Đề thi Olympic Ngữ văn 8 (Có đáp án)
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề thi Olympic Ngữ văn 8 (Có đáp án), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề thi Olympic lớp 8
Câu 1: ( 4 điểm) Cảm nhận của em về đoạn văn sau:
“Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám
mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường. Tôi quên
thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi
mỉm cười giữa bầu trời quang đãng”.
(Trích “Tôi đi học”-Thanh Tịnh, Ngữ văn 8, Tập 1)
Câu 2 : (6 điểm) Suy nghĩ của em về ý nghĩa giáo dục của câu chuyện sau đây:
Bài thuyết giảng
Tại ngôi làng nhỏ, vào ngày chủ nhật, có vị giáo sư thường đến nói chuyện về cuộc
sống. Hôm nay ông đến thăm nhà của cậu bé vốn không hề muốn chơi hay kết bạn với
ai.Cậu bé mời vị giáo sư vào nhà và lấy cho ông một chiếc ghế ngồi bên bếp lửa cho ấm.
Trong im lặng, hai người cung ngồi nhìn những ngọn lửa nhảy múa. Sau vài phút, vị
giáo sư lấy cái kẹp, cẩn thận nhặt một mẩu than hồng đang cháy sáng ra và đặt nó sang bên
cạnh lò sưởi.
Rồi ông lại ngồi xuống ghế, vẫn im lặng. Cậu bé cũng im lặng quan sát mọi việc.
Cục than đơn lẻ cháy nhỏ dần rồi tắt hẳn.
Vị giáo sư nhìn đồng hồ và nhận ra đã đến giờ ông phải đi thăm nhà khác. Ông chậm
rãi đứng dậy, nhặt cục than lạnh đặt vào giữa bếp lửa. Ngay lập tức, nó lại bắt đầu cháy,
tỏa sáng với ánh sáng và hơi ấm của những cục than xung quanh nó.
Khi vị giáo sư đi ra cửa, cậu bé chủ nhà nắm tay ông nói:
- Cảm ơn bài thuyết giảng của bác!
( First News - theo The Values of Life - Hạt giống tâm hồn - Từ những điều bình dị, NXB
Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2006, trang 136)
Câu 3 : (10 điểm )
“ Chao ôi ! Đối với những người sống quanh ta , nếu ta không cố mà tìm hiểu họ,
thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi toàn những cớ để cho ta tàn
nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương cái
bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất ”
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Từ các nhân vật trong tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao,
em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
-----------------------------------Hết---------------------------------
Hướng dẫn chấm
Câu 1(4điểm) 1. Về hình thức: ( 1đ )
- Có thể trình bày bằng cách viết đoạn văn hoặc bài văn ngắn.
- Lập luận rõ ràng, chính xác, có cảm xúc văn học, không mắc lỗi chính tả và diễn
đạt.
2. Về nội dung : ( 3 điểm) Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, có thể có những phát hiện và
cảm thụ riêng nhưng cần nêu được một số ý cơ bản sau:
Đoạn văn đã tô đậm cảm giác trong trẻo, tươi sáng của nhân vật “ tôi” trong buổi tựu
trường đầu tiên. Kỷ niệm ấy như còn hiển hiện rất rõ với thời gian, không gian cụ thể và
tâm trạng nhớ về buổi tựu trường như còn tươi mới với cảm giác rộn ràng đầy xúc cảm.
Dòng hồi tưởng được khơi gợi rất tự nhiên, bắt đầu bằng những biến chuyển của trời đất
cuối thu “hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những
đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường”.
Thời điểm ấy thường gợi cho lòng người những bâng khuâng hoài nhớ. Những từ láy náo
nức, mơn man diễn tả những rung động thiết tha vô cùng trẻ trung trong tâm hồn nhân vật
bất chấp bao năm tháng đã đi qua. Điệp ngữ lòng tôi diễn tả sức sống lâu bền của kỷ niệm.
Hai chữ mơn man đầy gợi cảm, thể hiện trạng thái êm ái, nhẹ nhàng trong tâm hồn tác giả
khi được sống lại kí ức tuổi thơ.
Nhớ lại những kỷ niệm của buổi tựu trường, nhân vật tôi nhớ lại những cảm giác
trong sáng để lại những dấu ấn lâu bền trong lòng mình “tôi quên thế nào được những cảm
giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười” giữa bầu trời
quang đãng”. Tâm trạng ấy, “những cảm giác trong sáng ấy được thể hiện cụ thể và chính
xác nhờ hình ảnh so sánh như mấy cánh hoa tươi và phép nhân hóa mấy cánh hoa tươi mỉm
cười vừa diễn tả những cảm giác đẹp đẽ, trong sáng trong tâm hồn của cậu học trò nhỏ, vừa
tạo nên chất thơ tươi tắn và man mác lan tỏa trong mạch văn.
Câu 2(6điểm)
* Yêu cầu về kĩ năng: (1 điểm )
- Bài viết có bố cục và cách trình bày hợp lí.
- Hệ thống ý (luận điểm) rõ ràng và được triển khai tốt.
- Diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ và ngữ pháp.
* Yêu cầu về nội dung: (5 điểm )
- Nhận xét khái quát câu chuyện:
+ Điều thú vị ở chỗ truyện có tựa đề là Bài thuyết giảng nhưng vị giáo sư lại không
hề nói một câu nào. Ông trực tiếp dùng cục than hồng trong bếp lò làm một ẩn dụ để kín
đáo gửi gắm vào đó những điều muốn nói. Cách thuyết giảng có tính trực quan và đặc biệt
đã tác động tích cực và mạnh mẽ đến cậu bé.
-Chỉ ra được ý nghĩa giáo dục của câu chuyện.
+ Khuyên con người phải sống hòa nhập với tập thể, với cộng đồng. Bởi vì chỉ như
thế mỗi cá nhân mới có thể tồn tại và tỏa sáng.
- Bàn luận về ý nghĩa giáo dục và rút ra bài học.
Truyện đã đưa ra một lời khuyên hoàn toàn đúng đắn, bởi vì:
+ Chỉ khi hòa nhập mình vào tập thể, cá nhân mới có thể tìm thấy niềm vui, mới
phát huy được năng lực, sở trường và sức mạnh của chính mình..
( học sinh phân tích lí giải và dẫn chứng) .
+ Nếu tách rời tập thể thì cá nhân sẽ cô đơn, sẽ không thể và khó phát huy được
mình ( học sinh phân tích lí giải và dẫn chứng) .
- Trách nhiệm của cá nhân đối với tập thể và cộng đồng: Trân trọng, bảo vệ và luôn
có ý thức hòa mình vào tập thể Câu 3(10điểm) a. Yêu cầu về kĩ năng:
- Biết vận dụng kiểu bài nghị luận sử dụng hợp lí các thao tác chứng minh, giải thích.
- Bố cục mạch lạc, các luận điểm, luận cứ rõ ràng.
- Cách lập luận chặt chẽ, lô gic.
- Bài viết trong sáng, không mắc lỗi chính tả,dùng từ ngữ pháp.
b. Yêu cầu về nội dung ( 9 điểm)
1. Mở bài: (1 điểm)
- Dẫn dắt vấn đề: Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội nên việc đánh
giá con người phải có sự tìm hiểu cụ thể.
- Đặt vấn đề: Cách nhìn, đánh giá con người qua câu nói trên.
2. Thân bài (7 điểm)
a. Giải thích nội dung của đoạn văn:
- Lời độc thoại của nhân vật “Ông giáo”- thông qua nhân vật này- tác giả Nam Cao
thể hiện cách nhìn, đánh giá đầy sự cảm thông, trân trọng con người:
Phải đem hết tấm lòng của mình, đặt mình vào hoàn cảnh của họ để cố mà tìm hiểu, xem
xét con người ở mọi bình diện thì mới có được cái nhìn đầy đủ, chắt gạn được những nét
phẩm chất đáng quý của họ, nếu chỉ nhìn phiến diện thì sẽ có ác cảm hoặc những kết luận
sai lầm về bản chất của con người.
b. Chứng minh ý kiến trên qua các nhân vật:
- Lão Hạc: Thông qua cái nhìn của các nhân vật (trước hết là ông giáo), lão Hạc hiện
lên với những việc làm, hành động bề ngoài có vẻ gàn dở, lẩm cẩm
+ Bán một con chó mà cứ đắn đo, suy nghĩ mãi. Lão Hạc sang nhà ông giáo nói
chuyện nhiều lần về điều này làm cho ông giáo có lúc cảm thấy “nhàm rồi”.
+ Bán chó rồi thì đau đớn, xót xa, dằn vặt như mình vừa phạm tội ác gì lớn lắm.
+ Gửi tiền, giao vườn cho ông giáo giữ hộ, chấp nhận sống cùng cực, đói khổ: ăn
sung, rau má, khoai, củ chuối
+ Từ chối gần như hách dịch mọi sự giúp đỡ ; xin bả chó
- Vợ ông giáo: nhìn thấy ở lão Hạc một tính cách gàn dở “Cho lão chết ! Ai bảo lão có
tiền mà chịu khổ ! Lão làm lão khổ chứ ai ”, vô cùng bực tức khi nhìn thấy sự rỗi hơi của
ông giáo khi ông đề nghị giúp đỡ lão Hạc “Thị gạt phắt đi”.
+ Binh Tư: Từ bản tính của mình, khi nghe lão Hạc xin bả chó, hắn vội kết luận ngay
“Lão cũng ra phết chứ chả vừa đâu”.
+ Ông giáo có những lúc không hiểu lão Hạc: “Làm quái gì một con chó mà lão có vẻ
băn khoăn quá thế ?”, thậm chí ông cũng chua chát thốt lên khi nghe Binh Tư kể chuyện
lão Hạc xin bả chó về để “cho nó xơi một bữa lão với tôi uống rượu”: “Cuộc đời cứ mỗi
ngày càng thêm đáng buồn ” Nhưng ông giáo là người có tri thức, có kinh nghiệm sống,
có cái nhìn đầy cảm thông với con người, lại chịu quan sát, tìm hiểu, suy ngẫm nên phát
hiện ra được chiều sâu của con người qua những biểu hiện bề ngoài:
- Ông cảm thông và hiểu vì sao lão Hạc lại không muốn bán chó: Nó là một người bạn
của lão, một kỉ vật của con trai lão; ông hiểu và an ủi, sẻ chia với nỗi đau đớn, dằn vặt của
lão Hạc khi lão khóc thương con chó và tự xỉ vả mình. Quan trọng hơn, ông phát hiện ra
nguyên nhân sâu xa của việc gửi tiền, gửi vườn, xin bả chó, cái chết tức tưởi của lão Hạc: Tất cả là vì con, vì lòng tự trọng cao quý. Ông giáo nhìn thấy vẻ đẹp tâm hồn của lão Hạc
ẩn giấu đằng sau những biểu hiện bề ngoài có vẻ gàn dở, lập dị.
- Ông hiểu và cảm thông được với thái độ, hành động của vợ mình: Vì quá khổ mà trở
nên lạnh lùng, vô cảm trước nỗi đau đồng loại “ Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi.
Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì
khác đâu ? Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp
mất ” . Ông biết vậy nên “Chỉ buồn chứ không nỡ giận”.
Ông giáo là nhân vật trung tâm dẫn dắt câu chuyện, từ việc miêu tả các nhân vật mà
quan sát, suy ngẫm để rồi rút ra những kết luận có tính chiêm nghiệm hết sức đúng đắn và
nhân văn về con người. Có thể nói tác giả đã hóa thân vào nhân vật này để đưa ra những
nhận xét, đánh giá chứa chan tinh thần nhân đạo về cuộc đời, con người. Đây là một quan
niệm hết sức tiến bộ định hướng cho những sáng tác của nhà văn sau này.
3. Kết bài: (1 điểm)
- Khẳng định tính triết lí của câu nói trên. Đó cùng là quan niệm sống, tình cảm của tác
giả.
- Suy nghĩ của bản thân em... 1,0
Có ý kiến cho rằng : " Đọc mỗi tác phẩm văn chương, sau mỗi trang sách, ta đọc
được cả nỗi niềm băn khoăn , trăn trở của tác giả về số phận con người"
Dựa vào hai văn bản : Lão Hạc ( Nam Cao ) và Cô bé bán diêm ( An- đéc - xen) , em hãy
làm sáng tỏ nỗi niềm đó.
H/d:
A Mở bài:
- Dẫn dắt vấn đề : Vai trò, nhiệm vụ của văn chương : Phản ánh cuộc sống thông qua
cách nhìn,cách cảm của mỗi nhà văn...về cuộc đời, con người.
- Nêu vấn đề : trích ý kiến...
- Giới hạn phạm vi dẫn chứng : Hai văn bản Lão Hạc (Nam Cao) và Cô bé bán diêm
(An-đéc-xen)
B. Thân bài :
I. Khái quát chung
- Giải thích nhận định: Khẳng định vai trò, nhiệm vụ của TP văn chương
- Xuất xứ hai văn bản
II. Chứng minh
1.Những băn khoăn trăn trở của Nam Cao về số phận những người nông dân qua truyện
ngắn Lão Hạc:
a.Nhân vật lão Hạc:
- Sống lương thiện, trung thực, có nhân cách cao quí nhưng số phận lại nghéo khổ,
bất hạnh
+ Sống mòn mỏi, cơ cực : D/C...
+ Chết thê thảm, dữ dội, đau đớn : D/C...
- Những băn khoăn thể hiện qua triết lí về con người của lão Hạc : "Nếu kiếp chó là
kiếp khổ....may ra có sướng hơn kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn"
- Triết lí của ông giáo : Cuộc đời chưa hẳn...theo một nghĩa khác. b. Nhân vật con trai lão Hạc : Điển hình cho số phận không lối thoát của tầng lớp thanh
niên nông thôn...D/C...
2. Những băn khoăn trăn trở của Nam Cao về số phận của những trí thức nghèo trong xã
hội:
- Ông giáo là người có nhiều chữ nghĩa, có nhân cách đáng trọng...nhưng phải sống
trong cảnh nghèo túng : bán những cuốn sách...
3. Những băn khoăn của An-đéc-xen về số phận của những trẻ em nghèo trong xã hội:
- Cô bé bán diêm khổ về vật chất : D/C...
- Cô bé bán diêm khổ về tinh thần , thiếu tình thương, sự quan tâm của gia đình và
xã hội :
D/C...
4. Đánh giá chung :
- Khắc họa những số phận bi kịch...-> giá trị hiện thực sâu sắc
- Đồng cảm, chia sẻ, cất lên tiếng nói đòi quyền sống cho con người ...-> tinh thần
nhân đạo cao cả.
III. Kết bài :
- Khẳng định lại vấn đề...
- Liên hệ.
File đính kèm:
de_thi_olympic_ngu_van_8_co_dap_an.doc