Giáo án Địa lý 10 - Bài 26: Các vấn đề phát triển kinh tế - Xã hội ở vùng Đông Nam Á

1. Vấn đề dân số và vấn đề dân tộc

a) Đông Nam Á là một khu vực đông dân của thế giới. Dân số toàn khu vực năm 1996 là 501 triệu người, tương đương với số dân của Mĩ La tinh hay gần bằng châu Âu. Tỉ lệ sinh hiện nay còn cao (30%¬o¬), chỉ trừ Thái Lan và Xingapo có tỉ lệ sinh trung bình.

Sự gia tăng danh số nhanh là trở ngại cho: việc giả quyết các vân đề xã hội (việc làm và nạ thất ngiệp, trình độ học vấn và nạ mù chữa, dịch vụ y tế và các căn bệnh xã hội, nạn suy dinh dưỡng ở trẻ em )

Dân số đông và nguồn lao động dồi dào, rẻ, kể cả lao động có tay nghề của nhiều nước trong khu vực lại là điểm hấp dẫn sự đầu tư của nước ngoài.

b) Các nước ở Đông Nam Á đều có thành phần dân tộc khá phức tạp. Các dân tộc trong khu vực nói nhiều thứ tiếng khác nhau, thuộc ba dòng ngôn ngữ: dòng Nam Á, dòng Nam Đảo và dòng Hán – Tạng. Sự sặc sỡ của bức tranh phân bố dân tộc, những nét riêng về văn hóa, về tập quán sản xuất và sinh hoạt .của từng dân tộc đã tạo nên sự hấp dẫn của nền văn hóa ở đây, đồng thời cũng góp phần tạo nên tính năng động của dân cư.

2. Vấn đề đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế.

a) Đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế là một mục tiêu hàng đầu của các nước Đông Nam Á. Để nhằm mục tiêu này, các nước ASEAN đã dựa vào hai thế mạnh chủ yếu của mình là tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động. Các nước ASEAN cũng phải khắc phục hai điểm yếu cơ bản của mình là thiếu vốn và thiếu kĩ thuật tiên tiến. Từ năm sáu mươi và bảy mươi của thế kỉ này, cả nước ASEAN bắt đầu áp dụng chiến lược “hướng vào vào xuất khẩu” thay cho chiến lược “thay thế hàng nhập khẩu”. Trước hết, các nước này tập trung nỗ lực phát triển các ngành công nghiệp khai khoáng và các cây công nghiệp phục vụ xuất khẩu (cao su, ca cao, dừa, cọ dầu ). Gần đây, các nước ASEAN tập trung nhiều hơn vào việc phát triển các ngành công nghiệp chế biến và hoạt động dịch vụ.

Các nước ASEAN đã áp dụng những chính sách và biện pháp khác nhau để thu hút sự đầu tư của nước ngoài, mở các khu chế xuất. Với những biện pháp như vậy, các nước này đã bước đầu khắc phục được những khó khắn về vốn và thực hiện được việc chuyển giao kĩ thuật.

 

doc4 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 1614 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án Địa lý 10 - Bài 26: Các vấn đề phát triển kinh tế - Xã hội ở vùng Đông Nam Á, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 26. CÁC VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VÙNG ĐÔNG NAM Á 1. Vấn đề dân số và vấn đề dân tộc a) Đông Nam Á là một khu vực đông dân của thế giới. Dân số toàn khu vực năm 1996 là 501 triệu người, tương đương với số dân của Mĩ La tinh hay gần bằng châu Âu. Tỉ lệ sinh hiện nay còn cao (30%o), chỉ trừ Thái Lan và Xingapo có tỉ lệ sinh trung bình. Sự gia tăng danh số nhanh là trở ngại cho: việc giả quyết các vân đề xã hội (việc làm và nạ thất ngiệp, trình độ học vấn và nạ mù chữa, dịch vụ y tế và các căn bệnh xã hội, nạn suy dinh dưỡng ở trẻ em…) Dân số đông và nguồn lao động dồi dào, rẻ, kể cả lao động có tay nghề của nhiều nước trong khu vực lại là điểm hấp dẫn sự đầu tư của nước ngoài. b) Các nước ở Đông Nam Á đều có thành phần dân tộc khá phức tạp. Các dân tộc trong khu vực nói nhiều thứ tiếng khác nhau, thuộc ba dòng ngôn ngữ: dòng Nam Á, dòng Nam Đảo và dòng Hán – Tạng. Sự sặc sỡ của bức tranh phân bố dân tộc, những nét riêng về văn hóa, về tập quán sản xuất và sinh hoạt ….của từng dân tộc đã tạo nên sự hấp dẫn của nền văn hóa ở đây, đồng thời cũng góp phần tạo nên tính năng động của dân cư. 2. Vấn đề đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế. a) Đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế là một mục tiêu hàng đầu của các nước Đông Nam Á. Để nhằm mục tiêu này, các nước ASEAN đã dựa vào hai thế mạnh chủ yếu của mình là tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động. Các nước ASEAN cũng phải khắc phục hai điểm yếu cơ bản của mình là thiếu vốn và thiếu kĩ thuật tiên tiến. Từ năm sáu mươi và bảy mươi của thế kỉ này, cả nước ASEAN bắt đầu áp dụng chiến lược “hướng vào vào xuất khẩu” thay cho chiến lược “thay thế hàng nhập khẩu”. Trước hết, các nước này tập trung nỗ lực phát triển các ngành công nghiệp khai khoáng và các cây công nghiệp phục vụ xuất khẩu (cao su, ca cao, dừa, cọ dầu…). Gần đây, các nước ASEAN tập trung nhiều hơn vào việc phát triển các ngành công nghiệp chế biến và hoạt động dịch vụ. Các nước ASEAN đã áp dụng những chính sách và biện pháp khác nhau để thu hút sự đầu tư của nước ngoài, mở các khu chế xuất. Với những biện pháp như vậy, các nước này đã bước đầu khắc phục được những khó khắn về vốn và thực hiện được việc chuyển giao kĩ thuật. Một số nước đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao như: Xingapo, Malaixia và Thái Lan. b) Trong quá trình tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế của các nước ASEAN có những biến đổ mạnh mẽ, đặc biệt là dưới ảnh hưởng của các công ti xuyên quốc gia. Mỗi nước lựa chọn một số ngành mũi nhọn, một số sản phẩm mũi nhọn phục vụ xuất khẩu. Chẳng hạn, ở Indonexia là ngành khai thác và chế biến dầu mỏ, ở Xingapo là công nghiệp vi điện tử và chế biến các sản phẩm dựa vào nguyên liệu nhập. 3. Tăng trưởng kinh tế và các vấn đề xã hội a) Đối với các nước đang phát triển nói chung và các nước ASEAN nói riêng, sự tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các nguồn lực bên ngoài và thị trường quốc tế. Hơn nữa, hai thế mạnh chủ yếu của các nước này là nguồn nguyên liệu dồi dào và nguồn lao động giá rẻ sẽ giảm ý nghĩa trong tương lai. Thứ nhất, giá xuất khẩu nguyên liệu không ngừng giảm so với giá nhập khẩu máy móc, thiết bị. Thứ hai, trong điều kiện khoa học – kĩ thuật càng phát triển thì nhu cầu về sức lao động rẻ sẽ giảm đi mà thay vào đó là nhu cầu về lao động có kĩ thuật cao. Vì vậy, sự tăng trưởng của các nước này chưa có cơ sở vững chắc. b) Chính những điều trên đã đặt các nước ASEAN vào tình trạng nợ nước ngoài rất lớn. Chẳng hạn số nợ nước ngoài năm 1995 của Indonexia là hơn 124,4 tỉ đola Mĩ, Thái Lan là 83,1 tỉ đôla Mĩ… Những khó khăn về kinnh tế dễ làm tăng lạm phát và tăng tỉ lệ người thất ngiệp ở các nước này. c) Một hậu quả xã hội khác là sự phân hóa ngày càng lớn giữa người giàu và người nghèo; giữa thành thị các vùng được đầu tư và vùng nông thôn rộng lớn. d) Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của các nước láng giềng Lào và Campuchia có những điểm khác biệt so với các nước ASEAN khác. Đây là hai nước hiện có tỉ lệ sinh cao nhất và tỉ lệ tử vong của trẻ em vào loại cao của khu vực Dông Nam Á. Nền kinh tế của Lào và Campuchia phải trải qua những biến động lớn trong mấy thập niên qua do chiến tranh. Về cơ bản, nền kinh tế của hai nước này vẫn là kinh tế tiểu nông, tự cấp, tự túc. Hiện nay, Nhà nước và nhân dân hai nước Lào và Campuchia đang phấn đấu để đưa đất nước tiến lên. Bài 27. MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á 1. Những mối quan hệ hợp tác hữu nghị đã hình thành giữa nước ta và các nước Đông Nam Á Cho đến nay, nước ta đã dặt quan hệ ngoại dao và buôn bán với tất cả các nước trong khu vực Quan hệ láng giềng thân thiện giữa Việt Nam, Lào và Campuchia đã hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài, được phát triển trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của mỗi nước và trong công cuộc xây dựng nền kinh tế bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh. Việc kí kết các hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Lào (1977), giữa Việt Nam và Campuchia (19790 là sự thể hiện sáng ngời các mối quan hệ thân thiện này. Quan hệ giữa Việt Nam và các nước ASEAN bị gián đoạn trong suốt thời gian có cuộc chiến tranh Đông Dương và do chính sách can thiệp của các nước lớn vào việc giải quyết các vấn đề của khu vực. Hiện nay, quan hệ giữa Việt nam và các nước ASEAN đang được cải thiện, nhằm xây dựng một khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định và phát triển. Quan hệ thương mại giữa nước ta và các nước ASEAN được tăng cường và đa dạng hơn kể tử năm 1986, khi Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới về kinh tế, chính trị, đối ngoại. Việc mở rộng quan hệ kinh tế với các nước ASEAN gắn liền với việc nước ta thực hiện đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi. Hiện nay, trong khu vực, Xingapo là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam. Năm 1996, giá trị hàn xuất khẩu đến Xingapo là 1290 triệu đôla Mĩ (chỉ sau Nhật bản), còn giá trị hàng nhập khẩu từ Xingapo là 2032,6 triệu đôla Mĩ (vượt Nhật Bản). Các nước bạn hàng có vị trí đáng kể khác trong khu vực là Thái Lan, Indonexia và Malaixia. Việc thu hút đầu tư của các nước ASEAN vào nước ta cũng bước dầu có kết quả. 2. Những cơ hội cho sự mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước trong khu vực Đông Nam Á Việt Nam hiện nay có thu nhập quốc dân bình quân trên đầu người còn thấp, nhưng lại gần một khu vực kinh tế phát triển năng động vào bậc nhất thế giới trong thập niên 80. Một số nước ASEAN đã vượt xa nước ta về bình quân thu nhập quốc dân trên đầu người. Sự phát triển kinh tế nhanh của một số nước trong khu vực cho phép và đồng thời đòi hỏi nước ta phải tận dụng được lợi thế của mình để vừa hợp tác, vừa cạnh tranh được với các nước trong khu vực và trên thế giới. Sự diễn biến của tình hình chính trị trên thế giới và trong khu vực cũng thuận lợi cho xu thế hợp tác giữa các nước Đông Dương và các nước ASEAN. Trên thế, thời kì chiến tranh lạnh đã kết thúc, xu hướng đối thoại, hợp tác đang thay thế sự đối đầu giữa các nước. XU thế tăng cường hợp tác khu vực đang diễn ra trên nhiều vùng lớn của thế giới. Tác động của các sự kiện chính trị, kinh tế quốc tế vad các khu vực khác trên thế giới, những chuyển biến mau lẹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương cũng góp phần thúc đẩy sự nỗ lực của các nước Đông Nam Á trong việc xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định và phát triển, có vị trí ngày càng được củng cố trên thế giới. Việc mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta và các nước Đông Nam Á không tách rời với việc mở rộng quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước trong vùng châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản, Ôxtraylia…. 3. Về khả năng mở rộng quan hệ kinh tế với các nước Đông Nam Á Khả năng mở rộng các quan hệ kinh tế của nước ta với các nước Đông Nam Á là phong phú, rộng mở. Trước hết, đó là sự hợp tác nhằm sử dụng hợp lí tài nguyên của khu vực vì quyền lợi của các nước có liên quan, chẳng hạn như việc khai thác Ttoongr hợp sông Mê Công, khai thác các nguồn lợi biển và thềm lục địa của Biển Đông và vịnh Thái Lan… Sự hợp tác cũng sẽ phát triển trong lĩnh vực đầu tư. Việt Nam có một số khoáng sản quý, trữ lượng khá mà các nước láng giềng không có lợi thế bằng. Lực lượng lao động ở Việt Nam khá lành nghề, lại rẻ hơn so với một số nước Đông Nam Á. Môi trường đầu tư vào Việt Nam thuận lợi. Thị trường Việt Nam có sức mua khá lớn. Điều đó làm tăng thêm sức hấp dẫn với sự đầu tư của nước ngoài, đặc biệt hiện nay là, các nước ASEAN đang chủ trương bố trí lại cơ cấu công nghiệp ở nước mình. Trong quá trình mở rộng các quan hệ kinh tế, nước ta sẽ tham gia thích cực vào sự phân công lao động giữa các nước trong khu vực, hòa nhập nhanh hơn vào đời sống kinh tế quốc tế.

File đính kèm:

  • docBài 26 sgk.doc