1. Kiểm tra bài cũ:
+ Câu 1. Tại sao trong hoàn cảnh lịch sử châu Á, Nhật Bản thoát khỏi thân phận thuộc địa trở thành một nước đế quốc?
+ Câu 2. Những sự kiện nào chứng tỏ cuối thế kỉ XIX Nhật Bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa?
2. Vào bài mới
- Giới thiệu: Năm 1498 nhà hàng hải Vasco da Game đã vượt mũi Hảo Vọng tìm được con đường biển tới tiểu lục Ấn Độ. Từ đó các nước phương Tây đã xâm nhập vào Ấn Độ.
+ Các nước phương Tây đã xâm lược Ấn Độ như thế nào?
+ Thực dân Anh đã độc chiếm và thực hiện chính sách thống trị trên đất Ấn Độ ra sao?
+Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân giải phóng dân tộc ở Ấn Độ diễn ra như thế nào?.
3. Nội dung:
I. Tình hình Ấn Độ nửa sau thế kỉ XIX:
* Qúa trình thực dân xâm lược ẤnĐộ:
+ Từ đầu thế kỉ XVII chế độ phong kiến Ấn Độ suy yếu các nước phương Tây chủ yếu Anh - Pháp đua nhau xâm lược.
+ Kết quả: Giữa thế kỉ XVII Anh hoàn thành xâm lược và đặt ách cai trị Ấn Độ.
* Chính sách cai trị của thực dân Anh:
+ Về kinh tế: Thực dân Anh thực hiện chính sách vơ vét tài nguyên cùng kiệt và
bóc lột nhân công rẻ mạt nhằm biến Ấn Độ thành thị trường quan trọng của Anh .
+ Về chính trị - xã hội: Chính phủ Anh Thiết lập chế độ cai trị trực tiếp Ấn Độ với những thủ đoạn chủ yếu là : chia để trị, mua chuộc giai cấp thống trị, khơi sâu thù hằn dân tộc, tôn giáo, đẳng cấp trong xã hội. .
+ Về văn hóa - giáo dục: Thi hành chính sách giáo dục ngu dân, khuyến khích tập quán lạc hậu và hủ tục cổ xưa.
64 trang |
Chia sẻ: trangtt2 | Ngày: 20/07/2022 | Lượt xem: 256 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo án môn Lịch sử Lớp 11 - Bài 1-18, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần một
LỊCH SỬ THẾ GIỚI CẬN ĐẠI (Tiếp theo)
Chương I
CÁC NƯỚC CHÂU Á, CHÂU PHI VÀ KHU VỰC MĨ LA –TINH
(TỪ ĐẦU THẾ KỶ XIX ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XX)
TiÕt 1 Bài 1
NHẬT BẢN
1. Giới thiệu khái quát về chương trình lịch sử lớp 11
- Chương trình Lịch sử lớp 11 bao gồm các phần:
+ Lịch sử thế giới cận đại phần tiếp theo.
+ Lịch sử thế giới hiện đại từ 1917 – 1945.
+ Lịch sử Việt Nam từ 1858 – 1918.
I/. Nhật Bản từ đầu thế kỉ XIX đến trước năm 1868
- Đầu thế kỉ XIX chế độ Mạc phủ ở Nhật Bản đứng đầu là Tướng quân (Sô- gun)
* Kinh tế:
- Nông nghiệp lạc hậu, tô thuế nặng nề, mất mùa đói kém thường xuyên.
- Công nghiệp: kinh tế hàng hóa phát triển, công trường thủ công xuất hiện ngày càng nhiều, kinh tế tư bản phát triển nhanh chóng.
* Xã hội: nổi lên mâu thuẫn giữa nông dân, tư sản thị dân với chế độ phong kiến lạc hậu.
* Chính trị: Nổi lên mâu thuẫn giữa Thiên hoàng và Tướng quân.
- Giữa lúc Nhật Bản khủng hoảng suy yếu, các nước tư bản Âu - Mĩ tìm cách xâm nhập.
+ Đi đầu là Mĩ dùng vũ lực buộc Nhật Bản “mở cửa” sau đó Anh, Pháp, Nga, Đức cũng ép Nhật ký các Hiệp ước bất bình đẳng.
+ Trước nguy cơ bị xâm lược Nhật Bản phải lựa chọn một trong hai con đường là: bảo thủ duy trì chế độ phong kiến lạc hậu, hoặc là cải cách.
II/. Cuộc Duy tân Minh Trị:
Minh Trị (Mâygi) (1852-1912)
1. Nội dung:
Tháng 01/1868 Sô-gun bị lật đổ. Thiên hoàng Minh Trị (Meiji) trở lại nắm quyền và thực hiện một loạt cải cách;
+ Về chính trị: Nhật hoàng tuyên bố thủ tiêu chế độ Mạc phủ, lập chính phủ mới, thực hiện bình đẳng ban bố quyền tự do.
+ Về kinh tế: xóa bỏ độc quyền ruộng đất của phong kiến thực hiện cải cách theo hướng tư bản chủ nghĩa.
+ Về quân sự: được tổ chức huấn luyện theo kiểu phương Tây, chú trọng đóng tàu chiến, sản xuất vũ khí đạn dược.
+ Giáo dục: chú trọng nội dung khoa học- kỹ thuật. Cử HS giỏi đi du học phương Tây.
2. Tính chất – ý nghĩa:
* Cải cách Minh Trị mang tính chất của một cuộc cách mạng tư sản.
* Mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở Nhật.
III/. Nhật bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa :
- Trong 30 năm cuối thế kỉ XIX quá trình tập trung trong công nghiệp, thương nghiệp với ngân hành đã đưa đến sự ra đời những công ty độc quyền, Mít-xưi, Mit-su-bi-si chi phối đời sống kinh tế, chính trị Nhật Bản.
- Trong 30 năm cuối thế kỉ XIX Nhật đẩy mạnh chính sách bành trướng xâm lược.
+ Năm 1874 Nhật Bản xâm lược Đài Loan.
+ Năm 1894-1895 chiến tranh với TQ .
+ Năm 1904-1905 chiến tranh với Nga.
- Chính sách đối nội:
- Kết luận: NB dã trở thành nước đế quốc .
- Củng cố: Nhật Bản là một nước phong kiến lạc hậu ở châu Á, song do thực hiện cải cách nên không chỉ thoát khỏi thân phận thuộc địa, mà còn trở thành một nước tư bản phát triển. điều đó chứng tỏ cải cách Minh Trị là sáng suốt và phù hợp, chính sự tiến bộ sáng suốt của một ông vua anh minh đã làm thay đổi vận mệnh của dân tộc, đưa Nhật Bản sánh ngang với các nước phương Tây trở thành đất nước có ảnh hưởng lớn đến Châu Á.
- Dặn dò: Học bài cũ, trả lời câu hỏi SGK,lµm bµi tËp, sưu tầm tư liệu về đất con người Ấn độ.
BÀI LÀM
Der Meiji Tenno Mutsuhito 1868 - 1912
Minh Trị (Mâygi) (1852-1912)
Minh Trị Thiên Hoàng (Meiji Tennô) là biệt hiệu của hoàng đế Nhật Bản Mưtxưhitô (Mutsuhito) người tiến hành cuộc duy tân ở Nhật Bản năm 1868, mở đầu thời kỳ chuyển biến từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa.
Năm 1867, Mưtxưhitô lên nối ngôi vua cha mới 15 tuổi. Tất cả mọi quyền hành trong nước đều nằm trong tay Mạc phủ dòng họ Tôkưgaoa. Chế độ Mạc Phủ đại diện cho giai cấp quý tộc phong kiến Nhật Bản đang gặp khủng hoảng trầm trọng (phong trào khởi nghĩa của nông dân và đấu tranh của thị dân nổ ra mạnh mẽ, các nước đế quốc Mỹ, Anh, Pháp ... ép buộc Mạc Phủ phải ký những hiệp ước bất bình đẳng). Với sự hỗ trợ của các đại quý tộc địa phương (đaimyo) và giai cấp tư sản, năm 1868, Thiên hoàng Mưtxưhitô ép buộc tướng quân Mạc phủ phải từ chức và trao lại quyền hành cho Thiên hoàng. Tướng quân Mạc phủ và phe cánh nổi lên chống lại Thiên hoàng, bị quân đội Thiên hoàng đánh tan.
Sau khi lật đổ chế độ Mạc phủ, Thiên hoàng Mưtxưhitô thực hiện một số cải cách có tính chấ tư sản, mà lịch sử gọi là "Cải cách Minh Trị" (Minh Trị có nghĩa là sự cai trị sáng suốt). Những cải cách này đã thủ tiêu chế độ phong kiến phân tán và những cản trở của chế độ phong kiến, thúc đẩy nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển đưa nước Nhật từ một nước phong kiến thành một nước tư bản chủ nghĩa, thoát khỏi sự nô dịch của nước ngoài.
Cuộc cải cách Minh Trị được đánh giá là một cuộc cách mạng tư sản không triệt để, vì tuy nó đã xóa bỏ những hạn chế phong kiến, mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiếp thu nền văn minh phương Tây, nhưng chính quyền và chỉ huy quân đội vẫn nằm trong tay giai cấp quý tộc (đaimyô) và võ sĩ (samurai). Nhật Bản đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm lược đế quốc chủ nghĩa. Trong thời kỳ Minh Trị trị vì, đã diễn ra cuộc chiến tranh Trung - Nhật năm 1895 và Nga - Nhật năm 1905.
TiÕt 2 Bµi 2
ẤN ĐỘ
1. Kiểm tra bài cũ:
+ Câu 1. Tại sao trong hoàn cảnh lịch sử châu Á, Nhật Bản thoát khỏi thân phận thuộc địa trở thành một nước đế quốc?
+ Câu 2. Những sự kiện nào chứng tỏ cuối thế kỉ XIX Nhật Bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa?
2. Vào bài mới
- Giới thiệu: Năm 1498 nhà hàng hải Vasco da Game đã vượt mũi Hảo Vọng tìm được con đường biển tới tiểu lục Ấn Độ. Từ đó các nước phương Tây đã xâm nhập vào Ấn Độ.
+ Các nước phương Tây đã xâm lược Ấn Độ như thế nào?
+ Thực dân Anh đã độc chiếm và thực hiện chính sách thống trị trên đất Ấn Độ ra sao?
+Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân giải phóng dân tộc ở Ấn Độ diễn ra như thế nào?.
3. Nội dung:
I. Tình hình Ấn Độ nửa sau thế kỉ XIX:
* Qúa trình thực dân xâm lược ẤnĐộ:
+ Từ đầu thế kỉ XVII chế độ phong kiến Ấn Độ suy yếu ® các nước phương Tây chủ yếu Anh - Pháp đua nhau xâm lược.
+ Kết quả: Giữa thế kỉ XVII Anh hoàn thành xâm lược và đặt ách cai trị Ấn Độ.
* Chính sách cai trị của thực dân Anh:
+ Về kinh tế: Thực dân Anh thực hiện chính sách vơ vét tài nguyên cùng kiệt và
bóc lột nhân công rẻ mạt ® nhằm biến Ấn Độ thành thị trường quan trọng của Anh .
+ Về chính trị - xã hội: Chính phủ Anh Thiết lập chế độ cai trị trực tiếp Ấn Độ với những thủ đoạn chủ yếu là : chia để trị, mua chuộc giai cấp thống trị, khơi sâu thù hằn dân tộc, tôn giáo, đẳng cấp trong xã hội. .
+ Về văn hóa - giáo dục: Thi hành chính sách giáo dục ngu dân, khuyến khích tập quán lạc hậu và hủ tục cổ xưa.
H×nh1: Thùc d©n Anh cai trÞ .Ấn Độ
* Hậu quả
+ Kinh tế giảm sút, bần cùng.
+ Đời sống nhân dân người dân cực khổ.
II. Cuộc khởi nghĩa Xi-pay (1857-1859):
1. Nguyên nhân: do binh lính Xi-pay bị thực dân Anh đối xử tàn tệ, tinh thần dân tộc và tín ngưỡng bị xúc phạm ® binh lính bất mãn nổi dậy đấu tranh.
2. Diễn biến:
+ Ngày 10/5/1857 khởi nghĩa bùng nổ ở Mi-rút.
+ Khởi nghĩa lan rộng khắp miền Bắc, miền Tây Ấn Độ kéo dài 2 năm.
+ Lực lượng tham gia là binh lính và nông dân .
3. Kết quả: Khởi nghĩa bị đàn áp và thất bại.
4. Ý nghĩa lịch sử: Thể hiện lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất, ý thức vươn tới độc lập của nhân dân Ấn Độ.
H×nh2: Khëi nghÜa Xipay
III. Đảng Quốc Đại và phong trào dân tộc (1885-1908)
1. Sự thành lập Đảng Quốc đại:
+ Năm 1885 giai cấp tư sản Ấn Độ thành lập Đảng Quốc đại
+ Trong 20 năm Đảng chủ trương đấu tranh ôn hòa.
+ Do thái độ thỏa hiệp của những người cầm đầu và chính quyền sách 2 mặt của chính quyền Anh, nội bộ Đảng Quốc đại bị phân hóa thành 2 phái: ôn hòa và phái cực đoan (kiên quyết chống Anh do Ti-lắc đứng đầu).
2.Phong trào dân tộc ở Ấn Độ 1905-1908..
+ Phong trào đấu tranh chống đạo luật chia cắt Ben-gan 1905.
+ Đỉnh cao của phong trào là cuộc tổng bãi công ở Bom-bay 1908.
+ Tháng 7/1908 thực dân Anh bắt Ti - Lắc, kết án 6 năm tù ® công nhân Bom-bay đã tổng bãi công kéo dài 6 ngày để ủng hộ Ti- lắc.
+ Cao trào cách mạng 1905-1908 mang đậm ý thức dân tộc đánh dấu sự thức tỉnh của nhân dân Ấn Độ.
---------------------------------------------
- Củng cố: Cuối thế kỉ XIX đầu XX phong trào đấu tranh ở Ấn Độ phát triển mạnh, ý thức độc lập dân tộc ngày càng rõ nét nhất là trong cao trào cách mạng 1905-1908, chứng tỏ sự trưởng thành của cách mạng Ấn Độ. Mặc dù thất bại nhưng sẽ là sự chuẩn bị cho cuộc đấu tranh về sau.
- Dặn dò: HS học bài cũ, Lµm bµi tËp, đọc trước bài mới, sưu tầm tư liệu hình ảnh về Trung Quốc cuối thế kỉ XIX đầu XX.
TƯ LIỆU
Tilăc (1856-1920)
Ban Ganggađa Tilăc (Bal Gangadar Tilak) - nhà cách mạng ấn Độ, lãnh tụ phái cấp tiến trong Đảng Quốc đại ấn Độ, một học giả, một triết gia về truyền thống dân tộc cổ ấn Độ.
Tilăc sinh ra trong một gia đình trí thức Bà La Môn ở bang Maharastra (vùng ven biển miền Tây Âu). Từ thuở nhỏ, Tilăc đã cảm nhận truyền thống dân tộc Maratha và có tinh thần yêu nước nồng nàn. Năm 1880, sau khi tốt nghiệp cử nhân luật, ông từ chối làm quan chức trong chính quyền thực dân, mà cùng với bạn mở trường tư thục ở? Poana, nhằm giáo dục thanh niên tinh thần độc lập dân tộc. Ngoài ra, ông còn đứng ra thành lập tờ báo Sư tử bằng tiếng dân tộc Marathi và tờ Maratha bằng tiếng Anh để tuyên truyền nền văn hóa dân tộc, thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân, đả kích nền thống trị của thực dân Anh. Năm 1885, ông tham gia Đảng Quốc đại và trở thành lãnh tụ nhóm cấp tiến phái tả của Đảng đó.
Để tập hợp nhân dân, Tilăc đã đứng ra tổ chức những ngày lễ hội truyền thống của địa phương mình và các địa phương khác được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Qua những buổi hội làng, ông tuyên truyền và giác ngộ nhân dân. Năm? 1897, nhân việc một viên sĩ quan người Anh bị ám sát, bọn thực dân lấy cớ là Tilăc viết báo xúi giục nhân dân nổi loạn nên bắt giam và xử tù ông 18 tháng. Trong phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ấn Độ những năm 1905-1907, Tilăc hô hào nhân dân đứng lên lật đổ nền thống trị Anh.
Phương pháp cách mạng của ông không phù hợp với phái ôn hòa trong Đảng Quốc đại, ông bị khai trừ khỏi Đảng. Năm 1908, bọn thực dân Anh một lần nữa lại kiếm cớ bắt giam ông, xử ông 6 năm khổ sai và đày sang Manđalay (Mianma). Trước tòa án, Tilăc là người đã tố cáo đanh thép và lên án tội ác của chính quyền thực dân. Nhân dân khắp nơi sôi sục phản đối bản án. Trong nhà tù, Tilăc viết sách về triết học truyền thống của ấn Độ để bày tỏ lòng quyết têm đối với cách mạng. Sau khi được trả tự do (1914), ông lại tiếp tục đấu tranh. Năm 1916, ông thành lập Liên đoàn tự trị. Ông mất ở Bombay năm 1920.
BÀI LÀM
TiÕt 03 Bài 3
TRUNG QUỐC.
1. Kiểm tra bài cũ
+ Câu 1: Sự thành lập và vai trò của Đảng Quốc đại ở Ấn Độ?
+ Câu 2: So sánh cao trào đấu tranh 1905-1908 với khởi nghĩa Xi-pay, rút ra tính chất, ý nghĩa của cao trào.
2. Vào bài mới:
Vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, châu Á có những biến đổi lớn, riêng Nhật Bản đã chuyển sang chủ nghĩa tư bản sau cải cách Minh Trị. Còn lại hầu hết các nước Châu Á khác đều bị biến thành thuộc địa hoặc phụ Trung Quốc - một nước lớn của Châu Á song cũng không thoát khỏi thân phận một thuộc địa.-> Để hiểu được Trung Quốc đã bị các đế quốc xâm lược như thế nào và cuộc đấu tranh của nhân dân Trung Quốc chống phong kiến, đế quốc ra sao, chúng ta cùng tìm hiểu bài: Trung Quốc.
3.Nội Dung:
I. Trung Quốc bị các đế quốc xâm lược:
1- Nguyên nhân Trung Quốc bị xâm lược
+ Thế kỉ XVIII đầu XIX các nước tư bản phương Tây tăng cường xâm chiếm thị trường thế giới
+ Trung Quốc là một thị trường lớn, béo bở, chế độ đang suy yếu ® trở thành đối tượng xâm lược của nhiều đế quốc
2- Quá trình đế quốc xâm lược TQuốc
+ Thế kỉ XVIII các đế quốc dùng mọi thủ đoạn, tìm cách ép chính quyền Mãn Thanh phải mở cửa, cắt đất.
+ Đi đầu là thực dân Anh chúng đã buộc nhà Thanh phải ký Hiệp ước Nam Kinh Năm 1842, chấp nhận các điều khoản thiệt thòi.
+ Đi sau Anh, các nước khác đua nhau xâu xé Trung Quốc: Đức chiếm Sơn Đông, Anh chiếm châu thổ sông Dương Tử, Pháp chiếm Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Nga - Nhật Bản chiếm vùng Đông Bắc.
3- Hậu quả: Xã hội Trung Quốc nổi lên 2 mâu thuẫn cơ bản: nhân dân Trung Quốc với đế quốc, nông dân với phong kiến ® phong trào đấu tranh chống phong kiến , đế quốc Nhật Bản chiếm vùng Đông Bắc.
H×nh 4: Trung Quèc bÞ c¸c ®Õ quèc x©u xÐ.
II/. Phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX:
Nội dung
khởi nghĩa Thái bình Thiên Quốc
Phong trào Duy Tân
Phong trào Nghĩa Hòa đoàn
Diễn biến chính
Bùng nổ ngày 1/1/1851 tại kim Điền (Quảng Tây) ® lan rộng khắp cả nước ® bị phong kiến đàn áp ® năm 1864 thất bại.
Năm 1898 diễn ra cuộc vận động Duy Tân, tiến hành cải cách cứu vãn tình thế .
Năm 1899 bùng nổ ở Sơn Đông lan sang Trực Lệ, Sơn Tây, tấn công sứ quán nước ngoài ở Bắc Kinh, bị liên quân 8 nước đế quốc tấn công ® thất bại .
Lãnh đạo
Hồng Tú Toàn .
Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu .
Lực lượng
Nông dân .
Quan lại, sỹ phu tiến bộ, vua Quang Tự .
Nông dân .
Tính chất - ý nghĩa:
Là cuộc khởi nghĩa nông dân vĩ đại chống phong kiến làm lung lay triều đình phong kiến Mãn Thanh .
Cải cách dân chủ, tư sản, khởi xướng khuynh hướng dân chủ tư sản ở Trung Quốc .
Phong trào yêu nước chống đế quốc. Giáng một đòn mạnh vào đế quốc.
=> Nguyên nhân thất bại:
+ Chưa có tổ chức lãnh đạo.
+ Do sự bảo thủ, hèn nhát của triều đình phong kiến.
+ Do phong kiến và đế quốc cấu kết đàn áp.
III.Tôn Trung Sơn và cách mạng Tân Hợi 1911:
1. Tôn Trung Sơn và Đồng minh hội:
* Tôn Trung Sơn là một trí thức có tư tưởng cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản
* Tháng 8/1905 Tôn Trung Sơn tập hợp giai cấp tư sản Trung Quốc thành lập Đồng minh hội- chính Đảng của giai cấp tư sản Trung Quốc.
*Cuơng lĩnh chính trị: theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn
* Mục tiêu: Đánh đổ Mãn Thanh thành lập dân quốc, bình quân địa quyền
2. Cách mạng Tân Hợi 1911;
a- Nguyên nhân :
+ Nhân dân Trung Quốc mâu thuẫn với đế quốc phong kiến
+ Ngòi nổ của cách mạng là do nhà Thanh trao quyền kiểm soát đường sắt cho đế quốc ®phong trào “giữ đường” bùng nổ, nhân cơ hội đó đồng minh hội phát động đấu tranh.
b-Diễn biến:
+ Khởi nghĩa bùng nổ ở Vũ Xương 10/10/1911® lan rộng khắp miền Nam, miền Trung.
+ Ngày 19/12/1911 Tôn Trung Sơn làm Đại Tổng thống lâm thời, tuyên bố thành lập chính phủ lâm thời Trung Hoa dân quốc.
+ Trước thắng lợi của cách mạng, tư sản thương lượng với nhà Thanh, đế quốc can thiệp.
c- Kết quả: Vua Thanh thoái vị, Tôn Trung Sơn từ chức, Viên Thế Khải làm Tổng thống.
d- Tính chất - ý nghĩa:
+ Cách mạng mang tính chất cuộc cách mạng tư sản không trịêt để.
+ Lật đổ phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển, ảnh hưởng đến Châu Á.
---------------------------------------------
- Củng cố: Nguyên nhân của cuộc đấu tranh chống đế quốc phong kiến ở Trung Quốc, tính chất ý nghĩa của cách mạng Tân Hợi.
- Dặn dò: HS học bài cũ, làm câu hỏi bài tập SGK, đọc trước bài mới.
TƯ LIỆU
Tôn Trung Sơn (1866-1925)
Tôn Trung Sơn - nhà cách mạng dân chủ Trung Quốc, người lãnh đạo cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 lật đổ triều đại phong kiến Mãn Thanh và thiết lập nước Trung Hoa dân quốc.
Tôn Trung Sơn tên là Tôn Văn, tự là Tôn Dật Tiên, sinh trưởng trong một gia đình nông dân khá giả ở tỉnh Quảng Đông. Thời niên thiếu, ông sang Hônôlulu (quần đảo Haoai) ở với người Anh buôn bán kinh doanh, ở bên đó ông theo học các trường tiểu học và trung học của người Âu Châu. Năm 1883, Tôn Trung Sơn trở về nước, theo học trường Đại học y khoa ở Hương Cảng và trở thành bác sĩ. Trong hoàn cảnh đất nước đang bị đế quốc xâu xé, ông thấy việc cứu nguy cho toàn xã hội quan trọng hơn là trị bệnh cho một vài người, nên ông bỏ nghề y tham gia hoạt động chính trị.
Năm 1894, Tôn Trung Sơn sang Haoai, tập hợp những Hoa kiều cùng chí hướng, thành lập Hưng Trung hội với tôn? chỉ đánh đổ mãn Thanh, khôi phục Trung Hoa. Năm 1905, Tôn Trung Sơn hợp nhất Hưng Trung hội với một số tổ chức cách mạng ở trong nước, lập thành Trung Quốc Đồng minh hội do ông làm Tổng lý. Trên tờ Dân báo, cơ quan ngôn luận của Hội, ông đã công bố Chủ nghĩa tam dân (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) do ông đề xướng.
Từ 1905-1911, Trung Quốc đồng minh hội tổ chức nhiều cuộc binh biến ở các tỉnh miền Nam, nhưng không thành công. Ngày 10-10-1911, Đồng minh hội vận động được binh sĩ ở thành phố Vũ Xương (Hồ Bắc) nổi dậy khởi nghĩa và giành được thắng lợi (mở đầu cách mạng Tân Hợi). Phong trào khởi nghĩa bùng nổ ở nhiều tỉnh khác. Ngày 24/12/1911, Tôn Trung Sơn về nước, được đại hội đại biểu các tỉnh họp tại Nam Kinh đề cử làm Tổng thống của Chính phủ trung ương lâm thời. Ngày 1/1/1912, Tôn Trung Sơn nhậm chức tại Nam Kinh và tuyên bố thành lập nước Trung Hoa dân quốc. Ông đã ban bố bản Lâm thời ước pháp (Hiến pháp lâm thời) để làm cơ sở cho việc xây dựng nước Trung Hoa dân quốc.
Ngày 13/2/1912, để lôi kéo bọn quân phiệt Bắc Dương theo cách mạng, Tôn Trung Sơn đã từ chức Tổng thống lâm thời để cho Viên Thế Khải, một đại thần của triều đình Mãn Thanh lên thay. Viên Thế Khải lên làm Tổng thống chính thức nước Trung Hoa dân quốc, tuy đã buộc vua Thanh là Phổ Nghi thoái vị, những cũng có nhiều hành động phản bội lại phong trào cách mạng, tước bỏ dần những thành quả của cách mạng Tân Hợi. Tôn Trung Sơn tập hợp các lực lượng cách mạng Tân Hợi. Tôn Trung Sơn tập hợp các lực lượng cách mạng ở các tỉnh phía Nam chống lại Viên, nhưng bị Viên đàn áp nhanh chóng (lịch sử gọi Cuộc cách mạng lần thứ hai). Sau khi Viên Thế Khải chết (1916), các lực lượng quân phiệt chia nhau thống trị các vùng ở Trung Quốc gây hỗn chiến liên miên.
Cách mạng tháng Mười 1917 ở Nga đã ảnh hưởng lên tới tư tưởng của Tôn Trung Sơn. Ông cải tổ Quốc dân đảng (Quốc dân đảng thành lập vào tháng 8-1912 thay thế Đồng minh hội), hiệp tác với Đảng Cộng sản Trung Quốc và bổ sung chủ nghĩa tam dân thêm ba nội dung mới: liên minh với Liên Xô, liên minh với Đảng Cộng sản, dựa vào công nông. Tháng 3-1923, ông đã thành lập chính phủ cách mạng ở Quảng Đông và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Trong khi phong trào cách mạng đang sôi nổi, lên cao thì Tôn Trung Sơn mắc bệnh, từ trần(12/3/1925). Cái chết của ông là một tổn thất lớn cho phong trào cách mạng Trung Quốc lúc đó.
Lương Khải Siêu (1873 - 1929)
Lương Khải Siêu - học giả, nhà cải lương nổi tiếng, người gắn bó với Khang Hữu Vi trong phong trào Duy Tân ở Trung Quốc.
Lương Khải Siêu xuất thân trong một gia đình địa chủ ở Quảng Đông. Thời trẻ, ông theo học Khang Hữu Vi và là người học trò tâm đắc suốt đời cùng chung lí tưởng với thầy dạy của mình. Năm 1895, sau khi đỗ cử nhân, ông lên Bắc Kinh dự thi và đã kí vào đơn của Khang Hữu Vi đệ lên hoàng đế Quang Tự yêu cầu cải cách. Trong phong trào Duy Tân, ông là cánh tay đắc lực của Khang Hữu Vi, vận động tuyên truyền tư tưởng Duy Tân. Ông đã tham gia Cường học hội của Khang Hữu Vi và viết nhiều bài báo giới thiệu nền chính trị dân chủ và thành tựu khoa học của Phương Tây, cổ động cho cuộc cải cách ở Trung Quốc. Sau cuộc cải cách Duy Tân của vua Quang Tự thất bại (1898), ông trốn sang Nhật Bản.
Năm 1902, ông trở về nước, sáng lập tờ Tân dân tùng báo tiếp tục cổ động tư tưởng cải cách. Tờ báo này đối lập với tờ Dân báo của Tôn Trung Sơn tuyên truyền tư tưởng cách mạng. Sau khi nhà Thanh sụp đổ, ông tham gia chính phủ quân phiệt Bắc Kinh với tư cách là đại diện cho Đảng Tiến bộ do ông thành lập năm 1913. Vào cuối đời, ông dạy học ở trường Đại học Thanh Hoa Bắc Kinh.
Lương Khải Siêu còn là một học giả uyên bác. Ông viết nhiều tác phẩm về chính trị, kinh tế, triết học, ngôn ngữ, lịch sử và văn hóa nghệ thuật. Đặc biệt ông là người tích cực vận động dùng văn bạch thoại dễ hiểu, đơn giản trong văn thơ thay thế văn chương khó hiểu, rườm rà cổ xưa.
Khang Hữu Vi (1858 - 1927)
Khang Hữu Vi - học giả, chính khách có xu hướng cải lương, người đề xướng phong trào Duy Tân năm 1898 ở Trung Quốc.
Khang Hữu Vi xuất thân trong một gia đình địa chủ quan liêu ở tỉnh Quảng Đông. Tuy chịu sự giáo dục của Nho học, nhưng rất hâm mộ những thành tựu của nền văn hóa, khoa học, kỹ thuật và chế độ dân chủ tư sản phương Tây. Ông cho rằng chỉ có cải cách đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa với thể chế quân chủ lập hiến như ở Anh thì mới cứu Trung Quốc khỏi nguy cơ thuộc địa.
Năm 1888, ông lên Bắc Kinh dự thi và viết một bức thư dâng lên Hoàng đế Quang Tự yêu cầu cải cách, nhưng thư không đến được tay vua, ông còn bị gạt ra khỏi danh sách trúng cử. Năm 1895, ông lại lên Bắc Kinh dự thi lần thứ hai. Lần này, ông đã vận động được 1300 cử nhân cùng ông viết bức thư tuy cũng không đến được tay vua, nhưng đã gây một tiếng vang lớn trong giới trí thức và quan lại tiến bộ. Ông còn thành lập tổ chức Cường học hội và xuất bản báo chí để tuyên truyền cổ động cho cải cách. Lần này ông đỗ tiến sĩ và được bổ nhiệm làm quan trong triều, điều kiện thuận lợi cho ông tiến hành cuộc vận động cải cách.
Vua Quang Tự 28 tuổi, đang có nhiệt tình và đầy tham vọng. Nhà vua muốn dựa vào phái cải cách làm một cuộc duy tân để thay đổi xã hội Trung Quốc, đồng thời thay đổi luôn cả địa vị lệ thuộc của mình vào Từ Hi thái hậu. Năm 1898, sau nhiều lần bàn bạc với Khang Hữu Vi, vua Quang Tự đã ban bố một loạt pháp lệnh cải cách về các mặt kinh tế, chính trị, quân sự và văn hóa - giáo dục (lịch sử gọi là biến pháp Mậu Tuất). Những biện pháp cải cách trên có ý nghĩa tiến bộ rất lớn nhằm chuyển biến Trung Quốc từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa. Động chạm tới quyền lợi của đa số quan lại phong kiến, cho nên bọn họ đã tập hợp xung quanh Từ Hi thái hậu, chống phá phong trào Duy Tân. Từ Hi thái hậu đã tổ chức tiến hành chính biến, bắt giam vua Quang Tự và truy nã phái Duy Tân. Khang Hữu Vi trốn thoát và nhờ sứ quán Anh đưa ra nước ngoài. Khang Hữu Vi tuy thất bại trong cuộc Duy Tân năm 1898, nhưng vẫn không từ bỏ con đường cải lương, vẫn chủ trương bảo tồn nên quân chủ và phản đối chính thể cộng hòa khi cách mạng Tân Hợi 1911 nổ ra.
Hồng tú Toàn (1813 - 1864)
(chưa có ảnh)
Hồng Tú Toàn - lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân Thái Bình thiên quốc ở Trung Quốc.
Hồng Tú Toàn xuất thân trong một gia đình trung nông ở Quảng Đông. Khi còn nhỏ, học rất thông minh; sau gia đình gặp khó khăn, ông phải nghỉ học ở nhà giúp đỡ gia đình và trở thành thầy đồ dạy trẻ. Ông mấy lần đi thi nhưng không đỗ. Một lần, tình cờ đọc cuốn Lời lành răn đời của Hội Truyền bá đạo Kitô xuất bản ở Quảng Châu, đang sẵn có tâm lý bất mãn với chế độ khoa cử, căm thù sự hủ bại của triều đình Mãn Thanh và thông cảm với nỗi thống khổ của nhân dân, ông đã quyết tâm lấy chủ nghĩa bình đẳng của đạo Kitô làm gốc, sáng lập ra đạo "Bái Thượng đế" để tập hợp nhân dân chống lại chính quyền Mãn Thanh.
Năm 1844, ông đi truyền đạo và năm 1850, phát động khởi nghĩa vùng núi tỉnh Quảng Tây. Sau khi giành được một số thắng lợi, ông tuyến bố thành lập chính quyền mới gọi là Thái bình thiên quốc, tự xưng là Thiên vương và phân phong cho các tướng lĩnh. Tháng 3-1853, quân Thái Bình chiếm được Nam Kinh, đặt làm kinh đô của Thái Bình thiên quốc và đổi tên là Thiên kinh. Ngoài việc tiến hành Bắc phạt và Tây chinh nhằm lật đổ triều đình Mãn Thanh, Hồng Tú Toàn còn ban bố Chế độ ruộng đất thiên triều và nhiều chính sách cải cách chính trị, xã hội tiến bộ khác. Nhưng Thái Bình thiên quốc đã không xây dựng những căn cứ vững chắc trong những vùng mình chiếm đóng. Bộ phận lãnh đạo phạm vào nhiều sai lầm về chính trị và quân sự. Năm 1856, Hồng Tú Toàn thủ tiêu một số tướng tá có thế lực của Thái bình thiên quốc (trong đó có Dương Tú Thanh, một viên tướng tài giỏi, thành phần cố nông) không ăn cánh với mình, làm cho lực lượng cách mạng giảm sút đi nhiều.Các nước tư bản phương Tây (Anh, Pháp, Mỹ) lợi dụng sự rối ren của đất nước Trung Quốc, trước hết dùng vũ lực buộc triều đình Mãn Thanh khuất phục (Cuộc chiến tranh thuốc phiện lần thứ 2 1857 - 1860), sau đó tích cực giúp đỡ triều đình Mãn Thanh và bọn địa chủ quan liêu vũ trang tấn công Thái bình thiên quốc. Năm 1864, Thiên Kinh bị quân đội Mãn Thanh và đội vũ trang của bọn địa chủ quan liêu bao vây chặt. Quân đội và tàu chiến của Anh, Pháp, Mỹ cũng tham gia tấn công.Nghĩa quân và nhân dân trong thành chiến đấu dũng cảm. Khi thành Thiên Kinh sắp thất thủ, Hồng Tú Toàn đã tự vẫn (1-6-1864).
TiÕt 04+05. Bài 4
CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á
(Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX)
1. Kiểm tra bài cũ:
+ Câu 1: Nêu nhận xét của em về phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc từ giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX.
+ Câu 2: Nêu kết quả của cách mạng Tân Hợi. Vì sao cuộc cách mạng này là cuộc cách mạng tư sản không triệt để?
2. Vào bài mới: Trong khi Ấn Độ, Trung Quốc lần lượt trở thành những nước thuộc địa và nửa thuộc địa thì các quốc gia ở Đông Nam Á nằm giữa hai tiểu lục địa này cũng lần lượt rơi vào ách thông trị của chủ nghĩa thực dân - trừ Xiêm (Thái Lan). Để hiểu được quá trình chủ nghĩa thực dân xâm lược của nước ĐNÁ và phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân của nhân dân các nước nµy, chúng ta cùng tìm hiểu bài các nước Đông Nam Á (cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX).
Tæng quan vÒ ®«ng nam Á
Đông Nam Á là một
File đính kèm:
- giao_an_mon_lich_su_lop_11_bai_1_18.doc