Câu 1.Viên quản ngục có điểm gì khiến Huấn Cao trân trọng mà cho chữ
A. Biết ngưỡng mộ bậc anh hùng
B. Biết nhẫn nhịn trước những lời khinh bạc của Huấn Cao
C. Biết trân trọng tài hoa và cái đẹp
D. Đối xử tử tế với những tên tử tù
Câu 2: Trong những phương án sau, đoạn nào Chí Phèo thấy lòng mơ hồ buồn, vui lẫn lộn, thậm chí đã “ Khóc”, đã “ cười” như trẻ con?
A. Đoạn kể về cơn tỉnh rượu và những ngày sống hạnh phúc bên Thị Nở.
B. Đoạn kể về cuộc ăn vạ khi mới ở tù về.
C. Đoạn kể về cơn say ở nhà Tự Lãng
D. Đoạn kể về cơn ấm đầu của Bá Kiến và hành vi báo thù của Chí Phèo.
Câu 3: Thủ đoạn nào của Bá Kiến tỏ rõ sự độc ác, nham hiểm hơn cả?
A. “ Ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn”.
B. “ Bám lấy thằng có tóc không ai bám thằng trọc đầu”.
C. “ Mềm nắn rắn buông”.
D. Dùng “ thằng đầu bò” để “trị thằng đầu bò”.
Câu 4: Ở Thị Nở có đủ mọi cái thua thiệt kém cỏi: nghèo, xấu, dở hơi, thuộc dòng họ nhà có mả hủi,.nhưng người đàn bà ấy vẫn quá tầm vưói chí Phèo. Thể hiện điều đó, Nam Cao nhằm:
A. Chế giễu những người đàn bà như Thị Nở
B. Chế giễu những gã lưu manh như Chí Phèo.
C. Tô đậm cái bi đát trong số phận Chí Phèo.
D. Làm cho chuyệncó vẻ oái ăm kì thú.
Câu 5. Huấn Cao có những tài năng nào
A.Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa viết chữ đẹp
B. Viết chữ nhanh và đẹp bẻ khóa vượt ngục
C.Tháo xiềng vượt ngục viết chữ nhanh
D. Cầm quân viết tứ bình bẻ khóa
22 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1482 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề văn cuối kỳ I ngữ văn 11 nâng cao, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
11 nâng cao
Câu 1.Viên quản ngục có điểm gì khiến Huấn Cao trân trọng mà cho chữ
A. Biết ngưỡng mộ bậc anh hùng
B. Biết nhẫn nhịn trước những lời khinh bạc của Huấn Cao
C. Biết trân trọng tài hoa và cái đẹp
D. Đối xử tử tế với những tên tử tù
Câu 2: Trong những phương án sau, đoạn nào Chí Phèo thấy lòng mơ hồ buồn, vui lẫn lộn, thậm chí đã “ Khóc”, đã “ cười” như trẻ con?
A. Đoạn kể về cơn tỉnh rượu và những ngày sống hạnh phúc bên Thị Nở.
B. Đoạn kể về cuộc ăn vạ khi mới ở tù về.
C. Đoạn kể về cơn say ở nhà Tự Lãng
D. Đoạn kể về cơn ấm đầu của Bá Kiến và hành vi báo thù của Chí Phèo.
Câu 3: Thủ đoạn nào của Bá Kiến tỏ rõ sự độc ác, nham hiểm hơn cả?
A. “ Ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn”.
B. “ Bám lấy thằng có tóc không ai bám thằng trọc đầu”.
C. “ Mềm nắn rắn buông”.
D. Dùng “ thằng đầu bò” để “trị thằng đầu bò”.ø
Câu 4: Ở Thị Nở có đủ mọi cái thua thiệt kém cỏi: nghèo, xấu, dở hơi, thuộc dòng họ nhà có mả hủi,..nhưng người đàn bà ấy vẫn quá tầm vưói chí Phèo. Thể hiện điều đó, Nam Cao nhằm:
A. Chế giễu những người đàn bà như Thị Nở
B. Chế giễu những gã lưu manh như Chí Phèo.
C. Tô đậm cái bi đát trong số phận Chí Phèo.
D. Làm cho chuyệncó vẻ oái ăm kì thú.
Câu 5. Huấn Cao có những tài năng nào
A.Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa viết chữ đẹp
B. Viết chữ nhanh và đẹp bẻ khóa vượt ngục
C.Tháo xiềng vượt ngục viết chữ nhanh
D. Cầm quân viết tứ bình bẻ khóa
Câu 6: Viên quản ngục trong truyện ngắn: Chữ người tử tù” có điểm gì khiến Huấn Cao trân trọng mà cho chữ?
A. Biết ngưỡng mộ bậc anh hùng
B. Biết nhẫn nhục trước những lời khinh bạc của Huấn Cao.
C. Biết trân trọng tài hoa và cái đẹp
D. Đối xử rử tế với những kẻ tử tù.
Câu 7 : Nếu Huấn Cao không cho chữ quản ngục thì điều gì chắc chắn sẽ xảy ra?
Hình tượng Huấn Cao sẽ không trọn vẹn tư tưởng của truyện không phát triển được.
Viên quản ngục sẽ sống tàn nhẫn để trả thù.
Viên quản ngục sẽ coá quna về quê, ăn năn hối lỗi.
Huấn Cao không có cơ hội thể hiện tài năng lần cuối, không có cơ hội khuyên nhủ quản ngục.
Câu 8: Tình huống nào là tình huống trào phúng chính của đoạn trích Hạnh phúc một tang gia ?
Mọi người vui mừng khi nghĩ đến món tiền mà mình sẽ được chia từ gia tài của cụ cố tổ.
Lo chuyện cưới xin của cô Tuyết trong khi cụ cố tổ vừa chết.
Mọi người chỉ nghĩ đến việc lo tang phục mà không nghĩ đến việc tổ chức đám ma cho người chết.
Sự băn khoăn của ông Văn Minh về việc lo trả ơn cho Xuân tóc đỏ vì có công gây nên cái chết của cụ tổ.ù
Câu 9 : Qua đoạn trích “ Hạnh phúc của một tang gia” Vũ Trọng Phụng đã phê phán mạnh mẽ:
Bản chất giả dối, sự lố lăng, đồi bại của xã hội thượng lưu ngày trước
Bọn người bất hiếu mất hết tính người trong gia đình cụ cố Hồng.
Lối sống chạy theo thời của những con người thượng kưu ngày trước.
Những con người bất tài nhưng vì biết lợi dụng cơ hội nên trèo lên được đỉnh cao của vinh quang, quyền lực và tiền bạc.
C©u 10: Søc hÊp dÉn cđa truyƯn Th¹ch Lam chđ yÕu to¸t ra tõ ®©u:
a. T×nh huèng sù kiƯn
b. C¸c xung ®ét
c. TÝnh c¸ch sè phËn nh©n vËt
d. ThÕ giíi néi t©m cđa nh©n vËt
Câu 11 : Trong các tác phẩm sau, tác phẩm nào là thơ trữ tình:
1 Thương vợ, 2 Hầu trời, 3 Vịnh khoa thi Hương, 4 Khóc Dương Khuê, 5 Tự tình, 6 Câu cá mùa thu, 7 Mồng hai tết viếng cô Kí.
A. 1, 4, 5, 6 B. 1, 3, 5, 7 C. 2, 4, 6, 7 D. 3, 4, 5, 7.
C©u 12 : Trong truyƯn ng¾n Hai ®øa trỴ , ba bøc tranh liªn hoµn miªu t¶ phè huyƯn trong nh÷ng thêi gian nµo ?
A : S¸ng , chiỊu , tèi
B : ChiỊu , chËp tèi , ®ªm khuya
C : Tra , chiỊu , tèi
D : S¸ng , tèi , ®ªm khuya.
Câu 13 : Ý nào sau đây không đúng?
Trong câu ghép chính phụ, vế câu bắt đầu bằng từ “ tuy” luôn là vế câu mở đầu.
Thành phần phụ chú phải đứng sau liền kề những từ ngữ, những ý mà nó giải thích.
Trong câu ghép chính phụ, vế câu nêu nguyên nhân có thể đứng đầu hoặc đứng sau vế câu kết quả.
Vị trí của trạng ngữ trong câu có ảnh hưởng đến nội dung thể hiện cảu câu.
Câu 14 : Trong trích đoạn Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của vở kịch Vũ Như Tô” mỗi lần nghe nói đến Cửu Trùng Đài bị phá, Vũ Như Tô đều nói “ Vô lí”. Câu nói đó có ý nghĩa gì?
A.Vũ Như Tô tin tưởng vào khả năng cảm nhận nghệ thuật của mọi người và ông luôn nghĩ mọi người sẽ cùng ông gìn giữ công trình kiến trúc “ tranh tinh xảo với tạo hoá” này
B.Người nghệ sĩ này không tin người đời lại dám phá bỏ một công trình kiến trúc tinh xảo như vậy.
C.Người nghệ sĩ này luôn tin rằng mọi người đều ủng hộ ông và xem Cửu Trùng Đài là một kì công cần phải gìn giữ.
D. Vũ Như Tô không bao giờ nghĩ rằng người ta lại có thể đang tâm phá vỡ một công trình kiến trúc tuyệt mĩ như thế.
C©u 15: Truyện Hai đứa trẻ không nhằm tái hiện gợi tả thành công bức tranh nào?
Bức tranh quê hương giàu chất thơ
Bức tranh ngoại cảnh và tâm hồn dệt bằng cảm giác
Bức tranh hiện thực về cuộc sống dân nghèo phố huyện
Bức tranh hòa phối tự nhiên về sắc độ ánh sáng và bóng tối
C©u 16 : T©m tr¹ng Liªn khi chiỊu bu«ng xuèng n¬i phè huyƯn
A : Muèn nhËp bän víi tơi trỴ ®Ĩ n« ®ïa
B : Nhê Hµ Néi
D : N«n nãng chê ®ỵi chuyÕn tµu ®ªm
C : Buån man m¸c
Câu17 : Rô mê ô trong đoạn trích Tình yêu và thù hận đã gọi Giu li et là gì?
Mặt trời, vừng dương, cô hầu của Hằng Nga.
Phương đông, Hằng Nga, mặt trời.
Vừng dương, Hằng Nga, mặt trời.
Vừng dương, cô hầu của Hằng Nga, phương Đông.
Câu 18: Xung đột chính của vở kịch Rô mê ô và Giu li ét là gì?
Tình yêu và mối thù dòng họ.
Mối thù hận giữa hai dòng họ.
Tình yêu tự do và quan niệm phong kiến về hôn nhân.
Sự phân biệt sang hèn trong xã hội.
Câu 19: Hoàn cảnh sáng tác của một tác phẩm văn học là:
Bối cảnh văn hoá, bao gồm toàn bộ những nhân tố xã hội địa lí kinh tế văn hoá phong tục…khi tác phẩm đó được thai nghén và ra đời.
B. Toàn bộ những nhân tố xa hội, địa lí kinh tế văn hoá, phong tục mà tác phẩm đó thể hiện.
C. Tình hình lịch sử xã hội khi tác phẩm xuất hiện và vấn đề lịch sử mà tác phẩm đó muốn thể hiện.
D. Bối cảnh đặc biệt tạo nên cảm hứng sáng tạo cho nhà văn.
Câu 20. Hiện thực được nói tới trong câu nói của An với Liên : “ Tàu hôm nay không đông chị nhỉ “ là:
Nhận xét với Liên về đoàn tàu vừa đi qua: tàu đêm nay không đông khách như những đêm trước.
Tại chõng tre trước cửa hàng nhỏ xíu của chị em Liên. Đêm khuya. Đoàn tàu phố huyện gây nên xáo trộn nhỏ nơi con phố vốn vắng vẻ, tĩnh lặng.
Thông báo vóùi Liên đoàn tàu đã đến và đã đi qua. Đồng thời thể hiện nỗi buồn của An vì sự thưa thớt khách trên tàu.
Xã hội Việt Nam vào những năm trước Cách mạng tháng Tám. Lúc đó, đời sống của người dân nghèo khổ, lam lũ nhiều.
Tản Đà
Bách khoa tồn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Tản Đà (1988-1939)
Tản Đà (1888–1939) là một thi sĩ, văn sĩ, kịch tác gia lãng mạn người Việt Nam. Trên văn đàn của văn học Việt Nam trong hơn 3 thập niên đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngơi sao sáng, vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tạo. Ơng là một cây bút phĩng khống, xơng xáo trên nhiều lĩnh vực, đi khắp miền đất nước, ơng để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Ơng đã từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí. Ơng được đánh giá là người mở đầu cho thơ mới của văn học Việt Nam, là "gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại". Ngồi sáng tác thơ, Tản Đà cịn dịch thơ Đường và được biết đến như một người dịch thơ Đường sang thơ lục bát hay nhất Việt Nam.
Mục lục
[giấu]
1 Cuộc đời và sự nghiệp
2 Danh ngơn
3 Tác phẩm
4 Liên kết ngồi
[sửa] Cuộc đời và sự nghiệp
Ơng tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1888 (tức ngày 29 tháng 4 năm Mậu Tý), tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây; nay là huyện Ba Vì (một thời thuộc ngoại thành Hà Nội, nay thuộc tỉnh Hà Tây).
Ơng xuất thân trong một gia đình phong kiến quan lại. Thân sinh ơng là Nguyễn Danh Kế, đỗ Cử nhân, làm đến Án sát và từng giữ chức Ngự sử trong kinh. Mẹ là Lưu Thị Hiền, cũng cĩ sách ghi là đào Nghiêm, vốn là một đào hát, nổi tiếng tài sắc, giỏi văn thơ.
Do ảnh hưởng gia đình, năm 14 tuổi, ơng đã thạo các lối từ chương thi phú. Năm 1907, ơng theo anh ra Hà Nội, học trường Quy Thức ở phố Gia Ngư. Năm 1909, đi thi hương ở Nam Định, bị hỏng. Năm 1912, đi thi khoa Nhâm Tý, vẫn hỏng. Trở về Hà Nội, chứng kiến người yêu là cơ Đỗ thị đi lấy chồng, ơng chán nản bỏ về Hịa Bình tìm khuây lãng; rồi cùng bạn là nhà tư sản Bạch Thái Bưởi lên chùa uống rượu, làm thơ và thưởng trăng, sống theo lối "tịch cốc".
Năm 1915, ơng lập gia đình. Năm 1916, người anh từ trần, gia đình trở nên cùng túng, Tản Đà quyết định chuyển hẳn sang nghề cầm bút. Thời gian này ơng viết tuồng cho các rạp và được đọc thêm nhiều sách dịch Âu Tây bằng chữ Hán, nhờ đĩ tư tưởng cĩ nhiều biến chuyển.
Năm 1920, đi du lịch ở Huế, Đà Nẵng, trở về viết truyện "Thề non nước". Năm 1921, làm chủ bút tờ Hữu Thanh tạp chí. Được 6 tháng, từ chức, trở về quê. Năm 1922, lại ra Hà Nội lập Tản Đà thư điếm, sau tập hợp với Nghiêm hàm ấn quán thành Tản Đà thư cục.
Năm 1925, phong trào yêu nước dấy lên mạnh mẽ, Tản Đà càng nhập thế tích cực hơn. Ơng tổ chức một chuyến du lịch vào Nam, gặp gỡ nhiều nhà chí sĩ và viết bài trên nhiều báo.
Tháng 2 năm 1928, trở về Bắc, rồi lên định cư vùng Yên Lập (Vĩnh Yên), nhưng bị quan lại địa phương gây khĩ dễ, phải xuống Hải Phịng, rồi lại lên Hà Nội. Năm 1933, sau khi An Nam tạp chí bị đình bản, ơng chuyển sang trợ bút cho Văn học tạp chí ít lâu rồi về quê ở ẩn.
Cuối năm 1937, chuyển về làng Hà Trì (Hà Đơng), tham gia dịch thuật, viết báo. Sau vì bị viên quan Tổng đốc Hà Đơng thù ghét, phải chuyển ra Hà Nội, mở lớp dạy Quốc văn hàm thụ, Hán văn diễn giảng, kiêm cả xem lý số Hà lạc. Ơng sống nghèo đĩi, khơng đủ ăn và trả tiền nhà, bị chủ nhà tịch thu đồ đạc và đuổi đi, Tản Đà phải cùng gia đình dọn về phố Cầu mới.
Trong hai năm 1937 và 1938, ơng dịch thơ Đường đăng trên báo Ngày nay, trong đĩ cĩ bài Hồng Hạc lâu nổi tiếng của Thơi Hiệu.
Ơng qua đời vì bệnh vào ngày 17 tháng 6 năm 1939.
Đêm đơng hồi cảm (Tản Đà, Việt Nam)
Thể thơ: Song thất lục bát (thời kỳ: Cận đại)Đã được xem 362 lầnĐăng bởi Điệp luyến hoa vào 21/10/2005 19:48Đã sửa 1 lần, lần sửa cuối bởi Điệp luyến hoa vào 27/05/2006 07:39
Bầu chọn: 1 | 2 | 3 | 4 | 5
Thao tác
Thao tác
Gửi cho bạnXuất RSS
Trăm năm nghĩ đời người cĩ mấy Một đêm đơng sao thấy dài thay! Lạnh lùng giĩ thổi sương bay Chập chờn giấc bướm canh chầy lại canh. Ngĩ trên án đèn xanh hiu hắt, Nghe tiếng kim kí cách giục giờ, Đêm trường nghĩ vẩn lo vơ Cái lo vơ tận bao giờ là xong! Thân nam tử đứng trong trần thế Cuộc trăm năm cĩ dễ ru mà! Cĩ đời mà đã cĩ ta Sao cho thân thế khơng là cỏ cây, Đường cĩ kẻ đường mây gặp bước, Bước cơng danh sấn trước trèo cao Thế gian tỏ mặt anh hào Muơn nghìn mắt miệng trơng vào ngợi khen. Cũng cĩ kẻ tài hoa chữ lợi Trắng hai tay làm nổi nên giàu Chẳng khanh tướng, chẳng cơng hầu Cũng bao vạn kẻ cúi đầu vào ra. Ấy những hạng vinh hoa phú quý Làm tài trai đắc chí hơn người Trăm năm nghĩ cũng nên đời Trăm năm rồi nữa, biết rồi ra sao? Lại những kẻ chí cao tài thấp Bước đường đời lấp vấp quanh co Phong lưu rồi đủ ấm no Kém ra lưu lạc giang hồ cũng thân! Nghĩ qua thử thách trần bao kẻ Giật mình cho thân thế trăm năm, Mối đâu bối rối tơ tằm Lấy ai là kẻ đồng tâm gỡ cùng? Bước lận đận thẹn cùng sơng núi Mớ văn chương tháng lụi năm tàn Lụy trần ngày tháng lan man Nỗi lịng riêng nghĩ muơn vàn càng thêm. Đèn hiu hắt tiếng kim kí cách Mõ sang canh giục khách địi cơn Mạch sầu canh vắng như tuơn, Nhớ ai nước nước non non bạn tình!
Đề khối tình con thứ nhất (Tản Đà, Việt Nam)
Thể thơ: Thất ngơn bát cú (thời kỳ: Cận đại)Đã được xem 301 lầnĐăng bởi Điệp luyến hoa vào 21/10/2005 18:31
Bầu chọn: 1 | 2 | 3 | 4 | 5
Thao tác
Thao tác
Gửi cho bạnXuất RSS
Chữ nghĩa Tây, Tầu trĩt dở dang Nơm na phá nghiệp kiếm ăn xồng. Nửa ngịi bút ngỗng ba sinh lụy, Một mối tơ tằm mấy đoạn vương. Cĩ kẹo cĩ câu là sách vở, Chẳng lề chẳng lối cũng văn chương. Cịn non cịn nước cịn trăng giĩ, Cịn cĩ thơ ca bán phố phường.
Cịn chơi (Tản Đà, Việt Nam)
Thể thơ: Thơ mới bảy chữ (thời kỳ: Cận đại)Đã được xem 257 lầnĐăng bởi Điệp luyến hoa vào 21/10/2005 19:26Đã sửa 1 lần, lần sửa cuối bởi Điệp luyến hoa vào 27/05/2006 07:26
(4 điểm, 1 người bầu)Bầu chọn: 1 | 2 | 3 | 4 | 5
Thao tác
Thao tác
Gửi cho bạnXuất RSS
Ai đã hay đâu tớ chán đời Đời chưa chán tớ, tớ cịn chơi. Chơi cho thật chán, cho đời chán, Đời chán nhau thời tớ sẽ thơi. Nĩi thế, can gì tớ đã thơi ? Đời đương cĩ tớ, tớ cịn chơi Người ta chơi đã già đời cả Như tớ năm nay mới nửa đời. Nửa đời chính độ tớ đương chơi Chơi muốn sao cho thật sướng đời. Đời người ai cĩ chơi như tớ Chơi cứ bằng văn mãi chửa thơi. Chơi văn sướng đến tớ là thơi, Một mảnh trăng non chiếu cõi đời Văn vận nước nhà đương buổi mới Như trăng mới mọc tớ cịn chơi. Làng văn chi thiếu khách đua chơi, Dan díu ai như tớ với đời ? Tớ đã với đời dan díu mãi, Muốn thơi, đời cũng chửa cho thơi. Đời đương dan díu, chửa cho thơi Tớ dám xa xơi để phụ đời ? Vắng tớ bấy lâu đời nhớ tớ, Nhớ đời nên tớ vội ra chơi. Tớ hãy chơi cho quá nửa đời Đời chưa quá nửa tớ chưa thơi. Tớ thơi, tớ nghĩ buồn cho tớ, Buồn cả cho đời vắng bạn chơi. Nào những ai đâu bạn của đời ? Sao mà bỏ vắng ít ra chơi ? Chờ ai, chờ mãi, ai đâu tá ? Hay ngán cho đời chẳng muốn chơi ? Nếu tớ như ai cũng ngán đời Đời thêm vắng bạn, lấy ai chơi ? Cuộc đời tớ nghĩ chưa nên ngán. Nên ngán thời xưa tớ đã thơi. Tớ nhớ năm xưa nửa ngán đời, Nghĩ đi nghĩ lại, lại ra chơi. Mê chơi cho tớ thành dan díu, Đời dẫu cho thơi tớ chửa thơi. Tớ muốn chơi cho thật sướng đời, Đời chưa thật mãn, tớ chưa thơi. Chẳng hay đời tớ lâu hay chĩng ? Dù chĩng hay lâu, tớ hãy chơi. Trăm năm: tớ độ thế mà thơi, ức triệu ngàn năm chửa hết đời. Chắc cĩ một phen đời khĩc tớ Đời chưa khĩc tớ, tớ cịn chơi. Trăm năm cịn độ bảy mươi thơi, Ngồi cuộc trăm năm tớ dặn đời: ức triệu ngàn năm đời nhớ tớ, Tớ thơi tớ cũng hãy cịn chơi! Bút đã thơi rồi lại chửa thơi, Viết thêm câu nữa hỏi đời chơi: "Lộng hồn" này điệu từ đâu trước ?" Hoạ được hay khơng, tớ đố đời!
TẢN ĐÀ - đặt vấn đề
Wednesday, 24. January 2007, 03:51:15
Văn học giao thời
Nghiên cứu trước tác của các tác giả văn học giao thời thấy nổi lên hai đặc điểm cơ bản sau:-số lượng các tác phẩm khơng nhiều, khơng cĩ những tác phẩm cĩ giá trị kết tinh nghệ thuật ở trình độ cao.-vì nhiều lý do khác nhau, khơng cĩ nhiều những nhà văn mà quá trình sáng tác kéo dài trong suốt giai đoạn văn học. Cĩ lẽ đây là những đặc điểm tất yếu của một nền văn học chưa thực sự được chuyên nghiệp hĩa như ở giai đoạn sau này.
Đặt trong tương quan ấy mới thấy hết ý nghĩa văn học sử của hiện tượng Tản Đà. Cùng với Phan Bội Châu, sáng tác của Tản Đà kéo dài trong hầu khắp giai đoạn giao thời. Cũng như Phan Bội Châu, sáng tác của Tản Đà trải trên nhiều thể loại khác nhau. Cả hai, bằng những cách thức khác nhau, dường như là sự kiểm tra, tổng duyệt lại năng lực biểu đạt nghệ thuật của tồn bộ hệ thống thể loại văn học truyền thống trước những địi hỏi mới mẻ nảy sinh từ thực tiễn đời sống văn học. Điều này lý giải vì sao trong tất cả các bộ văn học sử, cùng với Phan Bội Châu, Tản Đà luơn được nhắc tới như một tác gia quan trọng của giai đoạn văn học giao thời. Mặt khác, so với Phan Bội Châu, sáng tác của Tản Đà gắn chặt với mơi trường đơ thị - chịu những tác động của thị hiếu độc giả trong một mơi trường mà văn học đã trở thành hàng hĩa, viết văn trở thành một nghề với những trải nghiệm hồn tồn mới mẻ. Mọi miêu tả và phác thảo về lộ trình hiện đại hĩa văn học đều khơng thể bỏ qua sự hiện diện của Tản Đà với tư cách là điểm chuyển giao giữa truyền thống và hiện đại. Tất cả những lý do trên khiến vị trí văn học sử của Tản Đà được quyết định khơng phải chỉ bởi ơng là một cá tính và tài năng nghệ thuật lớn mà cịn bởi từ cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Tản Đà người nghiên cứu cĩ thể tìm ra những vấn đề chung mang tính quy luật cho tồn bộ giai đoạn văn học này.
TẢN ĐÀ - I. Tiểu sử và con người
Wednesday, 24. January 2007, 03:57:09
Văn học giao thời, Tản Đà
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu sinh ngày 25-5-1889 (20 tháng 4 năm Kỷ sửu, Thành Thái nguyên niên) tại làng Khê thượng, huyện Bất bạt, tỉnh Sơn tây nay là thơn Khê thượng, xã Sơn đà, huyện Ba vì - Hà tây. Nguyên quán của Tản Đà ở làng Lủ (tức Kim Lũ) huyện Thanh trì - Hà Nội. Dịng họ của Tản Đà cĩ truyền thống khoa bảng. Thân phụ của ơng -Nguyễn Danh Kế đỗ cử nhân, làm quan đến chức Án sát Ninh bình. Anh ruột (cùng cha khác mẹ) với Tản Đà là Nguyễn Tái Tích đỗ phĩ bảng, làm tri huyện sau đổi sang ngạch Học quan giữ chức Giáo thụ.Mẹ Tản Đà là Nhữ Thị Nghiêm, một đào hát tài sắc Nam định, lấy lẽ Nguyễn Danh Kế khi ơng làm tri phủ Xuân Trường. Bà là người hát hay và cĩ tài làm thơ Nơm. Tản Đà là con trái út của cuộc lương duyên giữa tài tử và giai nhân này.
Cuộc đời của Tản Đà trải nhiều khĩc cười. Lên 3 tuổi, bố mất. Năm sau, vì bất hịa với gia đình chồng, bà Nhữ Thị Nghiêm bỏ đi, trở lại nghề ca xướng. Mặc dù ngay từ khi 15 tuổi đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn tây nhưng Tản Đà liên tiếp trượt cả hai kỳ thi hương 1909 và 1912. Cũng mùa xuân năm 1912, ơng khơng qua được kỳ thi vào trường Hậu bổ vì trượt mơn vấn đáp tiếng Pháp. Thất bại trong khoa cử gắn liền với đổ vỡ trong tình duyên đã khiến cuộc đời Tản Đà rẽ sang một ngả khác. Năm 1915, Tản Đà cĩ tác phẩm đăng trên Đơng dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh và nhanh chĩng cĩ được tiếng vang trên văn đàn. Năm 1916, ơng lấy bút danh Tản Đà và chính thức chọn con đường của một người viết văn, làm báo chuyên nghiệp. Từ 1916 đến 1926 là những năm tháng đắc ý nhất của Tản Đà. Ơng liên tiếp cho xuất bản các tác phẩm: Khối tình con I(1916), Giấc mộng con I (1917), Khối tình con II (1918), Đài gương, Đàn bà Tầu, Thần tiền, Lên sáu (1919), Lên tám (1920), Cịn chơi (1921), Tản Đà tùng văn (1922), Thề non nước (1922), Truyện thế gian I và II (1923), nhuận sắc Truyện Tỳ bà (tuồng) của Đồn Tự Thuật và dịch Đại học (1922), Kinh thi (1924).Từ năm 1926 đến 1933 ngồi việc xuất bản một số tác phẩm: Giấc mộng con II, Giấc mộng lớn (1932) và in lại thơ văn cũ Tản Đà bỏ hết tâm sức vào việc làm báo với kỳ vọng vào một sự nghiệp văn chương “cĩ bĩng mây hơi nước đến dân xã”. Sự lạc điệu của nhà Nho Tản Đà với mơi trường đơ thị bắt đầu bộc lộ rõ rệt. Tờ An nam tạp chí, bất chấp những tâm huyết của ơng chủ báo ngất ngưởng, liên tục bị đình bản vì lý do tài chính và đến năm 1933 (sau 6 lần tái bản rồi đình bản) thì đình bản hẳn. Lần vấp ngã này khiến Tản Đà thực sự chán nản và sự nghiệp của ơng cũng đi vào giai đoạn thối trào. Từ 1933 cho đến những ngày cuối đời Tản Đà làm trợ bút cho các báo, dịch thơ Đường cho tờ Ngày nay, dịch Liêu trai, quảng cáo chữa văn, xem số Hà lạc...Cũng vì sinh kế mà Tản Đà phải trơi dạt nhiều nơi: vào Nam, ra Hà nội, về quê, ra Quảng Yên rồi lại về Hà Đơng. Ơng mất tại Ngã tư Sở, ngày 7 tháng 6 năm 1939, trong cảnh bần bách, để lại vợ và đàn con mà theo lời thuật của Nguyễn Tuân “vừa yếu lại vừa đuối”.Cuộc đời của Tản Đà, như thế, dù cĩ những năm tháng đắc ý nhưng nhìn chung là bất như ý và nhiều đổ vỡ. Điều này khiến Tản Đà (vốn đầy tự tín, ngơng nghênh) phải đối diện với một cảm nhận khơng ít mệt mỏi, chua xĩt: “Mỗi một phen ra đời lại một phen thất bại; mỗi một phen thất bại, đầu tĩc lại bạc thêm” (Giấc mộng lớn). Nỗi sầu bàng bạc trong thơ văn Tản Đà một phần đến từ những trải nghiệm rất thực này.Tuy nhiên, dù phân nửa cuộc đời sau này gắn bĩ với mơi trường đơ thị và tập nhiễm khơng ít lối sống thị dân thì về cơ bản cốt cách của một nhà Nho tài tử vẫn rất đậm nét trong con người Tản Đà. Trong một xã hội mà người ta đã học và làm quen được với sự sùng bái đồng tiền Tản Đà trước sau vẫn chọn lối ứng xử của một khách chơi, một bậc trượng phu đầy hào sảng, phĩng túng: Thơ lưng chất nặng, tay buồn rỗi / Bán áo mà mua giấy viết ngơng (Dạm bán áo đoạn), Bạc tiền giĩ thoảng thơ đầy túi / Danh lợi bèo trơi, rượu nặng nai (Tự vịnh). Hồn tồn khơng cĩ sự khác biệt giữa hình ảnh Tản Đà trong những câu thơ trên và Tản Đà ngồi đời. Sự thống nhất ấy đã khiến Tản Đà, trong mắt của người đương thời và đặc biệt của những kẻ hậu sinh, trở thành bậc trích tiên. Vơ số những giai thoại về Tản Đà đều xoay quanh cái cốt cách khác thường này của ơng. Cùng với thơ ca, con người thực của Tản Đà thực sự là một niềm say mê, ngưỡng mộ của nhiều thế hệ. Thậm chí ngay cả khi những sáng tác của ơng khơng cịn sự hấp dẫn như buổi đầu xuất hiện thì sự hấp dẫn đến từ con người thực của Tản Đà vẫn khơng hề giảm sút. Cá tính độc đáo của Tản Đà cịn tiếp tục vang bĩng trong những giai thoại về Nguyễn Tuân (người bạn vong niên mà sinh thời Tản Đà vốn cĩ biệt nhãn) và nĩ khiến cho Lưu Trọng Lư dù cĩ lúc khơng ưa gì cái Tơi kềnh càng của Tản Đà trong đời thực vẫn phải thừa nhận: “con người Nguyễn Khắc Hiếu chính là cái tác phẩm tuyệt xảo, một bài thơ hay nhất trong sự nghiệp của Tản Đà”.
TẢN ĐÀ - II. Kiểu nhà thơ giao thời: từ nhà Nho trở thành người sáng tác chuyên nghiệp và quan niệm về văn học của Tản Đà.
Wednesday, 24. January 2007, 04:03:51
Văn học giao thời, Tản đà
1/1.1 Thừa hưởng truyền thống của gia đình, Tản Đà ngay từ nhỏ, đã được rèn cặp theo lối học cử tử mà người thầy cũng đồng thời là người anh ruột - phĩ bảng Nguyễn Tái Tích. Ảnh hưởng của Nho giáo với Tản Đà, như thế, là một ảnh hưởng từ rất sớm và cũng rất tự nhiên như một nét của gia phong. Chính vì thế, Tản Đà vào đời theo một lộ trình đã định trước và cũng khá quen thuộc với một nhà Nho: học hành - đi thi - làm quan (trước để nối nghiệp nhà và với Tản Đà cịn cĩ thêm một mục đích rất dễ thương: cĩ được người đẹp trong mộng). Chuyện trở thành nhà văn nhà báo chuyên nghiệp sau này trong cảm nhận của Tản Đà là một sự lỡ dở: Chữ nghĩa Tây Tàu trĩt dở dang / Nơm na phá nghiệp kiếm ăn xồng (Đề “Khối tình con” thứ nhất. Thực tế này lý giải vì sao: trước năm 1913 khơng thấy phát lộ một khả năng cũng như thiên hướng đặc biệt nào của Tản Đà về lĩnh vực sáng tác văn chương nghệ thuật. Vốn liếng của Tản Đà thời kỳ này dù cĩ xuất sắc hơn người thì chủ yếu vẫn chỉ là chuyện chữ nghĩa đĩng khung trong sách vở thánh hiền.
Hiểu thế, mới cĩ thể lý giải được vì sao việc hỏng thi Hương năm 1912 lại khiến Tản Đà chán nản, bi phẫn đến như thế. Ở thời gian này, lối học thi cử truyền thống đã đến hồi kết. Ba năm sau, năm 1915, sẽ là khoa thi chữ Hán cuối cùng ở miền Bắc. Trước Tản Đà khơng lâu, dù cay cú, dù than thở thì Tú Xương vẫn cĩ thể trọn đời theo nghiệp khoa cử. Đến Tản Đà, sự phá sản của lối vào đời truyền thống ấy đã trở thành hiện thực nhãn tiền. Nhà Nho Tản Đà khơng cịn đủ tự tin, cơ bản hơn, cũng khơng cịn đủ cơ hội để đánh cược vào khoa cử. Bị trượt ra khỏi quỹ đạo truyền thống, hồn tồn mất phương hướng trong hành xử đấy mới chính là nguyên nhân sâu xa gây ra sự chán nản đến độ “quyết mong tịch cốc để từ trần” ở Tản Đà - mà sự kiện “ý trung nhân xuất giá” chỉ là một giọt nước tràn ly. 1.2 Chính ở thời điểm này, sáng tác văn chương xuất hiện như một phương thức để giải tỏa. Những sáng tác này sau đĩ sẽ được in ở hai quyển Khối tình và Khối tình con thứ nhất nhưng như Tản Đà đã thuật lại rất rõ: “trong khi đương viết ở Cổ đằng, thực chưa cĩ bụng nào viết văn để in vậy”. Tản Đà chỉ thực sự lựa chọn con đường của một người kiếm sống bằng ngịi bút vào năm 1916. Đây là năm ơng lấy bút hiệu Tản Đà. Đặc biệt cũng trong năm này ơng từ chối lời mời vào học mà khơng phải qua thi tuyển của E.Vayrac giám đốc trường Hậu bổ. Ở điểm xuất phát khơng được chuẩn bị và cũng khơng hề cĩ ý định để trở thành nhà văn chuyên nghiệp, đến với nghề văn khá muộn nhưng lại rất cương quyết và triệt để trong tồn bộ quãng đời cịn lại. Những nguyên nhân nào đã làm nên sự biến đổi đặc biệt quan trọng này ở nhà Nho Tản Đà?Trong nhận thức mang tính tiên nghiệm của nhà Nho cĩ ba điều cũng là ba lĩnh vực để cĩ thể lưu danh thiên cổ (tam bất hủ): lập đức, lập cơng và lập ngơn. Mãi cho đến cuối đời, Phan Bội Châu vẫn nhắc lại tiên đề này. Sự tán thưởng với quan điểm lập thân này cũng được Tản Đà cơng khai bày tỏ: “Đã gọi là thằng người phải cĩ một cái hơn co
File đính kèm:
- De van cuoi ky I Van 11nang cao .doc