1. Tiểu dẫn
(HS đọc SGK)
Phần Tiểu dẫn trình bày về cuộc đời, sự nghiệp Lê Hữu Trác:
- Tác giả: sinh năm 1724 mất năm 1791. Quê ở làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trần Hải Dương nay thuộc huyện Yên Mĩ, Hưng Yên. Tên hiệu là Hải Thượng Lãn Ông (Ông già lười ở đất Thượng Hồng). Lười ở đây không phải đối lập với chăm chỉ mà là không nghĩ gì, lo tính gì về con đường danh vọng. Gia đình có truyền thống học hành thi cử, đỗ đạt làm quan. Cha đẻ là quan Hữu Thị Lang Bộ Công. Lê Hữu Trác là con thứ bảy nên còn có tên là Chiêu Bảy. Gần ba mươi tuổi Lê Hữu Trác về sống tại quê mẹ thuộc xứ Đầu Thượng, xã Tình Diễm, huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh.
- Lê Hữu Trác không chỉ chữa bệnh giỏi mà còn soạn sách, mở trường, truyền bá y học. Sự nghiệp của ông được tập hợp trong bộ Hải Thượng y Tông tâm lĩnh gồm 66 quyển biên soạn trong thời gian gần bốn mươi năm. Đây là tác phẩm y học xuất sắc nhất trong thời trung đại. Quyển cuối cùng trong bộ sách này là một tác phẩm văn học đặc sắc Thượng kinh ký sự. Thượng kinh ký sự đánh dấu sự phát triển của văn học Việt Nam thời trung đại. Tác giả ghi lại cảm nhận của mình bằng mắt thấy, tai nghe từ khi nhận được lệnh vào kinh chữa bệnh cho thế tử Cán ngày 12 tháng giêng năm Nhân Dần (1782), cho đến lúc xong việc về tới tại Hương Sơn ngày 2 tháng 11. Tổng cộng là 9 tháng 20 ngày. Tác phẩm mở đầu bằng cảnh sống ở Hương Sơn của một ẩn sĩ lánh đời. Bỗng có lệnh triệu vào kinh. Lãn Ông buộc phải lên đường. Từ đây mọi sự việc diễn ra theo thời gian và đè nặng lên tâm trạng của tác giả. Thượng kinh ký sự khẳng định Lê Hữu Trác còn là một nhà văn, nhà thơ
272 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 17121 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo án ngữ văn 11 nâng cao học kỳ 1 trọn bộ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiết 1 – 2
VÀO PHỦ CHÚA TRỊNH
(Trích thượng kinh ký sự)
Lê Hữu Trác
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
Cảm nhận được giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm cùng thái độ và tấm lòng của một danh y qua việc phản ánh cuộc sống, cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa Trịnh.
B. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP
1. Kiểm tra bài cũ:
2. Giới thiệu bài mới:
Hoạt động của GV và HS
Yêu cầu cần đạt
Hỏi: Trong phần Tiểu dẫn SGK trình bày những nội dung như thế nào?
Hỏi: Nêu đại ý đoạn trích.
Hỏi: Quang cảnh và cuộc sống đầy uy quyền của chúa Trịnh được miêu tả như thế nào?
Hỏi: Hãy nhận xét về nghệ thuật miêu tả của nhà văn?
Hỏi: Thái độ của tác giả bộ lộ như thế nào trước quang cảnh ở phủ chúa?
Hỏi: Em có nhận xét gì về thái độ ấy của Lê Hữu Trác?
Hỏi: Ngoài miêu tả quang cảnh nơi phủ chúa, đoạn trích còn thành công trên lĩnh vực nào?
Hỏi: Thế tử Cán được miêu tả như thế nào? Nơi ở ra sao?
Hỏi: Em có những nhận xét gì về những chi tiết miêu tả nơi ở của thế tử Cán?
Hỏi: Hình hài vóc dáng của thế tử Cán được miêu tả như thế nào?
Hỏi: Em có suy nghĩ gì về cách miêu tả này?
Hỏi: Thái độ của Lê Hữu Trác và phẩm chất của một thầy lang được thể hiện như thế nào khi khám bệnh cho thế tử Cán?
Em có suy nghĩ gì?
Hỏi: Theo anh (chị) bút pháp kí sự của tác giả đặc sắc như thế nào? Hãy phân tích những nét đặc sắc đó.
Hỏi: Anh (chị) hãy dựng lại hình tượng Lê Hữu Trác (tác giả) qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh.
I. Tìm hiểu chung
1. Tiểu dẫn
(HS đọc SGK)
Phần Tiểu dẫn trình bày về cuộc đời, sự nghiệp Lê Hữu Trác:
- Tác giả: sinh năm 1724 mất năm 1791. Quê ở làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trần Hải Dương nay thuộc huyện Yên Mĩ, Hưng Yên. Tên hiệu là Hải Thượng Lãn Ông (Ông già lười ở đất Thượng Hồng). Lười ở đây không phải đối lập với chăm chỉ mà là không nghĩ gì, lo tính gì về con đường danh vọng. Gia đình có truyền thống học hành thi cử, đỗ đạt làm quan. Cha đẻ là quan Hữu Thị Lang Bộ Công. Lê Hữu Trác là con thứ bảy nên còn có tên là Chiêu Bảy. Gần ba mươi tuổi Lê Hữu Trác về sống tại quê mẹ thuộc xứ Đầu Thượng, xã Tình Diễm, huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh.
- Lê Hữu Trác không chỉ chữa bệnh giỏi mà còn soạn sách, mở trường, truyền bá y học. Sự nghiệp của ông được tập hợp trong bộ Hải Thượng y Tông tâm lĩnh gồm 66 quyển biên soạn trong thời gian gần bốn mươi năm. Đây là tác phẩm y học xuất sắc nhất trong thời trung đại. Quyển cuối cùng trong bộ sách này là một tác phẩm văn học đặc sắc Thượng kinh ký sự. Thượng kinh ký sự đánh dấu sự phát triển của văn học Việt Nam thời trung đại. Tác giả ghi lại cảm nhận của mình bằng mắt thấy, tai nghe từ khi nhận được lệnh vào kinh chữa bệnh cho thế tử Cán ngày 12 tháng giêng năm Nhân Dần (1782), cho đến lúc xong việc về tới tại Hương Sơn ngày 2 tháng 11. Tổng cộng là 9 tháng 20 ngày. Tác phẩm mở đầu bằng cảnh sống ở Hương Sơn của một ẩn sĩ lánh đời. Bỗng có lệnh triệu vào kinh. Lãn Ông buộc phải lên đường. Từ đây mọi sự việc diễn ra theo thời gian và đè nặng lên tâm trạng của tác giả. Thượng kinh ký sự khẳng định Lê Hữu Trác còn là một nhà văn, nhà thơ.
2. Vị trí, đại ý đoạn trích
(HS đọc văn bản và chú thích)
a. Vị trí đoạn trích
Đến kinh đô, Lê Hữu Trác được sắp xếp ở nhà người em của Quận Huy - Hoàng Đình Bảo. Sau đó tác giả được đưa và phủ chúa Trịnh để khám bệnh cho thế tử Cán. Đoạn trích này bắt đầu từ đó.
b. Đại ý
Tác giả ghi lại một cách sinh động, chân thực cuộc sống xa hoa uy quyền của chúa Trịnh, đồng thời bộc lộ thái độ xem thường danh lợi và khẳng định y đức của mình.
II. Đọc - hiểu văn bản
1. Cảnh sống xa hoa đầy uy quyền của chúa Trịnh và thái độ của tác giả
- Bậc danh y tuổi cao, tài lớn đã nhìn thấy và ghi lại quang cảnh ở phủ chúa Trinh Sâm. Đó là cảnh cực kì xa hoa, tráng lệ và nổi lên quyền uy tột bậc của nhà chúa.
+ Vào phủ chúa phải qua nhiều lần cửa và “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”. “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đua thoang thoảng mùi hương,...”.
+ Trong khuôn viên phủ chúa “người giữ của truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”. Bầi thơ ghi lại cảm nhận của tác giả đã minh chứng cho cảnh sống xa hoa, uy quyền của phủ Chúa.
“Lính nghìn của vác đòng nghiêm ngặt
Cả trời Nam sang nhất là đây”
+ Nội dung được miêu tả gồm những chiếu gấm, màn là, sập vàn, ghế rồng, đèn sáng lấp lánh, hương hoa ngào ngạt, cung nhân xúm xít, mặt phấn áo đỏ,…
+ Ăn uống thì “Mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ”.
+ Về nghi thức: Lê Hữu Trác phải qua nhiều thủ tục mới được vào thăm bệnh cho thế tử. Nào là phải qua nhiều cửa, phải chờ đợi khi có lệnh mới được vào. “Muốn vào phải có thẻ”, vào đến nơi, người thầy thuốc Lê Hữu Trác phải “lạy bốn lạy”, khám bệnh xong đi ra cũng phải “lạy bốn lạy”. Tất cả những chi tiết trên cho người đọc nhận thấy phủ chúa Trịnh thật lộng lẫy, sang trọng, uy nghiêm.
- Đó là tài quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, nghệ thuật miêu tả cảnh sinh động. Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc. Đằng sau bức tranh thiên nhiên và những con người ấy chứa đựng, dồn nén bao tâm sự của tác giả.
- Tác giả không bộc lộ trực tiếp thái độ. Song ngòi bút sắc sảo, ghi lại những gì mắt thấy, tai nghe của tác giả, người đọc nhận ra thái độ của người cầm bút. Tác giả tỏ ra dửng dưng trước những quyến rũ của vật chất.
Thì ra tất cả những thứ sơn son thếp vàng, võng điều áo đỏ, sập vàng, gác tía, nhà cao cửa rộng, hương hoa thơm nức, đèn đuốc lấp lánh,… chỉ là phù phiếm, là hình thức che đậy những gì nhơ bẩn bên trong. Những thứ đó qua cái nhìn của một ông già áo vải, quê mùa tự nó phơi bày tất cả. Điều đó giúp ta khẳng định Lê Hữu Trác không thiết tha gì với danh lợi, với quyền quý cao sang. Ông khinh thường tất cả.
- Đó là sự thành công khi miêu tả con người. Từ quan truyền chỉ đến quan Chánh đường, từ người lính khiêng võng, cầm long đến các quan ngự y, từ những cô hầu gái đến các phi tần, mĩ nữ đều hiện lên rất rõ. Nhưng rõ nhất là thế tử Cán.
2. Thế tử cán và thái độ, con người Lê Hữu Trác
(HS đọc SGK)
- Lối vào chỗ ở của vị chúa nhỏ:
“Đi trong tối om, qua năm, sáu lần trướng gấm.”
a. Nơi thế tử ngự: đặt sập vàng, cắm nến to trên giá đồng, bày ghế đồng sơn son thếp vàng, nệm gấm. Ngót nghét chục người đứng hầu chực sau tấm màn che ngang sân, cung nữ xúm xít. Đèn chiếu sáng làm nổi bật màu phấn và màu áo đỏ, hương hoa ngào ngạt.
- Chỉ có một ấu chúa, thực chất chỉ là cậu bé lên 5 tuổi mà vây quanh bao nhiêu là vật dụng: Gấm vóc, lụa là, vàng ngọc. Tất cả bao chặt lấy một con người. Người thì đông nên đều im lặng nên không khí trở nên lạnh lẽo băng giá. Bao trùm lên các mùi phấn son tuy ngào ngạt nhưng thiếu sinh khí. Một cậu bé như Trịnh Cán rất cần ánh nắng, khí trời, vậy mà bị vây tròn, bọc kín trong cái tổ kén vàng son.
b. Hình hài vóc dáng
- Mặc áo đỏ ngồi trên sập vàng.
- Biết khen người giữ phép tắc “ông này lạy khéo”.
- Đứng dậy cởi áo thì “Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thì xanh, chân tay gầy gò.. nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức… mạch bị tế, sác… âm dương đều bị tổn hại”.
- Thế tử Cán được miêu tả bằng con mắt nhìn của một vị lang y giỏi bắt mạch, chuẩn bệnh. Tinh khí khô, da mặt khô, toàn những đường nét chết.
c. Thái độ của Lê Hữu Trác diễn biến rất phức tạp.
- Một mặt tác giả chỉ ra căn bệnh cụ thể, nguyên nhân của nó, một mặt ngầm phê phán : “Vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”.
- Ông rất hiểu căn bệnh của Trịnh Cán, đưa ra những cách chữa hợp lý, thuyết phục nhưng lại sợ chữa có hiệu quả ngay, chúa sẽ tin dùng, bị công danh trói buộc: “Nhưng sợ mình không ở lâu, nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được nữa”. Cuối cùng phẩm chất, lương tâm trung thực của người thầy thuốc đã thắng. Ông lấy việc trị bệnh cứu người làm mục đích chính, y đức ấy ai hơn.
3. Bút pháp ký sự đặc sắc của tác giả.
- Quan sát tỉ mỉ.
+ Quang cảnh phủ chúa.
+ Nơi thế tử Cán ở, cảnh vật dưới ngòi bút kí sự tự phơi ra.
- Ghi chép trung thực, giúp người đọc nhận được cảnh ấy có bàn tay bài trí của ưgiàu sang, quyền chức.
+ Từ việc ngồi chờ ở phòng chè đến bữa cơm sáng.
+ Từ việc xem bệnh cho thế tử Cán đến ghi đơn thuốc.
Tất cả không có một chút hư cấu, chỉ thấy hiện thực đời sống cứ được bóc tách dần từng mảnh. Người đọc không thể dừng lại ở bất cứ chỗ nào. Cách ghi chép cũng như tài năng quan sát đã tạo được sự tinh tế, sắc sảo ở một vài chi tiết, gây ấn tượng khó quên.
+ Việc thế tử Cán ngồi trên sập vàng chễm chệ ban một lời khen khi một cụ già quỳ dưới đất lạy bốn lạy “ông già lạy khéo”.
+ Khi đi vào nơi thế tử xem mạch, tác giả chủ ý cả chi tiết bên trong cái màn là nơi “Thánh thượng đang ngự” (chỉ chúa Trịnh Sâm) “có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít. Đèn sáp chiếu sáng làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”. Chi tiết này khẳng định việc ăn chơi hưởng lạc của nhà chúa tự nó phơi bày ra mồn một.
III. Củng cố
- Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh trích Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác vừa mang đậm giá trị hiện thực, vừa thể hiện tính trữ trình. Nó thể hiện sâu sắc vẻ đẹp nhân cách của một thầy thuốc giàu tài năng, mang bản lĩnh vô vi, thích sống gần gũi chan hoà với thiên nhiên, ghẻ lạnh với danh vọng, suốt đời chăm lo giữ gìn y đức của mình.
- Bằng tài năng quan sát sự vật, sự việc, cách kể hấp dẫn, Lê Hữu Trác đã góp phần thể hiện vao trò, tác dụng của thể kí đối với hiện thực đời sống.
IV. Bài tập nâng cao
- Trước quang cảnh đựoc chứng kiến trong phủ chúa, Lê Hữu Trác không bộc lộ trực tiếp thái độ, nhưng qua ngòi bút ghi chép, phần nào thấy được tình cảm thái độ của người viết.
+ Trước cảnh lộng lẫy, giàu sang, xa hoa tấp nập kẻ hầu người hạ, tác giả nhận xét: “Bước chân tới đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Tác giả cũng là người sinh ra từ hàng ngũ thi thư, lệnh tộc mà phải nói như vậythì chắc hẳn cảnh xa hoa, lộng lẫy, giàu sang ấy phải như thế nào và thái độ của tác giả ca ngợi, thán phục hay chê bai? Điều ấy thật khó xác định. Nếu đem cảnh ấy mà so sánh với cuộc sống của đám dân đen bên ngoài mới thấy thái độ của tác giả hẳn là sự phê phán.
+ Bài kí chứa đựng tất cả thái độ và cảm xúc của tác giả. Với gác vẽ, rèm châu, hiện ngọc, vườn ngự có hoa thơm, chim biết nói, nghìn tầng cửa lính gác nghiêm ngặt và lời khái quát : “Cả trời Nam sang nhất là đây!”… Tất cả cứ như phơi bày ra cuộc sống ở phủ chúa. Đằng sau những lời lẽ ấy, hẳn là thái độ phê phán kín đáo cái cuộc sống quá no, quá đủ, của vua chúa. Đồng thời thể hiện thái độ “Phú quý bất năng dâm” (Vật chất không thể mua chộc và quyến rũ). Lê Hữu Trác dửng dưng với tât cả.
+ Lê Hữu Trác còn thể hiện đức độ của người thầy thuốc.
- Một thầy thuốc giỏi, có kiến thức sâu, rộng, già dặn kinh nghiệm.
- Một thầy thuốc có lương tâm và trách nhiệm.
- Một nhà thơ, nhà văn giàu cảm xúc và có thái độ rõ ràng.
- Ông khinh thường lợi danh, phú quý, yêu thích tự do và lối sống thanh đạm quê mùa.
Mặt khác ta nhận thấy:
- Ông không đồng tình với cảnh hưởng lạc quá xa hoa và lộng quyền của chúa Trịnh đang giữ trọng trách quốc gia.
- Ý thức “về núi” của ông là sự đối nghịch gay gắt giữa quan điểm sống của ông đối với gia đình chúa Trịnh và bọn quan dưới trướng.
Ta càng hiểu vì sao ông lấy tên hiệu Hải Thượng Lãn Ông (Ông già lười ở đất Thượng Hồng).
Đọc Thêm:
CHA TÔI
(Trích Đặng Dịch Trai ngôn hành lục)
Đặng Huy Trứ
Hoạt động của GV và HS
Yêu cầu cần đạt
Hỏi: Tóm tắt nội dung cơ bản phần Tiểu dẫn.
Hỏi: Đại ý của đoạn trích?
Hỏi: Đoạn trích có mấy sự kiện chính? Tóm tắt nội dung từng sự kiện.
- Câu nói: “Thiếu niên đăng khoa nhất bất hạnh dã” đối với ngày nay đúng hay sai? Vì sao?
- Lời nói của người cha trước việc con trai bị đánh trượt thi thể hiện tính triết lí như thế nào?
Hỏi: Triết lí về việc đỗ trượt trong thi cử của thân phụ Đăng Huy Trứ cho anh (chị) bài học gì?
Hỏi: Nếu ý nghĩa của đoạn kết: “Ông Phạm Văn Huy ở Thiên Lộc… quý là ở chỗ biết sửa chữa”.
Hỏi: Thế nào là kí tự thuật?
Hỏi: Kí tự thuật đòi hỏi như thế nào?
I. Tìm hiểu chung
1. Tiểu dẫn
(HS đọc SGK)
- Giới thiệu về Đặng Huy Trứ (vài nét):
+ Sinh (1825 - 1874), người làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Hoạt động trên nhiều lĩnh vực: Giáo dục, kinh tế, văn hoá, quân sự, văn học. Lĩnh vực nào cũng để lại dấu ấn tốt đẹp.
+ Năm 1843 (18 tuổi) ông đỗ cử nhân.
+ Năm 1848, mặc dù đỗ tiến sĩ nhưng trong khoa thi Ân khoa (gặp ngày lễ lớn nhà vua mở thêm kì thi), ông mắc lỗi phạm huý (phạm những điều cấm khi viết văn), bị đánh trượt và bị tước luôn cả học vị cử nhân. Đặng Huy Trứ vẫn không nản trí. Ông có nhiều ý tốt đẹp trong tư tưởng canh tân cho đất nước nhưng không được nhà vua chấp nhận.
+ Ông để lại 1200 bài thơ, tiêu biểu là các tác phẩm: Việt sử thánh huấn diễn Nôm, Sách học vấn tân, Đông nam tận mĩ lục…
+ Năm 1867 đang ở Quảng Đông (Trùn Quốc) trong lúc bị ốm, ông viết về người cha đáng kính của mình. Đó là tác phẩm Đặng Dịch Trai ngôn hành lục (ghi chép lời nói và việc làm của Đặng Dịch Trai). Dịch Trai là tân phụ của ông.
2. Văn bản
(HS đọc văn bản và chú thích)
- Đại ý của đoạn trích
- Đoạn trích đã thuật lại lời nói, cử chỉ và hành động của người cha trước sự thành đạt và cả thất bại trong thi cử củangười con
II. Hướng dẫn đọc thêm
1. Đoạn trích có hai sự kiện:
- Lời nói, cử chỉ của người cha trước sự thành đạt và thất bại trong thi cử của người con.
- Đoạn trích có hai sự kiện
+ Lời nói, cử chỉ của người cha trước sự thành đạt trong thi cử của người con.
+ Lời nói, cử chỉ của người cha trước sự thất bại trong thi cử của người con.
Câu: “Thiếu niên đăng khoa nhất bất hạnh dã” là đúng vì tuổi trẻ thường hay kiêu căng tự mãn trước sự thành đạt của mình.
- Trước việc con bị đánh trượt và bị tước cả học vị tiến sĩ, cử nhân, Đặng Dịch Trai nói: “Buổi sáng mất, buổi chiều lại thu về”, “hẳn là sau khi bị cách, các ông ấy đã nỗ lực tu tĩnh”, “Người ta ai chẳng có lúc mắc sai lầm, quý là ở chỗ biết sửa chữa”. Đây là lời của người cha nói với con. Đó là những lời đầy triết lí.
+ Con người không ai toàn diện. Ngay cả những bậc siêu nhận cũng vậy.
+ Được, mất là chuyện thường. Đừng thấy được mà sinh ra kiêu ngạo, chủ quan, coi thường. Ngược lại đừng thấy mất mà nản lòng, thối chí. Càng ngã đau, càng phải dồn sức mà tiến.
+ Làm người phải biết tin vào mình, phải biết luyện ý chí. Thành đạt là ở cái chí của con người. Tuổi trẻ phải rèn luyện ý chí ấy.
2. Liên hệ bản thân để rút ra bài học:
+ Trong thi cử, đỗ trượt là tất yếu. Nếu không còn gọi gì là thi cử.
+ Đỗ phải phấn đấu tiếp không chủ quan. Nếu trượt phải kiên trì rèn chí, rèn tài để chờ dịp làm lại không được nản lòng.
- Người cha đã lấy tấm gương thực trong đời sống để răn dạy con mình. Hãy noi gương ông Phạm Văn Huy, ông Mai Anh Tuấn. Hai người ở hai địa danh cụ thể (Thiên Lộc và Thanh Hoá). Cả hai đều bị cách cử nhân. Về sau một người đỗ hoàng giáp, một người đỗ thám hoa. Người cha giáo dục con bằng thực tiễn, muốn con mình phải tu chí, rèn tài theo những tấm gương tốt.
III. Tri thức đọc - hiểu
(HS đọc SGK)
- Tự thuật là một trong thể tài (phạm vi nhỏ) của kí. Người ta gọi là kí tự thuật. Thuật lại cuộc đời, những kỉ niệm và sự kiện tác động đến tâm tư tình cảm đến bản thân người viết.
- Kí tự thuật đòi hỏi tính trung thực, không hư cấu.
Tiết 3
TỪ NGÔN NGỮ CHUNG ĐẾN LỜI NÓI CÁ NHÂN
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
- Thấy được mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung của xã hội và lời nói riêng cá nhân.
- Hình thành năng lực lĩnh hội, những nét riêng trong lời nói cá nhân, năng lực sáng tạo của cá nhân trên cơ sở vận dụng từ ngữ và quy tắc chung.
- Có ý thức tôn trọng những quy tắc ngôn ngữ chung của xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
B. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP
1. Kiểm tra bài cũ:
2. Giới thiệu bài mới:
Hoạt động của GV và HS
Yêu cầu cần đạt
Hỏi: Tại sao ngôn ngữ là tài sản chung của một dân tộc, một cộng đồng xã hội?
Hỏi: Tính chung trong ngôn ngữ của công đồng được biểu hiện bằng những yếu tố nào?
Hỏi: Tính chung trong ngôn ngữ cộng đồng còn được biểu hiện qua nHững quy tắc nào?
Hỏi: Anh (chị) hiểu thế nào là lời nói cá nhân?
Hỏi: Cái riêng trong lời nói của mỗi cá nhân được biểu lộ ở những phương diện nào?
Hỏi: Biểu hiện cụ thể nhất của lời nói cá nhân là ở đối tượng nào?
I. Tìm hiểu chung
1. Ngôn ngữ - Tài sản chung của xã hội
(HS đọc SGK)
- Muốn gia tiếp để hiểu biết nhau, dân tộc cộng đồng xã hộ phải có một phương tiện chung. Phương tiện đó là ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ là tài sản chung của công đồng được thể hiện qua các yếu tố, các quy tắc chung.
Các yếu tố và quy tắc ấy phải là của mọi người trong cộng đồng xã hội, có như vậy mơi tạo ra sự thống nhất. Vì vậy ngôn ngữ là tài sản chung.
- Tính chung trong ngôn ngữ của cộng đồng được biểu hiện qua các yếu tố.
+ Các âm, các thanh (phụ âm, nguyên âm, thanh điệu).
Các nguyên âm i, e, ê, u, ư, o, ô, ơ, a, ă, â
Sáu thanh:
1. Không (ngang) (không dấu)
2. Huyền (-)
3. Hỏi (?)
4. Ngã (~)
5. Sắc (/)
6. Nặng (.)
+ Các tiếng (âm tiết) tạo bởi các âm và thanh
Ví dụ: Nhà à [/n/h/a/]2, ấm à [/â/m/]5
+ Các từ à các tiếng (âm tiết) có nghĩa. Ví dụ: Cây, xe, nhà, đi, xanh, vì, nên, và, với, nhưng, sẽ, à, …
+ Các ngữ cố đinh à Thành ngữ, quán ngữ. Ví dụ: Thuận chồng thuận vợ, bụng ỏng đít vòn, của đáng tội, nói toạc móng heo, cô đi đúc lại, ếch ngồi đáy giếng…
+ Đó là phương thức chuyển nghĩa từ à chuyển từ nghĩa gốc sang nghĩa khác (nghĩa phát sinh) hay còn gọi là phương thức ẩn dụ:
+ Quy tắc cấu tạo các loại câu. Ví dụ:
Câu đơn: Câu đơn binhg thường, hai thành phần à C + V
Câu đơn đặc biệt (cấu tạo bằng dnah từu hoặc động, tính từ, …)
2. Lời nói sản phẩm riêng của cá nhân
(HS đọc SGK)
- Khi nói hoặc viết, mỗi cá nhân sử dụng ngôn ngữ chung để tạo ra lời nói đáp ứng yêu cầu giao tiếp.
Lời nói cá nhân là sản phẩm của một người nào đó vừa có yếu tố quy tắc chung của ngôn ngữ, vừa mang sắc thái riêng và phần đóng góp của cá nhân.
- Giọng nói cá nhân (trong, ồ, the thé, trầm,…) vì thế mà ta nhận ra người quen khi không nhìn thấy mặt.
- Vốn từ ngữ cá nhân (do thói quen dùng những từ ngữ nhất định) vốn từ ngữ cá nhân phụ thuộc vào nhiều phương diện ngư lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, vốn sống, trình độ hiểu biết quan hệ xã hội (ví dụ SGK).
- Sự chuyển đổi khi sử dụng từ ngữ chung. Cá nhân dựa vào nghĩa của từ (trồng cây à trồng người), (buộc gió lại à mong gió không thổi). Đó là sự sáng tạo của cá nhân.
- Tạo ra các từ mới. Những từ này lúc đầu do cá nhân dùng. Sau đó được cộng đồng chấp nhận và tự nhiên lại trở thành tài sản chung.
Ví dụ: Nguyễn Tuân dùng hai từ Cá đẻ chỉ công an.
Dần dần được cả xã hội công nhận. Người ta còn tạo ra các từ để chỉ tên gọi của đơn vị thuộc lực lượng vũ trang này như mú, cớm, nút chai cổ vàng (công an giao thông).
- Biểu hiện cụ thể nhất lời nói cá nhân là phong cách ngôn ngữ cá nhân của nhà văn. Ta gọi chung là phong cách.
Ví dụ:
+ Nhà thơ Tố Hữu thể hiện phong cách trữ tình chính trị.
+ Thơ Hồ Chí Minh (Nhật kí trong tù) là kết hợp giữa cổ điển và hiện đại.
+ Nguyễn Tuân với phong cách tài hoa, uyên bác
+ Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng, thâm thuý.
+ Tú Xương thì ồn ào, cay độc.
II. Luyện tập
Bài tập 1 - SGK
- Câu tục ngữ: “Học ăn học nói học gói học mở”
+ Câu tục ngữ đặt ra vấn đề quan trọng trong đời sống chúng ta. Người ta sinh ra cho đến lúc trưởng thành đều phải học từ cái nhỏ cho đến cái lớn. Không ai không phải học. Câu tục ngữ này dạy người ta học ăn, học nói. Ăn phải có nhai cũng như nói phải có nghĩ. Lại có chuyện “ăn trông nồi ngồi trông hướng”. Những câu tục ngữ, ca dao mang hàm ý phê phán: “ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau” và “ăn thì ăn những miếng ngon - Làm thì chọn việc cỏn con mà làm”. Làm người ai cũng cần biết mà tránh.
+ Học nói cũng không kém phần quan trọng.
Đây là lời nói mang tư cách. Ngôn ngữ cá nhân mang màu sắc chủ quan. Xin nhớ “Lời nói chẳng mất tiền mua - Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Đừng học những người “nhấm nhẳng như váy ba bức” hoặc “Lúng búng như ngậm hột thị”. Phải biết nói cho người ta nghe lọt, người ta hiểu. Lại nhớ nói với ai, nói ở đâu, nói lúc nào và nói để làm gì. Hãy nói theo cách nói của ca dao, tục ngữ. Cách nói của nhân dân đấy, quý giá vô cùng. Ai cũng muốn trở thành “Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”. Chớ có “đâm ba chày củ” hay “vơ quàng vơ xiên”, bạ đâu nói đấy và cái bệnh “chưa ngồi đã lồi chuyện ra”. Học nói quả là chuyện khó. Nhưng không phải ta không làm được. Muốn nói đúng và hay, xin nhớ:
* Dùng từ dễ hiểu, phát âm chính xác.
* Khai thác triệt để vốn từ trong nhân dân.
* Luôn đối chiếu để đảm bảo tính chuẩn mực khi nói.
* Biết trau dồi vốn từ bằng những phương pháp tạo từ mới. Đó là phương thức ẩn dụ, hoán dụ, nói giảm,…
Đây là việc chúng ta học tập suốt đời.
Bài tập 2 - SGK
- Hai câu ca dao đầu đều dùng biện pháp liên tưởng so sánh để làm rõ thế nào là người khôn, người thanh lịch.
+ Chim khôn tiếng rảnh rang (nhẹ nhàng, dễ nghe).
+ Chuông kêu.
Tất cả là những so sánh một chiều đề khẳng định lời nói cá nhân.
- Câu thứ ba phê phán những người nói năng cộc lốc tục tằn. Những người này được ví như đất xấu.
- Ta học tập được ở những lời ca này cách ăn nói và cả những tiêu chuẩn để xem xét con người.
Tiết 4
LUYỆN TẬP PHÂN TÍCH ĐỀ, LẬP DÀN Ý CHO BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
- Giúp học sinh biết phân tích một bài văn nghị luận xã hội.
- Biết tìm ý và lập dàn ý cho bài văn nghị luận xã hội.
B. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP
1. Kiểm tra bài cũ:
2. Giới thiệu bài mới:
Hoạt động của GV và HS
Yêu cầu cần đạt
Hỏi: Trước khi phân tích đề bài cần có những thao tác nào?
Hỏi: Các bước của phân tích đề được thể hiện cụ thể như thế nào?
Hỏi: Hãy nói rõ từng bước phải làn như thế nào? Lấy ví dụ để minh hoạ.
Hỏi: SGK trình bày việc tìm ý. Em hãy trình bày sự hiểu biết của mình.
Hỏi: Qua cách làm của đề 1 SGK, em cho biết thế nào là lập dàn ý? Lấy một ví dụ?
I. Tìm hiểu chung.
1. Phân tích đề
(HS đọc SGK)
- Ba thao tác trước khi phân tích đề
+ Đọc kĩ đề bài.
+ Gạch chân các từ quan trọng (những từ chứa đựng ý của đề bài).
Ví dụ: Đề 1 gạch chân các từ: Thiếu đi màu xanh của những cánh rừng
Đề 2 gạch chân các từ: tiết kiệm thời gian
Đề 3 gạch chân các từ: Quan niệm về đỗ - Trượt trong thi cử.
+ Thao tác thứ 3 là ngăn vế (nếu có). Đó là những trường hợp mà đề ra có sử dụng quan hệ từ tuy/nhưng
Không những / mà còn
Vì / Nên
- Ba đề trong sách giáo khoa không phải ngăn vế.
- Phân tích đề có ba bước.
+ Bước một là tìm hiểu nội dung của đề.
+ Bước hai là tìm hiểu về thao tác lập luận chính.
+ Bước ba là xác định phạm vi dẫn chứng của đề bài.
- Tìm hiểu nội dung của đề (xem đề có mấy ý, là những ý nào). Ví dụ:
Đề 1: Trái đất sẽ ra sao nếu thiếu đi màu xanh của những cánh rừng. Nội dung của đề là xác định được vai trò của rừng đối với cuộc sống con người. Rừng hiện nay đang bị tàn phá như thế nào? Nguyên nhân dẫn đến sự phá rừng. Vai trò trách nhiệm của con người đối với việc bảo vệ rừng…
- Xác định được thao tác lập luận chính:
Đề 1: Lập luận chính là bình luận. Ngoài ra phải huy động giải thích, phân tích và chứng minh (đây là dạng đề mở - đề chìm).
Đề 2: Giải thích và chứng minh (yêu cầu rõ đây là dạng đề nổi).
Đề 3: Thao tác chính là trình bày quan niệm (suy nghĩ của bản thân) về vấn đề đỗ, trượt trong thi cử. Lập luận chính là bình luận.
- Phạm vi dẫn chứng:
Đây là vấn đề xác định tư liệu. Hai địa chỉ quan trọng là trong cuộc sống và trong văn học. Yêu cầu của xác định tư liệu phải chuẩn xác, tiêu biểu, đủ sức thuyết phục.
Đề 1: Dẫn chứng lấy trong thực tế đời sống.
Đề 2: Dẫn chứng trong thực tế đời sống.
Đê 3: Dẫn chứng trong văn bản kí tự thuật Cha tôi (trích Đặng Dịch Trai ngôn hành lục của Đặng Huy Trứ) kết hợp với vốn hiểu biết về đời sống.
2. Tìm ý
(HS đọc SGK)
- Tìm ý hay còn gọi là lập ý. Lập ý là xác định luận điểm (ý lớn), luận cứ (ý nhỏ) và luận chứng (ý nhỏ hơn). Luận chứng thường là những dẫn chứng.
- Muốn tìm được ý, người ta phải căn cứ vào lập luận (thao tác) của từng đề. Ví dụ ở đề 3, khi đã xác định lập luận là bình luận thì các ý là:
+ Vấn đề cần bình luận: Đỗ và trượt trong thi cử là chuyện bình thường của đời sống nhất là đối với học sinh. Tuy trượt cũng buồn song phải biết tu trí, tin tưởng vào sự rèn luyện của bản thân.
+ Khẳng định vấn đề: Vấn đề được quan niệm đúng hay sai.
Mở rộng bàn bạc: Mở rộng bàn bạc có ba cách.
* Một là giải thích và chứng minh: Tại sao vấn đề được quan niệm như vậy là đúng? Đúng như thế nào hoặc tại sao và sai như thế nào? Lấy dẫn chứng trong đời sống và trong văn bản Cha tôi.
* Hai là bằng cách liên tưởng, so sánh, đào sâu thêm một khía cạnh nào đó của v
File đính kèm:
- Giao an Ngu van 11 Nang cao hoc ky 1 tron bo dung PPCT.doc