Truyện Kiều là tên gọi thông thường theo tên nhân vật chính trong tác phẩm của Nguyễn Du, cũn lỳc sỏng tỏc, Nguyễn Du đặt tên cho tác phẩm của mỡnh là Đoạn trường tân thanh nghĩa là "Tiếng nói mới về một nỗi đau đến đứt ruột".
Đoạn trường tân thanh được sáng tác không phải do nhà thơ đơn thuần tưởng tượng, hư cấu để viết ra, mà ông viết dựa theo cốt truyện một tiểu thuyết chương hồi bằng văn xuôi của Trung Quốc, có tên là Kim Vân Kiều truyện (truyện về Kim Trọng, Thúy Vân, Thúy Kiều) của một tỏc giả hiệu là Thanh Tõn Tài Nhõn.
Trong thời đại của Nguyễn Du các nhà thơ sáng tác thường dựa theo một tác phẩm của Trung Quốc như thế. Nói chung Nguyễn Du dựa khá sát vào tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân khi viết lại Truyện Kiều: cụ thể là những nhân vật trong Truyện Kiều của ông đều là những nhân vật lấy từ Kim Vân Kiều truyện; những tỡnh tiết, biến cố, cốt truyện trong Truyện Kiều hầu hết đều có trong Kim Vân Kiều truyện.
Nhưng cái đặc sắc của Nguyễn Du là tuy dựa vào tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng lại hết sức sáng tạọ Điều đó quyết định ở chổ Nguyễn Du không phải nhằm chuyển dịch tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân sang tiếng Việt, mà ông tái tạo, bổ sung vào đó những điều mà ông từng day dứt, trăn trở, và với tài năng nghệ thuật tuyệt vời của mỡnh, ụng đó thể hiện lại bằng ngụn ngữ dõn tộc và thể thơ dân tộc, cho nên tác phẩm của Nguyễn Du có sức sống mónh liệt hơn và có chiều sâu trí tuệ mà nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân không có được.
16 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1596 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đôi nét về Truyện Kiều của Nguyễn Du, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1.Đụi Nột Về Truyện KiềuTruyện Kiều là tờn gọi thụng thường theo tờn nhõn vật chớnh trong tỏc phẩm của Nguyễn Du, cũn lỳc sỏng tỏc, Nguyễn Du đặt tờn cho tỏc phẩm của mỡnh là Đoạn trường tõn thanh nghĩa là "Tiếng núi mới về một nỗi đau đến đứt ruột". Đoạn trường tõn thanh được sỏng tỏc khụng phải do nhà thơ đơn thuần tưởng tượng, hư cấu để viết ra, mà ụng viết dựa theo cốt truyện một tiểu thuyết chương hồi bằng văn xuụi của Trung Quốc, cú tờn là Kim Võn Kiều truyện (truyện về Kim Trọng, Thỳy Võn, Thỳy Kiều) của một tỏc giả hiệu là Thanh Tõn Tài Nhõn. Trong thời đại của Nguyễn Du cỏc nhà thơ sỏng tỏc thường dựa theo một tỏc phẩm của Trung Quốc như thế. Núi chung Nguyễn Du dựa khỏ sỏt vào tỏc phẩm của Thanh Tõm Tài Nhõn khi viết lại Truyện Kiều: cụ thể là những nhõn vật trong Truyện Kiều của ụng đều là những nhõn vật lấy từ Kim Võn Kiều truyện; những tỡnh tiết, biến cố, cốt truyện trong Truyện Kiều hầu hết đều cú trong Kim Võn Kiều truyện. Nhưng cỏi đặc sắc của Nguyễn Du là tuy dựa vào tỏc phẩm của Thanh Tõm Tài Nhõn nhưng lại hết sức sỏng tạọ Điều đú quyết định ở chổ Nguyễn Du khụng phải nhằm chuyển dịch tỏc phẩm của Thanh Tõm Tài Nhõn sang tiếng Việt, mà ụng tỏi tạo, bổ sung vào đú những điều mà ụng từng day dứt, trăn trở, và với tài năng nghệ thuật tuyệt vời của mỡnh, ụng đó thể hiện lại bằng ngụn ngữ dõn tộc và thể thơ dõn tộc, cho nờn tỏc phẩm của Nguyễn Du cú sức sống mónh liệt hơn và cú chiều sõu trớ tuệ mà nguyờn tỏc của Thanh Tõm Tài Nhõn khụng cú được. Truyện Kiều là truyện về cuộc đời của một người con gỏi bất hạnh cú tờn là Vương Thỳy Kiềụ Người con gỏi ấy cú tài, cú sắc, xuất thõn trong một gia đỡnh bỡnh thường, lớn lờn nàng yờu một chàng trai là Kim Trọng, nhưng rồi tai họa đó xảy đến cho gia đỡnh: cha và em của nàng bị bắt, bị đỏnh đập, nhà cửa bị cướp phỏ sạch sành sanh. Thỳy Kiều khụng cú cỏch nào để cứu nguy cho gia đỡnh, nàng buộc lũng phải bỏn mỡnh cho người khỏc để lấy tiền chuộc cha và em; từ đú cuộc đời nàng trải qua khụng biết bao nhiờu là tai họa: nàng bị lừa lọc phải hai lần làm kỹ nữ ở nhà chứa, làm lẽ, đi ở... Cú thể núi một cõu chuyện thờ thảm về vận mệnh của một người con gỏi như thế, bản thõn nú đó cú sức xỳc động lớn. Nhưng dưới ngũi bỳt của Nguyễn Du, cõu chuyện thờ thảm ấy lại khụng thuần tỳy là vận mệnh của một người con gỏi, hay núi cỏch khỏc là thụng qua vận mệnh của một người con gỏi nhà thơ đó núi lờn vận mệnh của con người núi chung trong một xó hội bất cụng tàn bạọ Nhà nghiờn cứu Hoài Thanh cho rằng vấn đề đặt ra trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là vấn đề quyền sống của con người trong xó hội phong kiến. Nhà thơ Chế Lan Viờn thỡ viết: Chạnh thương cụ Kiều như đời dõn tộc,Sắc tài sao mà lại lắm truõn chuyờn... Núi cho đỳng, khi viết tỏc phẩm của mỡnh Nguyễn Du khụng hoàn toàn ý thức hết những điều ụng đó trỡnh bàỵ Với một quan niệm truyền thống, ụng cắt nghĩa những bất hạnh của Thỳy Kiều là do mõu thuẩn giữa Tài và Mệnh: Thỳy Kiều nhiều tài, nờn số phận của Thỳy Kiều bi thảm; và ụng chủ trương để giải quyết những mõu thuẩn ấy, con người phải thực hiện chữ Tõm, phải "tu tõm". Chớnh quan niệm như vậy nờn nhà thơ đó viết ở phần mở đầu tỏc phẩm: Trăm năm trong cừi người ta,Chữ Tài, chữ Mệnh khộo là ghột nhau và ở phần kết thỳc, ụng viết: Chữ Tõm kia mới bằng ba chữ Tài Cú điều quan niệm là như thế, nhưng khi tỏi hiện cuộc sống vào tỏc phẩm, Nguyễn Du đó hết sức trung thực, nờn thực tế vấn đề đặt ra trong tỏc phẩm của ụng cú ý nghĩa sõu sắc hơn rất nhiều so với những gỡ mà ụng đó phỏt biểụ Cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là cảm hứng về thõn phận con ngườị Con người sẽ sống như thế nào giữa một xó hội bất cụng, tàn bạỏ Khi xõy dựng nhõn vật Thỳy Kiều, nhà thờ muốn thể hiện ở nhõn vật này tất cả những gỡ là ưu tỳ, là tinh hoa của con ngườị Thỳy Kiều khụng phải chỉ cú tài sắc thụng thường như cỏc cụ gỏi khỏc trong văn học cổ, mà Thỳy Kiều là tuyệt đỉnh của tài sắc; và khụng phải chỉ cú tài sắc, mà Thỳy Kiều cũn cú ý thức sõu sắc về cuộc sống của mỡnh và của xung quanh. Cú thể núi Nguyễn Du muốn xõy dựng nhõn vật Thỳy Kiều như một tượng trưng cho tất cả những gỡ là đẹp, là tinh hoa của con ngườị Một nhõn vật như thế lẽ ra phải được sống một cuộc đời tốt đẹp, hạnh phỳc, nhưng vỡ nàng sống trong một xó hội bất cụng, tàn bạo nờn cuối cựng những phẩm chất cao qỳy nhất của nàng lại trở thành những tai họa đối với nàng. Do cú tài cú sắc, Thỳy Kiều đó trở thành miếng mồi ngon cho cỏi xó hội đú xõu xộ. Nguyễn Du là một nhà thơ nhõn đạo chủ nghĩa sõu sắc, ụng hết lũng thương yờu và trõn trọng con người mà phải thể hiện những cảnh con người bị vựi dập trong tỏc phẩm, nờn ngũi bỳt của ụng nhiều khi phẫn nộ và nhiều khi lại cay đắng, chua xút. Mộng Liờn Đường chủ nhõn nhận xột: Nguyễn Du viết Truyện Kiều như cú mỏu rỏ lờn đầu ngọn bỳt, nước mắt thấm qua tờ giấỵ Cố nhiờn đó yờu thương con người thỡ phải chống lại những lực lượng chà đạp con ngườị Về phương diện này cú thể núi Truyện Kiều là một bản cỏo trạng lờn ỏn đanh thộp tất cả những lực lượng chà đạp con ngườị Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, chà đạp Thỳy Kiều khụng phải một vài con người cỏ biệt nào mà là cả một xó hội, từ kẻ đại diện cho cỏi xó hội ấy như bọn quan lớn, quan bộ, gia đỡnh quan lại, đến bọn thừa hành như đỏm nha lại, rồi những kẻ sống bằng nghề buụn bỏn nhan sắc của phụ nữ... Trong cỏi xó hội này, sau thế lực của bọn qỳy tộc là thế lực của đồng tiền. Đồng tiền thực sự đó trở thành một tai họa đối với con ngườị Đồng tiền chi phối việc xử kiện của bọn quan lại; đồng tiền đó biến những nho sĩ như Mó Giỏm Sinh, Sở Khanh thành những tờn ma cụ dắt gỏi; đó biết Thỳc Sinh thành một kẻ ăn chơi trỏc tỏng... Đồng tiền cú thể mua bỏn cả cỏi trinh tiết thiờng liờng của người phụ nữ... Sống trong một xó hội như vậy những kẻ xấu, bất lương thỡ tha hồ lộng hành, cũn người tốt, lượng thiện thỡ khụng cú chỗ để tồn tạị Thỳy Kiều bị dày vũ đủ đường mà chỉ cú một người duy nhất dỏm bờnh vực nàng là Từ Hải, thỡ cỏi xó hội ấy lại coi Từ Hải là giặc, và cuối cựng bằng một sự phản bội xấu xa đó giết chết Từ Hảị Trong Truyện Kiều, Từ Hải bị giết và sau đú Thỳy Kiều tự tử trờn sụng Tiền Đường là những kết thỳc bi thảm nhưng khụng thể khỏc được. Việc Thỳy Kiều được cứu sống, rồi được tỏi ngộ Kim Trọng với biết bao chua xút, bẽ bàng ở cuối truyện khụng hề làm giảm ý nghĩa tố cỏo của tỏc phẩm, mà đỳng như nhà thơ Xuõn Diệu nhận xột, nú là "bản cỏo trạng cuối cựng" của tỏc phẩm nàỵ Truyện Kiều khụng những cú nội dung sõu sắc, mà nghệ thuật của nú cũng đạt đến một thành tựu rực rỡ. Núi đến thành cụng trong nghệ thuật Truyện Kiều trước hết người ta thường núi đến thành cụng của nhà thơ trong việc vận dụng tiếng Việt và thể thơ lục bỏt của dõn tộc. Trong Truyện Kiều cú sự kết hợp sức nhuần nhuyễn giữa ngụn ngữ bỏc học và ngụn ngữ bỡnh dõn. Truyện Kiều cú khụng ớt từ Hỏn Việt và điển cố lấy trong sỏch vở với lối diễn đạt đài cỏc, qỳy phỏi, nhưng tất cả đều được sử dụng cú liều lượng, đỳng nơi, đỳng lỳc, nờn đều hợp lý. Mặt khỏc trong Truyện Kiều lại cú nhiều lời ăn tiếng núi hằng ngày, ca dao tục ngữ nhưng tất cả cũng được sử dụng cú chọn lọc tinh vi, khộo lộo, kết hợp hài hũa với ngụn ngữ bỏc học. Thể thơ lục bỏt trong Truyện Kiều được nhà thơ khai thỏc triệt để khả năng biểu hiện của nú, tinh tế, giản dị mà cú õm vang, cú thể diễn đạt được nhiều sắc thỏi của cuộc sống và những nột tinh vi, tế nhị trong tỡnh cảm của con ngườị Một thành cụng nữa cũng hết sức quan trọng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là nghệ thuật dẫn truyện và nghệ thuật miờu tả, bao gồm miờu tả con người lẫn miờu tả thiờn nhiờn, cảnh vật. Nhà thơ thường miờu tả rất tiết kiệm.Chỉ cần một vài cõu thơ ụng đó cú thể khắc họa rừ nột được ngoại hỡnh của một nhõn vật hay dựng lờn được một bức tranh phong cảnh. Nhưng tuyệt diệu nhất của nghệ thuật miờu tả trong Truyện Kiều là miờu tả nội tõm nhõn vật. Cú thể núi trong văn học cổ khụng cú một nhà thơ thứ hai nào thành cụng trong việc miờu tả nội tõm của nhõn vật như Nguyễn Du, nhất là nội tõm của nhõn vật Thỳy Kiềụ.Cú thể núi chớnh nhờ chiều sõu nhõn bản ở nội dung của tỏc phẩm lại được thể hiện với nghệ thuật tuyệt vời nờn Truyện Kiều của Nguyễn Du sống mói với thời gian. Cho đến nay Truyện Kiều đó được tỏi bản nhiều lần ở trong nước, đó được dịch và giới thiệu rộng rói ở nhiều nước trờn thế giới bằng cỏc thứ tiếng Phỏp, Anh, Nga, Trung Quốc, Tiệp Khắc, Nhật.
2.Cõy đàn của Thỳy Kiều Năm 1976, sau buổi núi chuyện của tụi về giỏ trị õm nhạc dõn tộc Việt Nam tại trường õm nhạc Hà Nội, một giảng viờn về văn học cho sinh viờn trường nhạc cú đặt cõu hỏi:"Từ lõu, tụi thắc mắc chẳng biết rừ Thỳy Kiều dựng cõy đàn gỡ? Xin anh giải đỏp cho nếu anh cú dịp nghiờn cứu về vấn đề ấy?"Anh thắc mắc là phải. Vỡ khi giới thiệu nhõn vật Thỳy Kiều, cụ Nguyễn Du đó cho chỳng ta biết rằng: Cung thương là bực ngũ õmNghề riờng ăn đứt Hồ cầm một chươngMà hồ cầm thường dựng chỉ một cõy đàn của "thợ Hồ" tức là khụng phải đàn Trung Quốc. Người Trung Quốc gọi đàn nhị là nhị hồ (erhu) hay là hồ cầm (huquin). Nhưng đàn nhị chỉ cú hai dõy lại cú cung kộo, đàn của Thỳy Kiều cú bốn dõy, lại cú khảy và nhấn. Khi đàn chi Kim Trọng nghe thỡ nàng đó: So lần dõy Vũ dõy VõnBốn dõy to nhỏ theo vần Cung ThươngLỳc bị Hoạn Thư bắt thỡ phải đàn cho Thỳc Sinh nghe:Bốn dõy như khúc như thanKhiến người trờn tiệc cũng tan nỏt lũngsau khi Từ Hải chết, nàng phải đàn cho Hồ Tụn Hiến nghe thỡ: Một cung giú tủi mưa sầuBốn dõy nhỏ mỏu năm đầu ngún tayéó là hồ cầm mà cú bốn dõy thỡ chỉ cú đàn tỳ bà - người Trung Quốc và Triều Tiờn gọi là pipa, người Nhựt Bổn gọi là biwa. Người Trung Quốc cũng gọi đàn pipa là huqin, tức là hồ cầm, vỡ đàn ấy khụng phải do người Trung Quốc chế ra mà của dõn tộc vựng Tõy ỏ đem vào. Giỏo sư Nhựt Tanabe Hisao và Kishibe Shigeo cho rằng đàn pipa cú thể bắt nguồn từ đàn barbat của người Ba Tư, đó theo con đường buụn bỏn tơ lụa ngày xưa mà nhập vào Trung Quốc, rồi sau đú sang Triều Tiờn, Nhựt Bổn, Việt Nam: chớnh vỡ vậy trong cỏc quyển truyện Kim Võn Kiều, người ta thường vẽ Thỳy Kiều ụm đàn tỳ bà.Khi Thỳy Kiều đàn cho Hồ Tụn Hiến nghe đến chảy mỏu năm đầu ngún tay, làm cho Hồ cũng “nhăn mà rơi chõu", trước khi nàng được xin phộp về, cú than phận mỡnh: Cũn chi nữa, cỏnh hoa tànTơ lũng đó đứt, dõy đàn Tiểu lõnTiểu Lõn là Phựng Tiểu Lõn, vợ vua nước Tề, đàn tỳ bà rất hay. Sau khi nghe vua nước Tề bị giặc giết, vua Vừ éế nhà Chõu bắt Tiểu Lõn gả cho vua éại Vương tờn éạt. Nhõn khi đàn đứt dõy, đó làm bài thơ: Tuy tụ kim nhựt sủng Du tớch tớch thời duyờn Dục tri õm đoạn tuyệt Ưng khỏn tất thương huyền Trong quyển Kim Tỳy Tỡnh Từ, mà theo giỏo sư Thuần Phong thỡ do chớnh cụ Nguyễn Du chỳ giải, cú bài thơ nụm dịch như sau đõy: Tuy là yờu mến ngày nayHóy cũn nhớ tiếc những ngày trước kiaNếu muốn biết ruột gan lỡaThỡ nờn xem lấy dõy kia trờn đờn.Cõy đàn của Thỳy Kiều chắc chắn sẽ là đàn tỳ bà, nếu khụng cú cõu: Hiện sau treo sẵn cầm trăngVội vàng, Sanh đó tay nõng ngang màyKim Trọng thấy cõy cầm trăng tức nguyệt cầm - gọi như thế là vỡ thựng đàn hỡnh trũn như trăng rằm - đó nõng đàn ngang mày mời Thỳy Kiều so dõy nắm phớm. Thựng đàn tỳ bà hỡnh bầu dục như nửa trỏi lờ, làm sao trũn như trăng được? Nếu mà đàn nguyệt thỡ thựng đàn trũn mà đàn chỉ cú hai dõy lại khụng mang tờn là hồ cầm. Như thế khụng ổn chỳt nào cả. Huống chi là dưới thời cụ Nguyễn Du, tức là vào khoảng gần nửa thế kỷ thứ 18, thỡ nước ta cú một cõy đàn mà thựng trũn, cần dài mang tờn là "cỏi đàn song vận". Trong sỏch Vũ Trung Tựy Bỳt của Phạm éỡnh Hổ, cú núi đến “đàn đỏy, đàn tranh gảy bằng tiếng tơ", và "gần đõy mới chuộng đàn nguyệt, thứ hồ cầm đời cổ cũn gọi tờn đàn là Nguyễn cầm", bởi ụng Nguyễn Hàm đời Tấn chế ra, mà khụng núi đến cỏi đàn song võn. Chỉ trong bộ éại Thanh hội điển sử lệ, quyển 528, tờ số ba, cú đoạn núi về dàn nhạc nước ta, sang ở tại triều nhà Thanh từ năm 1789, gọi là An Nam quốc nhạc, đến năm 1804 đổi tờn là Việt Nam quốc nhạc, cú nhiều cõy đàn mà người Trung Quốc đó ghi tờn bằng chữ nụm: một cỏi cổ (trống), một cỏi phỏch (sinh tiền), hai cỏi sỏo, một cỏi đàn huyền tử (đàn tam), một cỏi đàn hồ cầm (đàn nhị), một cỏi đàn song vận hay là đàn nguyệt cầm, một cỏi đàn tỳ bà, một cỏi đàn tam õm la (3 cỏi thanh la nhỏ). Nếu là đàn nguyệt thỡ tờn nú là cỏi đàn song vận, mà lại khụng thể gọi là hồ cầm. Như vậy thứ cõy đàn của Thỳy Kiều chỉ cú thể là Nguyễn cầm, vừa cú thựng trũn như đàn nguyệt, cú 4 dõy thuộc về loại tỳ bà, mà cũng gọi là hồ cầm. Sỏch Thớch Danh, về cõy đàn tỳ bà, cú chộp rằng tỳ bà cú ba loại: tứ huyền tỳ bà - thựng bầu dục cú 4 dõy, ngũ huyền tỳ bà - hỡnh dỏng như cõy trước mà cú 5 dõy - người Triều Tiờn cũng gọi là Hương tỳ bà - tức là tỳ bà của Triều Tiờn, và Nguyễn cầm thựng trũn và cú 4 dõy to. Nguyễn cầm thỡ nay khụng cũn thấy ở Trung Quốc, mà tại viện bảo tàng viện Shosoin ở tỉnh Nara ( Nhựt Bổn) cũn nhiều cõy Nguyễn cầm thời xưa. Tụi lại núi thờm tin chắc rằng Thỳy Kiều đó dựng cõy Nguyễn cầm, khi tụi đọc một bài thơ chữ Hỏn của cụ Nguyễn Du, "Long thành cầm giả ca", in trong quyển thứ ba Hợp tuyển văn thơ Việt Nam, tại Hà Nội năm 1963, trong đú cụ cũng để trong tay một người đàn bà ở Long Thành cõy đàn Nguyễn cầm. Long Thành giai nhõnTớnh thị bất kỳ danhéộc thiện Nguyễn cầmCử thành chi nhõn dĩ cầm danh(người đẹp ở Long Thành, khụng biết tờn họ là chi, mà tiếng đàn Nguyễn cầm rất hay, nờn người trong thành đều gọi là Cụ Cầm). Cụ đó gặp cụ ấy hai mươi năm về trước, lỳc nhan sắc cụ cũn lộng lẫy, tiếng đàn điờu luyện đó làm sau mờ cỏc quan Tõy Sơn trong buổi tiệc ở Hồ Giỏm. Khi Nguyễn Văn Thành, quan tổng trấn của nhà Nguyễn hội yến, trong buổi tiệc cú cụ Nguyễn Du, cụ lại được nghe tiếng đàn của người đẹp năm xưa, mà nay nột mặt vừ vàng, thần sắc khụ khan. Túc cụ đó bạc trắng, mà túc Cụ Cầm cũng hoa rõm. Cụ xỳc động làm bài thơ ấy, trong đú cú đoạn tả tiếng đàn của Cụ Cầm:Lịch loạn ngũ thanh tựy thủ biếnHoón như sơ phong độ tựng lõmThanh như song hạc minh tại õmLiệt như tiến phỳc bi đồ toỏi tớch lịchAi như Trang Tớch, bệnh trung vi Việt ngõm...Khương Hữa Dung đó dịch đoạn ấy ra như sau đõy: Dưới năm ngún cung đàn rộo rắtTrong như tiếng hạc kờu sươngKhoan như giú sớm lướt ngang rừng tựngMạnh như sấm sột đựng đựngbia Tiến phỳc nỏt từng mảnh conBuồn như Trang Tớch ốm mũnngõm tiếng Việt nỗi buồn quờ xa...Cụ Nguyển Du đó cảm xỳc khi nghe tiếng đàn Nguyễn cầm của người đẹp Long Thành thưở nọ. Và cõy Nguyễn cầm thời ấy cú lẽ cũng được nhiều người ưa thớch. Cụ Nguyễn Du khi đặt trong tay nhõn vật chớnh của truyện Kiều một cõy đàn, mặc dự nhõn vật đú theo sỏch xưa ở vào thời Gia Tĩnh triều Minh, tức là giữa thế kỷ thứ 16, cũng đó nghĩ đến cõy Nguyễn cầm, nờn mới cú những đoạn núi về cõy hồ cầm 4 dõy mà thựng trũn như trăng rằm. Khi trả lời cho anh bạn giảng viờn trường õm nhạc, tụi cú nhắc đến sự tớch của đàn tỳ bà, đến đoạn núi về cõy đàn song vận trong bộ éại Thanh hội điển sự lệ, đến quyển Vũ Trung Tựy Bỳt của Phạm éỡnh Hổ, đến bài Long Thành cầm giả ca, cú chổ gọi là bài Cầm giả dõn, để kết luận cõy đàn của Thỳy Kiều khụng thể là cõy đàn tỳ bà, hay là đàn nguyệt, chớnh là cõy Nguyễn cầm mà ngày nay đó thất truyền.Thỳy Kiều
Nỗi ỏm ảnh bất hạnh
Nhắc đến Kiều, tụi thường nghĩ ngợi, suy tư về thõn phận người đàn bà Việt Nam. Cú lẽ vỡ tụi cũng là đàn bà Việt Nam chăng? “éau đớn thay, phận đàn bà!Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chungPhũ phàng chi bấy húa cụngNgày xuõn mũn mỏi, mỏ hồng phụi pha.” Trong khi đọc lại những cõu thơ này, tụi thắc mắc, khụng biết Nguyễn Du cú nghĩ tới mẹ ụng (cha ụng cú tỏm vợ) hoặc ba người vợ của ụng khụng? Họ là những người đàn bà chia sẻ cuộc đời cựng ụng, nhưng cú số phận chồng chung. Hay ụng chỉ nghĩ đến ả đào đàn hay trong quỏn rượu, hai mươi năm sau gặp lại, thõn tàn ma dại, làm ụng đứt ruột xút thương. Cụ Cầm ở Thăng Long. Cụ Nguyệt ở Triều Khẩu. Cụ gỏi hầu ở nhà người em. Cụ lỏi đũ tỡnh cờ gặp. Nữ sĩ Hồ Xuõn Hương. Hay Vương Thỳy Kiều của Thanh Tõm Tài Nhõn ở xứ Trung Hoa? Bởi dầu gỡ ụng cũng biết rất rừ: “Chộm cha cỏi kiếp lấy chồng chungGỡ ra rồi lại buộc vào như chơi.” Nghĩ ngợi, thắc mắc, ưu tư một chỳt thế thụi, chứ vào thời đú, đàn ụng “năm thờ bảy thiếp” là chuyện thường tỡnh. ễng cố nội tụi cú đến bốn bà vợ. * Dưới ảnh hưởng của văn chương Trung Hoa, nước ta sản xuất ra được nàng Kiều. Rồi Kiều truyền qua nhiều đời, qua bao thế hệ, bằng nhiều cỏch thức khỏc nhau. Từ lẩy Kiều, ngõm Kiều, dạy Kiều, giảng Kiều, phim Kiều, dịch Kiều, và cả búi Kiều. Nàng Kiều ngày trước của Nguyễn Du, tài sắc vẹn toàn. éó đẹp lại cũn đàn hay, bởi thế mà bạc mệnh. Nàng Kiều ngày nay kộm may mắn hơn, khụng tài hoa, khụng hương sắc mà cũng bạc mệnh. Chinh phụ ngày trước cũng thế, chờ chồng trong tiếng khúc than, oỏn trỏch, nhớ thương. Cố giữ lũng trung trinh tiết nghĩa thờ chồng, mà húa thành đỏ. Chinh phụ ngày nay, sỏng sớm mắt chưa kịp mở đó sắn cao tay ỏo, nhảy ra lăn xả một hai với đời để nuụi con, thậm chớ nuụi luụn cả chồng. Nhắc tới Việt Nam, là khụng quờn nhắc tới Kiều. Người ta cho Nguyễn Du là đại thi hào dõn tộc, và truyện Kiều là kiệt tỏc bất hủ bằng chữ quốc õm. Một cụng trỡnh vĩ đại, đến nay vẫn chưa cú tỏc phẩm nào so sỏnh huống chi là thay thế. Là người Việt Nam, ai cũng phải biết đến Kiều, như một cụng ước, một điều bắt buộc. Truyện Kiều được xem như là thụng điệp gửi gắm cho con chỏu đời sau phải tỡm đọc, học, và biết để mà hónh diện. Truyện Kiều là cuốn kinh, thỏnh thư, phỳc õm. Là quốc hoa, quốc tỳy, quốc hồn của dõn tộc Việt.Nhà bỏo Phạm Quỳnh ngày trước đó từng tuyờn bố, chỉ cần một Truyện Kiều, ta đó hơn Tàu lẫn Tõy! Kiều cũn được xem là bản cỏo trạng cuộc đời, như cuốn sỏch giỏo huấn dạy cỏch làm người, như bản ngợi ca tỡnh yờu, gầy dựng niềm tin, bắc cầu thụng cảm. Thậm chớ, được dựng như một phương tiện dự bỏo, linh nghiệm để đoỏn giải về tương lai số mệnh con người. “Từ ỏn sỏch đến bờ tre, xưởng mỏyRa chiến trường vẫn cũn thấy Kiều ngõm.” Vỡ cha nợ nần, Kiều phải tự bỏn mỡnh để chuộc. Từ đú, cuộc đời ba chỡm bẩy nổi, qua tay đủ hạng đàn ụng. Bị thiờn hạ lừa khụng biết bao nhiờu bận vẫn chưa học khụn. Cuối cựng, cũn khuyờn “bậy” chồng, làm chồng phải chết oan như bị trời trồng. Cuộc đời Kiều, từ đau khổ này tiếp nối đau khổ khỏc chỉ vỡ đạo làm con, giữ trũn chữ hiếu, bởi thế, hỡnh ảnh Kiều luụn được ca ngợi, truyền tụng, trở thành một thứ role model, là tấm gương cho nhiều thế hệ phụ nữ Việt Nam soi. éể rồi, thời bà ngoại, bà nội nước ta cú L’Indochine, mối tỡnh chàng sĩ quan Phỏp với cụ gỏi Việt mồ cụi nhưng xinh xắn, đẹp đẻ. Mối tỡnh lóng mạn, lồng trong khung cảnh vịnh Hạ Long miền Bắc, trong giai đoạn lịch sử của những năm 30, khi đất nước đang cũn bị thực dõn Phỏp đụ hộ.
Qua thời Mỹ, tức thời của mẹ, dỡ, thớm, bỏc, cụ nước ta lại cú Heaven and Earth. Nàng Kiều lọ lem Lờ Thị Lý xuất thõn từ làng Kỳ Là, miền Trung đất cày lờn sỏi đỏ. Nàng như quả banh, ban đờm nằm trong vũng tay ụm của những chàng lớnh quốc gia. éờm về, lại nằm dưới xỏc của những chỳ bộ đội. Cuối cựng, được anh lớnh Mỹ mặt cũn bỳng ra sửa, đến từ đế quốc tư bản đúng vai Từ Hải, ra tay nghĩa hiệp giải thoỏt, cứu độ. Mựa hố 1995, tụi về lại Việt Nam. éi dọc từ Bắc vụ Nam, vũng ra Trung. Loỏng thoỏng trong những tiệm ăn trải khăn bàn trắng, trong khỏch sạn ba sao, trờn vỉa hố trời chiều thoảng giú mỏt rượi, hay trong hộp đờm xụng tỏa mựi mồ hụi, rượu mạnh, khúi thuốc. Những nàng Kiều mặt trẻ măng, non choẹt, cửa mỡnh bắt đầu cú kinh, lụng đang mọc, vỳ vừa nhỳ nhưng đó biết rừ, hiểu rừ, chữ trinh đỏng giỏ ngàn vàng. Cỏc nàng tự đi tỡm khỏch bỏn trinh. Biết vỏ đi vỏ lai màng mỏng tựa sương mự vài ba bận, khụng cần qua tay Tỳ Bà như Kiều của cụ Tố Như ngày trước. Cỏc nàng làm Kiều cho những tay thương gia đến từ éài Loan, Singapore, éại Hàn... chuyờn trị mua trinh để lấy hờn làm ăn buụn bỏn. Cụ bộ làm nghề múng tay dạo trong khu Bàn Cờ tụi gặp trong những ngày đầu về lại Việt Nam. Những múng tay, múng chõn của tụi được cụ cắt dũa sơn phết cẩn thận, chỉ là cỏi cớ để cụ tõm sự, và tụi thỏa tớnh tũ mũ, thớch nghe chuyện. Cụ kể cỏch đõy hai năm, ở tuổi mười bẩy cụ đó bị chớnh mẹ cụ múc nối bỏn trinh cho một thương gia éài Loan với giỏ ba trăm dollars. Nhờ số “vốn” đú, mẹ cụ đó tậu được chiếc xe bỏn bỏnh mỡ kờ ngoài ngừ. Cụ bộ kể với giọng lỳc nhanh lỳc chậm, lỳc lờn lỳc xuống, lỳc rừ lỳc khụng, tụi cú cảm tưởng như cõu chuyện đó xẩy ra cho cụ ở tiền kiếp. Chuyện đổi chỏc xẩy ra trong khỏch sạn đầu ngừ, ở tầng hai. Tiếng “ỏi” và hàm răng cắn mạnh vào bả vai “hắn” sau gần nửa tiếng cố đõm thủng vào bờn trong cụ. “Em sợ quỏ nờn hai đựi cứ dớnh chặt mà ụng khỏch thỡ biểu banh rộng ra.” Tụi ngồi lắng nghe, nhỡn đụi mắt nhỏ màu nõu nhạt, gũ mỏ cao, trỏn đầy mụn lấm tấm, hàm răng màu đỏ vàng, vai mỏng rỳt lờn như vai đứa bộ mười hai tuổi. Sau biến cố đú, cụ oỏn thự mẹ nờn bỏ nhà đi xuống Rạch Giỏ ở chung bà dỡ họ một thời gian. Cụ sợ hói tất cả đàn ụng, con trai đến gần. Rồi cụ vộn ỏo lờn chỉ cho tụi xem vết sẹo chạy dài từ nỏch xuống hụng, phớa bờn trỏi, “Một hụm em phụ bà dỡ đi buụn hàng, đường xa, xe đũ đang chạy bị hỏng mỏy, thay vỡ phải đợi cho mỏy nguội rồi mới mở ống nước, anh lơ xe mới vào nghề khụng biết, mở ra coi liền, nước núng sụi phụt tràn vào người em, lỳc đú em đang cũn ngồi trong xe. Em phải nằm nhà thương một tuần. Bụi bao nhiờu thuốc mới đỡ được như vầy...” Tụi nhỡn, vết sẹo đặc quỏnh như dũng đất sột xệt, bỏm chặt trờn mảng da trắng xanh. Tụi đưa tay rờ, hỏi nhỏ, “Chắc em phải giỏi chịu đau lắm?” “Dạ, hồi mới bị đau ghờ lắm!” Rồi cụ kộo ỏo xuống.
Mấy thỏng sau vụ phỏng, cụ về lại với mẹ. Hiện nay cụ làm nghề múng tay dạo trong xúm. Họ trả cụ với giỏ rẻ nhất thành phố. Cụ cũn kể thờm ba cụ cú tật nghiện rượu, mỗi khi lờn cơn say là cả bầy con khụn hồn phải chạy đi nơi khỏc, chứ đứng đú, sẵn trong tay cú gỡ là ụng liệng vào người cỏi đú. Mẹ cụ cú mỏu mờ số đề, mấy lần chỏy tỳi phải cầm quầy xe bỏnh mỡ, rồi được chị họ bờn Canada gửi tiền về giỳp chuộc lại. Chuyện cụ bỏn trinh, cả xúm ai cũng biết, vỡ mỗi lần ba cụ về, lờn cơn say, mỏ cụ đuổi ra khỏi nhà, là ba cụ đứng đầu ngừ chửi đổng lờn, kể hết ngọn ngành cho cả xúm nghe. “Chắc em khụng lấy chồng... mà chắc chẳng ai cưới em... thụi em ở vầy với mỏ phụ coi mấy đứa em.” Cụ núi, giọng nhỏ dần ở những chữ cuối. Khuụn mặt cố đậy che cảm xỳc. Sự chịu đựng lõu ngay đó trở thành thúi quen. Việt Nam ngày nay chuyện gỡ cũng cú thể xảy ra. Nhanh và khụng ngờ. Mảnh đất hope for the best, expect the worst. Tụi múc tỳi đưa cụ xấp tiền khụng đếm, cụ chụp đỳt nhanh vào ỏo lút, nhanh như chớp, nhanh như người trỏo đổi mấy con bài. Suốt đờm đú, tụi nằm chập chờn với mọi thứ õm thanh diễn ra trong xúm lao động. Tiếng tụng kinh gừ mừ, tiếng rao hàng, tiếng dộp, guốc kộo lờ trờn ngừ hẹp, tiếng chú tru, tiếng chửi thề, tiếng mốo rờn rỉ trờn mỏi nhà, tiếng trẻ con khúc, tiếng mỏy xe nổ như muốn xộ toạc trời... Rồi trời đổ mưa. Mưa đổ hột như đỏ nộm, ầm ầm, rầm rầm. Người tụi vó mồ hụi như tắm, nhầy nhụa dưới gỏy, dưới nỏch, ở hỏng, ở mỗi chõn túc. Mơ hay thực? Sao tụi lại nằm trong căn phũng xa lạ này? trờn sàn xi măng. Người tụi rờm mỏi và đau nhức. Xi măng là đỏ tảng. Tụi nằm trờn đỏ mà tưởng tảng đỏ nằm chồng lờn tụi. Cụ bộ hàng xúm làm múng tay dạo chui tọt vào người tụi nằm trong những giấc mơ ngắn, hiện ra liờn hồi, đứt quóng, suốt cả đờm. Mỗi lần tảng đỏ đố, lại hiện lờn khuụn mặt người đàn ụng trong đời chưa từng gặp.Tảng đỏ trắng hếu, hựng hục, cửa mỡnh khụng đau mà tim tụi nhúi, như lưỡi dao cựn cố thọc sõu, khuấy mạnh. Tụi muốn hột mà khụng được. Trời tối, giú thổi mạnh, tiếng mưa đập, tiếng sột lẫn sấm chớp. Trong tận cựng tuyệt vọng, đầu tụi bỗng hiện ra một buổi sỏng đầu đụng ở thành phố Garmisk, miền Nam nước éức. Chớn giờ sỏng thức dậy, mở cửa, thấy tuyết ngập xúa trời đất. Tuyết đổ suốt đờm mà tụi nào hay? Trong khi nơi chốn này, quờ hương tụi, cũng là nước từ trời đổ xuống nhưng sao xối xả như thỏc? Mảnh đất trời cố tỡnh hành! Nàng Kiều thời hậu chiến Cyclo của đạo diễn Trần Anh Hựng. Mất chiếc cyclo đồng nghĩa mất luụn sự ngõy thơ và nhậy cảm của người con gỏi mới lớn. Thời kinh tế thị trường mở cửa. Thời tranh tối tranh sỏng, người lạc quan cho là bỡnh minh, người bi quan cho là chiều tà. Bao nhiờu năm khốn khổ nay mở bừng mắt nhỡn ra thế giới bờn ngoài, mở mắt học văn minh xứ người, bằng cỏch mở bar ruợu, beer ụm, cà phờ karaoke khụng đốn, hotel mọc lờn như nấm sau cơn mưa. Thời mà làm bất cứ gỡ cũng phải xin phộp nhà nước, ngoại trừ thi hoa hậu. Lại cũn được ưu tiờn, khuyến khớch là bảo tồn văn húa. Thời thõn xỏc người đàn bà Việt Nam lại được đem ra khai thỏc một cỏch triệt để. Hóy lắng nghe những nàng Kiều thuộc lứa con, chỏu chỳng ta tõm sự với đầy dẫy lý do vỡ sao phải nối gút nàng Kiều của cụ Nguyễn Du: “Bà nội, bà ngoại chỏu già yếu. ễng nội chỏu đó hi sinh vỡ chống Mỹ cứu nước. ễng ngoại chỏu chết trong trại cải tạo. Bố chỏu nghiện rượu. Mẹ chỏu bệnh nặng. Anh chị chỏu vượt biờn mất tớch. éàn em chỏu cũn nhỏ dại...” Nghe sao khụng rỏch lũng nỏt dạ. Càng hiện đại bao nhiờu, Kiều càng rẻ rỳng bấy nhiờu. Càng “hiểu” Kiều bao nhiờu, càng chua chỏt bấy nhiờu.
Tại sao mỗi lần nhắc, núi, nghĩ, đề cập tới đàn bà con
File đính kèm:
- Truyen Kieu cua Nguyen Du.doc