A. Mục tiêu bài học:
Giúp HS:
- Hiểu được ý thức cá nhân, ý thức nghệ sĩ của Tản Đà thể hiện qua cách nhà thơ hư cấu câu huyện hầu Trời.
- Thấy được những nét cách tân trong nghệ thuật thơ Tản Đà và mối quan hệ giữa chúng với quan niệm mới về nghề văn của ông.
B. Phương pháp và hình thức tiến hành tổ chức dạy học:
Khi hướng dẫn HS đọc hiểu, chỉ cần tập trung phân tích đoạn chữ in to ( từ câu 25 đến câu 98 ), còn các đoạn thơ khác chỉ đọc tham khảo. Với một số câu thơ, khổ thơ, HS chỉ cần nắm được đại ý của chúng là đủ, miễn sao cảm nhận được đúng hơi thở, giọng thơ chung.
C. Tiến trình tổ chức dạy học:
* Tổ chức kiểm tra bài cũ:
- Anh ( chị ) hãy trình bày ngắn gọn hoàn cảnh ra đời bài thơ Xuất dương lưu biệt ?
- Anh ( chị ) hãy đọc hai câu thơ mở đầu và hãy so sánh với những câu thơ nói về chí làm trai của các nhà nho thuở trước, tìm chỗ đồng điệu và khác biệt.
9 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 46945 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án Ngữ văn 11: Hầu trời Tản Đà, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hầu Trời
Tản Đà
A. Mục tiêu bài học:
Giúp HS:
- Hiểu được ý thức cá nhân, ý thức nghệ sĩ của Tản Đà thể hiện qua cách nhà thơ hư cấu câu huyện hầu Trời.
- Thấy được những nét cách tân trong nghệ thuật thơ Tản Đà và mối quan hệ giữa chúng với quan niệm mới về nghề văn của ông.
B. Phương pháp và hình thức tiến hành tổ chức dạy học:
Khi hướng dẫn HS đọc hiểu, chỉ cần tập trung phân tích đoạn chữ in to ( từ câu 25 đến câu 98 ), còn các đoạn thơ khác chỉ đọc tham khảo. Với một số câu thơ, khổ thơ, HS chỉ cần nắm được đại ý của chúng là đủ, miễn sao cảm nhận được đúng hơi thở, giọng thơ chung.
C. Tiến trình tổ chức dạy học:
* Tổ chức kiểm tra bài cũ:
- Anh ( chị ) hãy trình bày ngắn gọn hoàn cảnh ra đời bài thơ Xuất dương lưu biệt ?
- Anh ( chị ) hãy đọc hai câu thơ mở đầu và hãy so sánh với những câu thơ nói về chí làm trai của các nhà nho thuở trước, tìm chỗ đồng điệu và khác biệt.
* Tiến trình bài mới:
Đọc phần tiểu dẫn trong SGK và cho biết những nét chính về Tản Đà ?
Anh ( chị ) hãy nêu vị trí của Tản Đà trong văn học dân tộc ? Đồng thời, nêu lên sức hấp dẫn của thơ ông và kể tên những tác phẩm chính của ông ?
Bài thơ Hầu Trời được ra đời trong thời gian nào và được in trong tập nào ?
Anh ( chị ) hãy chô biết ý nghĩa nhan đề bài thơ ?
Anh ( chị ) có nhận xét gì về đề tài bài thơ ?
Anh ( chị ) hãy nêu chủ đề bài thơ ?
Bài thơ được viết theo thể loại gì ?
Anh ( chị ) có nhận xét gì về âm điệu của bài thơ ?
Bài thơ có thể chia làm mấy phần ? Hãy nêu nội dung chính của từng phần.
Anh ( chị ) hãy trình bày diễn biến câu chuyện hầu Trời ? Đồng thời, hãy nhận xét về diễn biến đó.
Anh ( chị ) hãy phân tích bốn câu thơ mở đầu bài thơ ? Từ đó, cho biết các vào chuyện hầu Trời của tác giả có gì đặc biệt ?
Tâm trạng của thi sĩ khi đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe có điều gì đặc biệt ? Qua đó, anh ( chị ) cảm nhận được điều gì về cá tính nhà thơ và về những niềm khao khát chân thành trong con người thi sĩ ? Trong buổi giao thời giữa văn học hiện đại, niềm khao khát ấy có ý nghĩa như thế nào ?
Trước tâm trạng của thi sĩ như vậy thì Trời và chư tiên đã có thái độ như thế nào ?
Cách xưng danh của tác giả có gì đặc biệt ? Anh ( chị ) hãy phân tích để thấy rõ sự đặc biệt đó. Hãy nêu một số trường hợp xưng danh khác trong văn học trung đại ?
Tác giả đã trình bày tình cảnh khốn khó của kẻ theo đuổi nghề văn và thực hành thiên lương ở hạ giới như thế nào ?
Nghệ thuật bài thơ có gì mới và hay ( chú ý về mặt thể loại, ngôn ngữ, cách biểu hiện cảm xúc,... ) ?
Anh ( chị ) hãy chốt lại nội dung chính của bài Hầu Trời ?
Cái mà người ta thường gọi là ngông của Tản Đà được thể hiện như thế nào trong bài thơ ? Hãy nêu những điểm gần gũi và khác biệt giữa cái ngông của Tản Đà với cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong Bài ca ngất ngưởng ?
I. Tiểu dẫn:
1. Tác giả:
- Tản Đà ( 1889 - 1939 ) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, người làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây ( nay là xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây ). Làng ông nằm ven sông Đà, gần núi Tản Viên. Nhà thơ đã lấy tên núi, tên sông đó ghép lại thành bút danh của mình.
- Ông sinh ra trong buổi giao thời, Hán học đã tàn mà Tây học cũng mới manh nha, nên con người ông kể cả học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn người của hai thể kỉ.
- Ông xuất thân trong một gia đình quan lại phong kiến nhưng lại sống theo phương thức của lớp tiểu tư sản thành thị, học chữ Hán từ nhỏ nhưng lại sớm chuyển sang sáng tác bằng chữ quốc ngữ và rất ham học hỏi để tiến kịp thời đại. Vì vậy, ông là một con người hào hoa, phóng túng, không chịu khép mình trong khuôn khổ Nho giáo.
- Ông sáng tác văn chương chủ yếu theo những thể loại cũ nhưng nguồn cảm xúc lại rất mới mẻ.
- Tản Đà là nhà văn đầu tiên ở Việt Nam sống bằng nghề viết văn, làm báo.
- Cuộc đời ông vui ít, buồn nhiều, càng về cuối càng chật vật. Có điều đáng quý là trước sau Tản Đà vẫn giữ được mình trong sạch.
2. Sự nghiệp sáng tác:
- Ông viết thành công ở nhiều thể loại, nhưng làm nên một Tản Đà danh tiếng, trước hết là thơ.
- Tản Đà đặt cầu nối giữa hai thời đại văn học dân tộc: từ trung đại sang hiện đại.
- Thơ văn ông chinh phục độc giả bởi một điệu tâm hồn mới mẻ, với sự hiện diện của cái tôi lãng mạn bay bổng, vừa ngông nghênh phớt đời, vừa cảm thương ưu ái. Giữa lúc thơ phú nhà Nho tàn cuộc, Tản Đà có lối đi riêng - vừa tìm về với ngọn nguồn thơ ca dân gian, dân tộc, vừa có những nét sáng tạo độc đáo và tài hoa.
- Những tác phẩm chính: Còn chơi ( thơ, 1921 ), Giấc mộng lớn ( văn xuôi, 1928 ), Thiên thai ( tuồng ),...
3. Tác phẩm:
a. Giới thiệu bài thơ:
Bài thơ ra đời vào đầu những năm 20 của thể kỉ XX và được in trong tập Còn chơi ( 1921 ) của Tản Đà. Bài thơ thể hiện những dấu hiệu mới về hình thức trong thơ của tác giả.
b. Nhan đề bài thơ:
Bài thơ có nhan đề mới nghe qua có vẻ lạ, nhưng nếu biết tác giả là thi sĩ Tản Đà thì ta có thể hiểu được vì sao lại có cái nhan đề Hầu Trời ấy. Qua nhan đề Hầu Trời, dường như tác giả muốn thể hiện khát vọng muốn khẳng định chính mình giữa cuộc đời, và thể hiện cái ngông của mình.
c. Đề tài bài thơ:
Ở lớp 8, chúng ta được học bài thơ Muốn làm thằng cuội thì bài Hầu Trời này có thể xem là một sự tiếp nối cái mạch thơ lên Thiên đình, Tiên giới với cảm hứng lãng mạn bay bổng của cái tôi ngông nghênh, phóng túng, in đậm cá tính của Tản Đà.
Như vậy, đây là đề tài quen thuộc trong văn học trung đại, nhưng Tản Đà muốn mượn đề tài quen thuộc để thể hiện ý tưởng mới mẻ. Yếu tố mới là thể hiện cái tôi cá nhân đầy bản lĩnh và tự tin của nhà thơ. Phải chăng, hiện thực không cho phép tài năng của ông được thể hiện và ông không tìm được tri âm tri kỉ giữa chốn văn chương hạ giới rẻ như bèo nên khiến ông phải tìm lên Thiên đình để có thể được thỏa nguyện ước mong của mình.
d. Chủ đề bài thơ:
Bài thơ đã trình bày lí do cùng thời điểm lên đọc thơ hầu Trời để bộc lộ cái tôi tài hoa, phóng túng và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời. Đồng thời, nhà thơ cũng trần tình cảnh khốn khó của kẻ theo đuổi nghề văn và thực hành thiên lương ở hạ giới, cùng phút lưu luyến tiễn biệt khi trở về.
e. Thể loại bài thơ:
Bài thơ viết theo thể Thất ngôn trường thiên, rất phù hợp với cảm xúc phóng túng, tự do.
f. Âm điệu bài thơ:
Âm điệu của bài thơ cũng có sự chuyển biến linh hoạt. Âm điệu gắn liền với mạch truyện:
- Vui, hào hứng và sôi nổi ( đoạn một và hai ).
- Sự xót xa có xen vào chút an ủi của Trời ( đoạn ba ).
- Ngậm ngùi, tiếc nuối ( đoạn bốn ).
II. Bố cục văn bản:
Bài thơ có thể chia làm 4 phần:
- Đoạn 1 ( từ đầu Ò Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy ): lí do cùng thời điểm được gọi lên hầu Trời.
- Đoạn 2 ( tiếp theo Ò Đày xuống hạ giới vì tội ngông ): cuộc đọc thơ đầy đắc ý cho Trời và chư tiên nghe giữa chốn thiên đình; và việc xưng danh của tác giả.
- Đoạn 3 (tiếp theo Ò Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết ): trần tình với Trời về tình cảnh khốn khó của kẻ theo đuổi nghề văn và thực hành thiên lương ở hạ giới.
- Đoạn 4 ( còn lại ): cuộc chia tay đầy xúc động với Trời và chư tiên.
Ò Bài thơ có bố cục rất mạch lạc và rõ ràng. Mạch chính là kể chuyện theo trình tự thời gian, giúp người đọc dễ theo dõi. Xen vào kể chuyện là những chi tiết được hư cấu, tưởng tượng kích thích người đọc, người nghe.
III. Đọc hiểu văn bản:
1. Diễn biến câu chuyện hầu Trời:
Diễn biến câu chuyện hầu Trời được sắp xếp một cách rất logic:
- Nằm một mình Ò buồn Ò đun nước uống Ò ngâm văn Ò đi lại chơi trăng.
- Tiên xuống Ò nêu lí do Ò đưa lên Trời.
- Được đón tiếp trọng vọng Ò được mời đọc thơ Ò chư tiên xúm vào ca ngợi, tán thưởng Ò Trời truyền hỏi danh tính.
- Kể tình cảnh và bày tỏ nỗi lòng Ò Trời đả thông tư tưởng Ò Trời sai đóng xe đưa về Ò lạy tạ ra về.
Ò Chuyện như bịa đặt hoàn toàn mà như thật, lại rất vui, rất lạ và rất hóm hỉnh. Đó chính là nét mới trong nghệ thuật cấu tứ bài thơ dài của tác giả. Việc hư cấu nên cả một câu chuyện trong bài thơ này có ý nghĩa cách tân nhất định. Nó như muốn đưa thơ trữ tình dần thoát khỏi nhiệm vụ tỏ chí nghiêm trang, khắc khổ để tiện giãi bày cảm xúc phóng khoáng của con người cá nhân và xây dựng một quan hệ giao tiếp mới đối với độc giả thành thị khi đó.
2. Cách vào chuyện của tác giả:
- Ai cũng biết câu chuyện lên thiên đình hầu Trời của tác giả là câu chuyện hoàn toàn hư cấu, không có thực. Nhưng ngay khổ thơ mở đầu, tác giả đã tạo ra cho người đọc thấy đây là một câu chuyện có thật với một nghệ thuật độc đáo.
- Câu thơ mở đầu tiên đã tạo ra một không khí nửa hư nửa thực để gây được ở người đọc một mối nghi vấn nhằm gợi trí tò mò:
Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chuyện có vẻ như mộng mơ, như bịa đặt, chẳng biết có hay không, nhưng dường như lại là thật, thật hoàn toàn bởi tác giả đã bồi đắp ba câu thơ bằng những lời khẳng định chắc như đinh đóng cột, nhắc đi nhắc lại bốn lần chữ thật với nhịp thơ dồn dập ngăn cách bằng những dấu cảm thán như để củng cố thêm niềm tin:
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn ! Thật phách ! Thật thân thể !
Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.
Như vậy, ba câu thơ dường như muốn nói không còn điều gì phải nghi ngờ nữa. Cái bàng hoàng vì lạ lùng, đột ngột bị át đi bởi cái sướng lạ lùng vì được lên Trời, gặp tiên.
Ò Cảm giác đó làm cho câu chuyện mà tác giả sẽ kể sẽ trở nên có sức hấp dẫn đặc biệt, không ai có thể bỏ qua. Tác giả đã kết hợp kể và bình giá để tăng sự cuốn hút. Như vậy, cách vào chuyện thật độc đáo và có duyên, tạo được sự tò mò, chú ý cuốn hút người đọc về câu chuyện lên tiên của mình.
- Xuân Diệu đã có lời bình khổ thơ đầu này thật tinh tế: Vào đột ngột câu đầu, cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta.
3. Cảnh đọc thơ:
a. Tâm trạng của thi sĩ:
Cảnh đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe đã diễn ra khá sinh động pha chút hóm hỉnh thật thú vị qua lời kể của tác giả:
- Thi sĩ đọc rất nhiệt tình, cao hứng và có phần tự hào, tự đắc vì thơ văn của chính mình:
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.
rồi thi sĩ lại tự khen mình:
Văn dài hơi tốt ran cùng mây !
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.
...
Văn đã giàu thay, lại lắm lối
Trời nghe Trời cũng bật buồn cười !
Ò Tác giả đã tưởng tượng cảnh chính mình đọc thơ cho những đối tượng đặc biệt ( là Trời và chư tiên ) nghe. Qua đó, tác giả đã vẽ lại chính tâm hồn và tư cách nghệ sĩ của chính mình trước bạn đọc. Nhà thơ chỉ cao hứng như thế khi gặp được người hiểu và thông cảm ( là Trời ) mà thôi. Ở hạ giới đâu dễ tìm được người tri âm như vậy !
- Tác giả có nhu cầu muốn đọc hết cho Trời và chư tiên nghe những tác phẩm văn chương - những đứa con tinh thần của mình. Bằng thủ pháp liệt kê, tác giả đã kể hết những tác phẩm văn chương của mình:
Bẩm con không dám man cửa Trời
Những áng văn con in cả rồi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến quyển Lên tám nay là mười
Ở đây, Tản Đà rất ý thức về tài năng của mình và ông cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ bản ngã cái tôi của mình. Ông cũng rất ngông khi tìm đến tận Trời để khẳng định tài năng của mình trước Ngọc Hoàng và chư tiên. Đây cũng là niềm khao khát chân thành trong tâm hồn thi sĩ. Phải chăng, giữa chốn văn chương hạ giới rẻ như bèo, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, khinh bỉ, ông không tìm được tri âm tri kỉ nên phải lên tận cõi tiên mới có thể thỏa nguyện.
b. Thái độ của Trời và chư tiên:
- Trời khen nhiệt tình và đánh giá rất cao thơ văn thi sĩ:
Trời lại phê cho: “ Văn thật tuyệt !
Văn trần được thế chắc có ít !
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng !
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển !
Êm như gió thoảng, tinh như sương !
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết !
Thái độ cảm xúc, tình cảm của Trời là vừa khâm phục, vừa thích thú, như hòa cùng dòng cảm xúc trong văn thơ của tác giả. Những câu thơ đó như đã cực tả niềm tự hào, tự nhận thức của nhà thơ về tài năng sáng tạo nghệ thuật của mình.
Có lẽ, trước Tản Đà ít ai nói trắng ra cái hay, cái tuyệt của văn thơ mình như vậy, hơn nữa, lại nói trước mặt Trời ( một ông Trời cũng khá bình dân ). Ở đây, ý thức cá nhân ở nhà thơ đã phát triển rất cao và Tản Đà không hề vô lối khi tự khen mình, mà để cho Trời khen thì cũng là một hình thức tự khen, vì có ai kiểm chứng được lời nói của Trời đâu.
Nhà thơ đã thấy được cái tài, cái giàu, lắm lối là phẩm hạnh đặc thù của văn thời mình, bên cạnh những phẩm hạnh mang tính chất truyền thống như nhời văn chuốt đẹp, khí văn hùng mạnh, êm, tinh,... Tình huống hầu Trời đã làm cho nhà thơ có một cơ hội tuyệt vời để phô bày một cách sảng khoái tài năng của bản thân.
Ò Lời khen của Trời hẳn là sự thẩm định có sức thuyết phục nhất, không thể bác bỏ hay nghi ngờ. Đây đúng là một lối tự khẳng định rất ngông của vị trích tiên.
- Chư tiên nghe thơ rất xúc động, tán thưởng và hâm mộ ( thể hiện qua thái độ của ngôi sao Tâm, Cơ, của Hằng Nga, Song Thành, Tiểu Ngọc; và đặc biệt là câu thơ thật hóm hỉnh của Tản Đà khi ông đề cao thơ của mình ):
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong một bài cùng vỗ tay
...
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
“ Anh gánh lên đây bán chợ Trời ! ”
Những phản ứng về mặt tâm lí của các nhân vật ( sao Tâm, sao Cơ, Hằng Nga, Song Thành, Tiểu Ngọc ) được đan xen vào nhau một cách linh hoạt làm cho buổi nghe thơ trở nên sôi nổi, hào hứng. Người đọc thơ hay mà tâm thế người nghe cũng cảm thấy hay. Điều này làm cho người đọc, người nghe bài thơ này có cảm tưởng mình đang tham gia thực sự vào câu chuyện. Trong phút đồng tâm cũng thấy đắc ý, sướng lạ lùng.
Ò Như vậy, Tản Đà muốn khẳng định giá trị văn chương của mình. Ông muốn văn chương của mình được nhiều người yêu thích, biết đến và trân trọng.
c. Cách xưng danh của tác giả:
- Tác giả đã tâu trình rõ ràng về họ tên, xuất xứ của mình cho Trời nghe. Việc xưng danh của Tản Đà đã diễn ra khá tự nhiên, phù hợp với mạch truyện và mang dấu ấn Tản Đà trong cung cách xưng danh vẫn thể hiện khá rõ:
“ Dạ bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về Địa Cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt ”.
Tác giả đã tách tên, họ theo một kiểu công khai lí lịch rất hiện đại, lại còn nói rõ bản quán, quốc tịch, châu lục, tên của hành tinh,...
- Có một nụ cười hóm hỉnh ẩn đằng sau vẻ thật thà, thành khẩn trước đấng trí tôn, nhưng điều đáng nói hơn hết vẫn là ý thức cá nhân, ý thức dân tộc của nhà thơ. Một cái tên thật chứ không phải tự hay hiệu, được nói ra trịnh trọng đến vậy thì hẳn là nhà thơ phải thấy có một giá trị không thể phủ nhận gắn liền với nó.
Hơn nữa, ông còn muốn Trời thấy được Nguyễn Khắc Hiếu chính là con người của Á châu, của xứ sở có một nền văn minh tinh thần cao quý, đáng tự hào. Tác giả còn kiêu hãnh khi khai mình là đứa con đích thực của sông Đà núi Tản nước Nam Việt. Đồng thời qua đó, tác giả đã ngầm cho biết lai lịch của bút hiệu Tản Đà - một điều đã từng được ông thể hiện trong nhiều bài thơ khác.
Ò Cách nói của nhà thơ không chỉ là cách nói của ý thức cá nhân, của cái ngông mà còn chứa đựng một thái độ tự tôn dân tộc, một tình cảm yêu nước đáng quý.
- Những trường hợp xưng danh trong thơ thời văn học trung đại:
+ Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
( Mời trầu - Hồ Xuân Hương )
+ Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ nhân hà khấp Tố Như.
( Đọc Tiểu Thanh kí - Nguyễn Du )
+ Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
( Bài ca ngất ngưởng - Nguyễn Công Trứ )
4. Tình cảnh khốn khó của kẻ theo đuổi nghề văn và thực hành thiên lương ở hạ giới:
- Tản Đà nói đến nhiệm vụ truyền bá thiên lương mà Trời giao cho. Điều đó đã chứng tỏ Tản Đà lãng mạn, nhưng không hoàn toàn thoát li cuộc đời. Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm với đời và khao khát được gánh vác việc đời. Đó cũng là một cách để tự khẳng định chính mình trước cuộc đời:
Trời rằng: “ Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
là việc “ thiên lương ” của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay ”.
- Tản Đã đã phản ánh rất chân thực và cảm động về cuộc sống của mình cũng như tầng lớp văn nghệ sĩ đương thời:
Bẩm Trời cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Tản Đà không chỉ muốn thoát li cuộc đời bằng những cuộc mơ ước lên trăng, lên tiên. Ông vẫn sống và viết cho đến chết giữa cuộc đời nghèo khổ. Những lời giãi bày chân thật với Trời về hoàn cảnh sống của ông dưới trần là hoàn toàn chân thực. Tản Đà vẫn muốn giúp đời, cứu người.
Ò Tất cả họ đều bị rơi vào cảnh nghèo khó, túng quẫn, sức khỏe yếu, sinh kế khó khăn, tuổi già mà vẫn chưa làm được gì cho đời. Tản Đà tài năng là thế, ý thức về trách nhiệm sâu sắc là thế, song xã hội thực dân nửa phong kiến đã cướp đi của ông tất cả: không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, bị o ép nhiều chiều,... Qua đó, nhà thơ còn lên án xã hội bất công đã đẩy họ vào những tình huống bi đát nhất:
- Trong bài thơ, Tản Đà không trực tiếp phát biểu quan niệm của mình về văn và nghề văn. Tuy vậy, ẩn sau câu chữ, ta vẫn thấy một sự hình dung khác trước về hoạt động tinh thần đặc biệt này.
+ Dường như Tản Đà đã ý thức được sự cần thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải trường vốn để theo đuổi nó dài dài:
Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó.
+ Trong mắt Tản Đà, văn chương lúc này là một nghề kiếm sống mới, có người bán, kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường cũng hết sức phức tạp, không dễ chiều:
Giấy người mực người thuê người in
Mướn cửa hàng người bán phường phố.
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó.
Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng
+ Tản Đà cũng chớm nhận ra: đa dạng về thể loại là một đòi hỏi thiết yếu của hoạt động sáng tác và với những sáng tác mới thì tiêu chí đánh giá tất nhiên là phải khác xưa.
- Cuối cùng, Trời cũng thấu hiểu nỗi lòng của Tản Đà và đã có những lời an ủi, động viên thi sĩ:
Rằng: “ Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết ! ”
Lời thơ thể hiện tâm sự khao khát được đồng cảm của nhà thơ, đó cũng là bản lĩnh của Tản Đà trước hiện thực cuộc sống. Lời dặn của Trời: Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết ! như một lời khẳng định sự chấp nhận gian khổ và nghĩa vụ của người nghệ sĩ chân chính về con đường và sự nghiệp văn chương mà họ đã lựa chọn ( trong đó có Tản Đà ).
5. Nghệ thuật đặc sắc:
- Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, không bị ràng buộc bởi khuôn mẫu kết cấu nào, nguồn cảm xúc được bộc lộ một cách thoải mái, tự nhiên và phóng túng.
- Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm và rất gần gũi với đời sống, không cách điệu, ước lệ.
- Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên và lôi cuốn người đọc. Lối kể chuyện đầy tính bình dân và giọng khôi hài trong bài thơ hoàn toàn thống nhất với nhau, hỗ trợ cho nhau. Lối kể ấy, nụ cười ấy đã làm nên nội dung trữ tình chính, giúp ta hiểu về con người tác giả hơn.
- Từ ngữ nôm na, bình dị, như lấy ở đời sống bình thường. Đặc biệt, dưới ngòi bút của tác giả, Trời và chư tiên không có một chút gì đạo mạo mà lại rất bình dân.
- Tác giả tự hiện diện trong bài thơ với tư cách người kể chuyện, đồng thời là nhân vật chính. Cảm xúc biểu hiện phóng túng, tự do, không hề gò ép.
- Nhà thơ đã sáng tạo ra một cuộc hầu Trời thật lí thú, ngộ nghĩnh mà như thật với khả năng tưởng tượng phong phú và dàn cảnh hợp lí.
Ò Tản Đà đã tìm được hướng đi đúng đắn của mình để tự khẳng định mình giữa lúc thơ phú nhà Nho đang đi dần tới dấu chấm hết.
IV. Ghi nhớ:
Qua câu chuyện hầu Trời, Tản Đà đã mạnh dạn thể hiện bản ngã cái tôi cá nhân - một cái tôi phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời.
V. Bài tập nâng cao:
- Trong bài Hầu Trời, cái ngông của Tản Đà có những biểu hiện nổi bật:
+ Tự cho mình văn hay đến mức Trời cũng phải tán thưởng.
+ Không thấy có ai đáng là kẻ tri âm tri kỉ với mình ngoài Trời và chư tiên.
+ Xem mình là một trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội ngông.
+ Nhận mình là người nhà Trời, được sai xuống hạ giới thực hiện một sứ mệnh cao cả ( thực hành thiên lương ).
+ Ngoài ra, việc nhà thơ bịa ra chuyện hầu Trời, nói như thể đó là chuyện thật đã hàm chứa một sự khiêu khích nhất định đối với cái nhìn thầy thành kiến về thang bậc giá trị của con người trong xã hội. Đó là chưa kể việc Tản Đà dám hình dung các đáng siêu nhiên như những đối tượng rất đỗi bình dân, thậm chí ngang hàng với mình.
- Tản Đà không phải trường hợp ngông cá biệt trong văn học Việt Nam. Trước ông, những người như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,... đều ngông. Tuy nhiên, cái ngông của Tản Đà vẫn có những điểm đặc thù do sự quy định của thời đại:
+ Cái ngông của Tản Đà có nhiều gặp lại cái ngông của Nguyễn Công Trứ ( thể hiện qua Bài ca ngất ngưởng ): ý thức rất cao về tài năng của bản thân, dám nói giọng bông lơn về những đối tượng như Trời, Tiên, Bụt,... dám phô bày toàn bộ con người vượt ngoài khuôn khổ của mình trước thiên hạ, như muốn giỡn mặt thiên hạ,...
+ Nói về sự khác biệt giữa hai người có thể thấy cái ngông ở Tản Đà là cái ngông của kẻ tuy không phải sống vô trách nhiệm với xã hội nhưng không còn xem vấn đề nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung ( Nguyễn Công Trứ ) là chuyện trọng nữa. Hơn nữa, cái tài mà Tản Đà muốn khoe về cơ bản là cái tài thuộc phạm trù văn chương. Rõ ràng ở đây nhà thơ đã rũ bỏ được khá nhiều gánh nặng trách nhiệm ( mà thông thường các nhà nho vẫn đặt trên vai mình ) để sống thoải mái hơn với cái tự do cá nhân mới mẻ mà thời đại đưa tới.
File đính kèm:
- Hau Troi Tan Da .doc