Giáo án Ngữ văn 10 cơ bản tiết 113- Trao duyên (trích “truyện kiều”)

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC

 

Giúp HS:

1. Cảm nhận được tình yêu và nỗi đau khổ của Thúy Kiều trong đêm “Trao duyên”

2. Thấy được tài nghệ tuyệt vời của Nguyễn Du trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật.

 

B. PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN

 

- SGK, SGV

- Thiết kế bài học

 

C. CÁCH THỨC TIẾN HÀNH

 

GV có thể tổ chức giờ dạy học theo cách: cho HS đọc, gợi tìm; kết hợp tìm các hình thức trao đổi thảo luận, trả lời các câu hỏi.

 

D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

 

doc4 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2734 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án Ngữ văn 10 cơ bản tiết 113- Trao duyên (trích “truyện kiều”), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRAO DUYÊN (Trích “Truyện Kiều”) Nguyễn Du MỤC TIÊU BÀI HỌC Giúp HS: Cảm nhận được tình yêu và nỗi đau khổ của Thúy Kiều trong đêm “Trao duyên” Thấy được tài nghệ tuyệt vời của Nguyễn Du trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. B. PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN - SGK, SGV - Thiết kế bài học CÁCH THỨC TIẾN HÀNH GV có thể tổ chức giờ dạy học theo cách: cho HS đọc, gợi tìm; kết hợp tìm các hình thức trao đổi thảo luận, trả lời các câu hỏi. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC Hoạt động của GV và HS Yêu cầu cần đạt 1. Tiểu dẫn (HS đọc SGK) - Phần tiểu dẫn trình bày nội dung gì? 2. Đọan trích (HS đọc SGK) - Giải thích từ khó. - Xác định bố cục và nội dung mỗi đọan nói gì? - Xác định đại ý đọan trích II. Đọc – hiểu 1. Trao duyên là chuyện tế nhị, khó nói. Kiều đã nói và làm như thế nào để Thúy Vân chấp nhận? Hãy phân tích. - Em có suy nghĩ như thế nào về lời lẽ của Thúy Kiều? - Em có suy nghĩ gì về cử chỉ này? - Ngoài lời nói và cử chỉ, trong trao duyên Kiều còn nói những gì? - Em có suy nghĩ gì về lời lẽ ấy? 2. Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều sau khi trao duyên, ý thức của nàng về thân phận, về tình yêu? - Trao kỉ vật xong, Kiều cảm nhận gì về thân phận? - Kiều thể hiện tâm trạng như thế nào khi nghĩ về Kim Trọng? III. Củng cố Bài tập nâng cao Đoạn trích “Trao Duyên” thể hiện bi kịch cuả tình yêu. Hãy cho biết thực chất của bi kịch ở đây là gì? I. Tìm hiểu chung 1. Vị trí đọan trích. Sau đêm thề nguyện giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, Kim Trọng phải về gấp hộ tang chú ở Liễu Dương. Tai nạn ập đến nhà Kiều vì sự xưng xuất của thằng bán tơ. Cha, em bị đánh đập tàn nhẫn, của nả bị cướp sạch. Kiều buộc phải bán mình chuộc tội cho cha và em. Công việc nhà tạm ổn, nhưng mối tình của mình thì lỡ dở. Chỉ còn lại một đêm ở nhà, ngày mai phải đi theo Mã Giám Sinh. Thúy Kiều đã cậy nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng. Đọan trích từ câu 723 đến 756 trong tác phẩm “Truyện Kiều”. Tiêu đề do người biên sọan đặt. 2. Bố cục: hai đọan: + Đọan 1: 10 câu đầu: Thúy Kiều trao duyên, cậy nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng. + Đọan 2: Còn lại: Diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều sau khi trao duyên. Đó là lưu luyến những kỉ vật, với tình yêu của mình. Nàng coi hạnh phúc của mình đã chấm dứt, nàng càng đau đớn vì tình yêu tan vỡ, vì buộc phải phụ tình Kim Trọng. 3.Đại ý : Đọan trích miêu tả cách xử sự của Thúy Kiều khi cậy nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng. Đồng thời làm rõ diễn biến tâm trạng đầy đau khổ tuyệt vọng của Kiều khi tình yêu tan vỡ, buộc phụ tình với Kim Trọng. II. Đọc – hiểu 1.Kiều trao duyên - Đem tình yêu của mình trao cho người khác là một chuyện bất đắc dĩ. Trường hợp của Kiều không thể đành được, buộc nàng phải làm thế. Vả lại việc vợ chồng là chuyện hệ trọng cả một đời người. Không yêu sao có thể lấy chồng được. Trao duyên trong hòan cảnh của Thúy Kiều là chuyện tế nhị và khó nói. - Kiều đã xử sự như thế nào đã lựa chọn cách nói như thế nào để người em gái của mình chấp nhận lời thỉnh cầu. Ngay từ lời mở đầu Kiều đã lựa chọn lời lẽ thích hợp nhất: Cậy em, em có nhận lời - “Cậy” chứ không phải nhờ. “Cậy” là thể hiện niềm tin nhất, chỉ có em mới là người chị tin cậy nhất. Vì thế “cậy” có sức nặng của niềm tin hơn. “Chịu lời” chứ không phải nhận lời. “Chịu lời” buộc người mình tin phải nghe theo kghông thể từ chối. Nếu nói nhận lời thì người nghe có thể từ chối. - Trong lúc bối rối và đau khổ nhất, Kiều vẫn chọn những lời lẽ thuyết phục đứa em ruột của mình. Bởi vì những gì nàng sắp nói ra vô cùng hệ trọng với hạnh phúc của em mình. Kiều không chỉ lựa lời mà cử chỉ thông qua lời thoại “Ngồi lên đây chi lạy rồi sẽ thưa” - Tại phải lạy em? Làm thế có trái với đạo lí không? Kiều lạy là lạy đức hi sinh cao cả của Thúy Vân phải chấp nhận lấy người mình không được yêu, cụ thể “lấy người yêu chị làm chồng”. Hai câu mở đầu đọan trích, ta nhận ra dù trong hòan cảnh tan nát lòng Thúy Kiều vẫn bộc lộ sự đoan trang tế nhị. - Nàng có nói về mối tình của mình, hòan cảnh của mình: Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt nước, khi đêm chén thề Sự đâu sóng gió bất kì Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai Tình sau mà hiếu cũng nặng. Hòan cảnh này buộc Kiều phải lực chọn. Lẽ tất nhiên Kiều phải hi sinh tình yêu để làm tròn chữ Hiếu. Cách nói này của Thúy Kiều cốt để Thúy Vân thấy được sự hi sinh của Kiều mà thương lấy nàng. Đến đây Kiều có thể nói được những điều muốn nói: Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Điều muốn trao gửi, Kiều đã nói được rồi. Sau phút ấy tâm trạng của Kiều ra sao, ta đọc - hiểu tiếp. 2.Tâm trạng của Thúy Kiều sau khi trao duyên - Trao duyên cho Thúy Vân, Thúy Kiều trao kỉ vật: Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung + Bức tờ mây ® tờ giấy có trang trí hình mây, ghi lời thề chung thủy của Kim – Kiều. + Chiếc vành còn gọi là xuyến bằng vàng, đồ trang sức của phụ nữ. Kim Trọng đã trao cho Thúy Kiều để làm tin. Đó là những kỉ vật. Một tiếng “giữ” không có nghĩa là “trao” hẳn mà chỉ để cho em giữ. Nhưng tiếng “chung” mới thật xót xa. Bởi đáng lẽ kỉ vật này là của riêng nàng mới đùng sao lại là của chung. Không đành được, Kiều phải trao lại cho em. Thế mới biết tình yêu Kim – Kiều nồng nàn tới mức độ nào. Kiều vẫn trao duyên cho em chứng tỏ trong tình yêu và vì tình yêu, Kiều đã đặt hạnh phúc của người yêu lên trên hết. - Có người cho rằng khi trao kỉ vật, tâm trạng Thúy Kiều chứa đầy mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa hòan cảnh bắt buộc và nội tâm của Kiều. Nàng đã vượt qua mâu thuẫn ấy để nhận nỗi đau về mình. - Nàng coi như mình đã chết. Đó là cái chết của tâm hồn. Vì nàng ý thức hạnh phúc của mình là hết rồi, đã chấm dứt. Từ đây ngôn ngữ trong lời thoại của Kiều gợi ra cuộc sống ở cõi âm, đầy ma mị. Trông ra ngọn cỏ lá cây Thấy hiu hiu gió là hay chị về Hồn còn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai Dạ đài cách mặt khuất lời Rưới xin giọt nước cho người thác oan Những từ ngữ và hình ảnh: cách mặt khuất lời, dạ đài, người thác oan, hồn, nát thân bồ liễu, hiu hiu gió là hay chị về, … Nàng đã ý thức được thân phận của mình. Lời của Kiều là lời của một oan hồn. Tâm trạng của nàng đau đớn đến tột cùng. Nàng đã tự khóc cho mình. Đó là tiếng khóc cho thân phận. - Nàng quên hẳn người ngồi trước mặt mình là Thúy Vân, Kiều tâm sự với chàng Kim: “Bây giờ trâm gãy binh tan Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy hoa vôi lỡ làng Oái! Kim lang hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây Từ đau khổ, lời thơ chuyển thành tiếng khóc. Nỗi đau cứ tăng lên mãi, đau cho “tơ duyên ngắn ngủi”, đau cho “phận bạc”, đau cho một đời “hoa trôi lỡ làng” và cuối cùng tiếng khóc ấy nức nở tự cho mình là người phụ bạc với người yêu. Trao duyên là âm hưởng mở đầu cho cung đàn bạc mệnh, đau đớn của Thúy Kiều. - Đọan trích bộc lộ phẩm chất cao quý của Thúy Kiều trong tình yêu. Tình yêu tan vỡ, nàng đã làm tất cả những gì cho hạnh phúc của người mình yêu. - Đọan trích cũng thể hiện nỗi đau đớn cực độ khi phải tự nguyện lìa bỏ mối tình đầu của mình. - Nghệ thuật của đọan trích thể hiện Nguyễn Du rất thấu hiểu về con người qua lời thoại thể hiện tâm trạng của Kiều. * Bi kịch của tình yêu trong đọan trích thể hiện: Khát vọng lớn lao của Kiều là xây dựng tình yêu và hạnh phúc vơiù Kim Trọng. Song thực tế xã hội phong kiến đã không để nàng thực hiện khát vọng ấy. Nó như một trở lực, một thế lực đè nặng lên khát vọng của nàng mà kéo xuống thành bi kịch, buộc nàng phải từ bỏ mối tình đầu. Vì thế cơ sở của bi kịch tình yêu ấy là sự hi sinh. Trong tác phẩm, Kiều đã hai lần hi sinh tình yêu của mình. Lần thứ nhất nàng chọn chữ “hiếu” “làm con quyết phải đền ơn sinh thành”. Lần thứ hai nàng cũng tự hi sinh để mang lại hạnh phúc cho người yêu. Sự hi sinh ấy làm cho nhân phẩm của Thúy Kiều càng thêm cao thượng. Mặt khác, ta nhận ra sự đau đớn xót xa của sự hi sinh. Nỗi mất mát nào chẳng mang đến sự thức tỉnh về hạnh phúc, quyền sống cá nhân con người. Từ đây, đọan trích “Trao Duyên” thể hiện sâu sắc tư tưởng nhân đạo của Đại thi hào Nguyễn Du.

File đính kèm:

  • doctiet87.doc