cả thời gian, không gian, và choáng cả cảnh vật “buồn điệp điệp”, “ sầu trăm ngả”, “ bến cô liêu”…Giữa cảnh sông nước mênh mang, không có con đò, không có chiếc cầu để gợi lên chút hi vọng về một bến bờ khác, giúp vượt thoát khỏi thực tại. Không gian tuyệt đối tĩnh lặng. Sóng gợn nhẹ, bờ bãi lặng lẽ,chỉ có thứ âm thanh từ kí ức xa xăm dội về tâm tưởng thành niềm khát khao, thành một câu hỏi day dứt: Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều? Khổ cuối của bài thơ là một cỏch kết hay. Hay bởi nú lạ. Một cỏi nhỡn xa vời đến mọi phớa chõn trời. Cỏnh chim như chở nặng búng chiều đang “nghiờng cỏnh nhỏ”. Mõy lớp lớp đựn lờn như những “nỳi bạc”. Cảnh tượng trỏng lệ. Cỏnh chim nhỏ nhoi tương phản với bầu trời bao la, với lớp lớp nỳi mõy bạc nhằm đặc tả nỗi buồn cụ đơn. Hoàng hụn phủ mờ tràng giang. Con nước làm xỳc động lũng quờ. Thụi Hiệu 13 thế kỷ trước, đứng trờn lầu Hoàng Hạc, nhỡn sụng Hỏn Dương, lũng thổn thức: “Trờn sụng khúi súng cho buồn lũng ai”. Với Huy Cận, chiều nay trờn Tràng giang, nỗi buồn nhớ quờ nhà nhiều lần nhõn lờn thấm thớa: “Khụng khúi hoàng hụn cũng nhớ nhà”. Nỗi nhớ quờ, nhớ nhà mờnh mang như gửi về mọi phớa chõn trời và đang trụi theo tràng giang. Xuõn Diệu đỏnh giỏ: Tràng giang là bài thơ ca hỏt non sụng đất nước, qua đú dọn đường cho tỡnh yờu giang san Tổ quốc. Để làm được điều này, khi đọc tiếp cận với bài thơ, người ta khụng thể khụng đề cập độn tứ thơ Trang giang- Một tứ thơ vừa cũ vừa mới, vừa quen mà vừa lạ….

File đính kèm:

  • docTu tho va thi pham Trang giang.doc