A. Mục tiêu bài học :
- Hiểu và phân tích xung đột qua tính cách, diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô và Đan Thiềm trong hồi năm của vở kịch.
- Nắm được những nét đặc sắc về nghệ thuật của vở kịch.
B. Tiến trình dạy học :
1. Kiểm tra bài cũ
2. Giới thiệu bài mới:
12 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 4482 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án Ngữ văn 12 - Vĩnh biệt cửu trùng đài (trích Vũ như tô) Nguyễn Huy Tưởng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VÜnh biÖt Cöu Trïng еi
( TrÝch Vò Nh T« )
NguyÔn Huy Tëng
A. Môc tiªu bµi häc :
- HiÓu vµ ph©n tÝch xung ®ét qua tÝnh c¸ch, diÔn biÕn t©m tr¹ng cña Vò Nh T« vµ §an ThiÒm trong håi n¨m cña vë kÞch.
- N¾m ®îc nh÷ng nÐt ®Æc s¾c vÒ nghÖ thuËt cña vë kÞch.
B. TiÕn tr×nh d¹y häc :
1. KiÓm tra bµi cò
2. Giíi thiÖu bµi míi:
Hoạt động của GV và HS
Nội dung cần đạt
- Hãy trình bày những nét khái quát về tg?
- GV giới thiệu về thể loại bi kịch.
- Yêu cầu HS đọc phần tóm tắt tp trong SGK.
- GV giới thiệu thêm.
- Nêu giá trị nội dung và ngt của vở kịch ?
( Tiết 2 )
- Em hãy cho biết vị trí của đoạn trích ?
- Yêu cầu HS tóm tắt hồi kịch.
- GV trình bày về khái niệm xung đột kịch.
- Xung đột kịch trong VNT là xung đột gì ? Xung đột ấy được thể hiện ở hồi 5 như thế nào ?
- Xđ kịch trong VNT là xđ giữa các lực lượng đối địch, giữa con người với con người ( Mt thứ nhất ) và xđ giữa con người với hoàn cảnh ( mt thứ 2 )
- Mâu thuẫn thứ nhất được giải quyết ra sao ?
- Em có thể nói gì về cách giải quyết mâu thuẫn này ?
- Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn thứ 2 ?
- Mâu thuẫn thứ 2 được giải quyết như thế nào ?
- Em có nhận xét gì về cách giải quyết mâu thuẫn thứ 2 ?
- Nét tính cách nổi bật của VNT là gì ?
- Tính cách và tâm trạng của VNT thể hiện trong hồi 5 như thế nào ?
- Nét tính cách của ĐT ?
- Tâm trạng của ĐT ở hồi cuối bộc lộ ra sao ?
- Nêu ý nghĩa tư tưởng của bi kịch VNT ?
- Em hãy khái quát giá trị ngt và giá trị nd của đoạn trích ?
* Củng cố: Đọc kĩ phần GN trong SGK.
* Rút kinh nghiệm:
* Kí duyệt:
A. Tìm hiểu chung
I. Tác giả
NHT ( 1912 - 1960 ), quê Dục Tú, Đông Anh, Hà Nội, xuất thân trong 1 gia đình nhà nho có tinh thần yêu nước.
-Ông sớm tham gia CM, hoạt động trong những tổ chức văn hoá văn nghệ do Đảng lãnh đạo.
- NHT có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và có đóng góp nổi bật ở 2 thể loại: tiểu thuyết, kịch.
- Các tp tiêu biểu:
+ Kịch: Vũ Như Tô ( 1941 ), Bắc Sơn ( 1946 ), Những người ở lại ( 1948 )…
+ Tiểu thuyết: Đêm hội Long Trì ( 1942 ) , Sống mãi với thủ đô ( 1961 )…
+ Kí: Kí sự Cao Lạng ( 1951 )…
- Nét bao trùm trong sáng tác của NHT là cảm hứng sử thi, chất anh hùng ca, chất lí tưởng.Tp của NHT đã tái hiện chân thực những chặng đường đau thương mà hào hùng của lịch sử dân tộc. Văn phong của ông giản dị, trong sáng , đôn hậu mà thâm trầm, sâu sắc.
Bình sinh, NHT luôn khao khát viết được những tp có qui mô lớn, dựng nên được những bức tranh hoành tráng về lịch sử bi hùng của dân tộc; khao khát nói lên được những vấn đề có tầm triết lí sâu sắc về con người, cuộc sống và ngt. Điều đó phần nào được thể hiện qua vở kịch Vũ Như Tô của ông.
II. Vở kịch Vũ Như Tô
1. Thể loại bi kịch:
BK là 1 thể của loại hình kịch ( đối lập với hài kịch). Ngoài các đặc điểm chung của loại hình, BK còn mang những đặc điểm riêng của thể. Những đặc điểm riêng này chủ yếu được thể hiện qua mâu thuẫn, xung đột và nhân vật:
+ Xung đột BK được tạo dựng từ những mâu thuẫn không thể giải quyết được, mọi cách khắc phục mâu thuẫn đều dẫn đến sự diệt vong của những giá trị.
+ Nhân vật chính của BK là những con người có niềm say mê, khát vọng lớn lao; đồng thời đôi khi còn có cả những sai lầm trong suy nghĩ và hành động. Đó là những người anh hùng, vùng lên chống lại hoàn cảnh, thách thức số phận, cho dù có phải chết ( Vũ Như Tô, Đam Thiềm, Rô mê ô và Giu li ét, Thị Kính, Xuý Vân…). Kết thúc bi thảm của số phận nhân vật BK thường có ý nghĩa thức tỉnh, khơi gợi tình cảm nhân văn của mỗi con người.
+ Bi kịch miêu tả thực tại theo lối nhấn mạnh, cô đặc các mâu thuẫn bên trong, phơi bày những mâu thuẫn sâu sắc của thực tại. Tp bi kịch thường đặt độc giả trước những câu hỏi nhức nhối, hóc búa, phức tạp của cuộc sống.
2. Tóm tắt tp
VNT là vở bi kịch lịch sử 5 hồi viết về 1 sự kiện xảy ra ở Kinh thành Thăng Long khoảng năm 1516 - 1517 dưới triều Lê Tương Dực.
+ Hồi 1: Một cung cấm của vua Lê ( 9 lớp )
+ Hồi 2: Một cung điện mà vua dành riêng cho VNT ( 5 lớp )
+ Hồi 3: Nửa năm sau ( công trường ) ( 9 lớp )
+ Hồi 4: Bốn tháng sau ( công trường ) ( 6 lớp )
+ Hồi 5: Một cung cấm ( 9 lớp )
3. Giá trị nội dung và ngt
* Về nội dung: Qua vở kịch VNT, NHT muốn thể hiện những vấn đề sâu sắc vê cuộc sống và ngt: người nghệ sĩ thiên tài, đầy tài năng và tâm huyết cũng k thể thi thố tài năng, thực hiện được được hoài bão của mình để đem lại cái đẹp cho đời, niềm tự hào cho dân tộc trong 1 chế độ XH thối nát, trong 1 đất nước mà ND còn đang sống điêu đứng, lầm than.
→ Bi kịch của VNT phải chăng là bi kịch của sự bất phùng thời, bi kịch của những người anh hùng k có đất dụng võ. Cuộc đời người nghệ sĩ khác nào 1 định mệnh khắc nghiệt, phải chịu kết cục bi thảm vì mộng lớn.
* Về ngt:
+ Tuy là tp đầu tay nhưng NHT đã bộc lộ 1 tài năng độc đáo sở trường về kịch. Tp mang dáng dấp của 1 vở kịch bề thế, hoàn chỉnh.
+ Lần đầu tiên trong kịch trường VN xuất hiện những đám đông nhân vật, phần lớn là quần chúng, tạo nên những lớp kịch sống động, mang hơi thở cuộc sống.
+ Các nhân vật chính được khắc hoạ khá đậm nét, 1 số nhân vật phụ tuy chỉ lướt qua nhưng cũng để lại những ấn tượng khó quên.
B. Đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
I. Vị trí đoạn trích
+ Đtr thuộc hồi 5 ( Một cung cấm ), là hồi cuối của bi kịch VNT, xoay quanh 1 sự kiện chính: sự kiện đốt phá CTĐ, bắt giết những người đã sáng tạo ra nó, chôn vùi họ trong tro tàn CTĐ và trong tro tàn của lịch sử cùng với 1 triều đại mục ruỗng của hôn quân bạo chúa. Bao trùm hồi kịch này là 1 nỗi đau và 1 niềm hoang mang lớn.
+ Hồi cuối gồm có 9 lớp kịch, mỗi lớp có kèm theo lời thông báo sự xuất hiện hoặc rút lui của các nhân vật trên sân khấu. Các nhân vật xuất hiện và hành động thông qua các lời thoại, đôi khi có kèm theo chỉ dẫn nghệ thuật.
+ Hành động, sự kiện chính của hồi kịch này có thể tóm tắt như sau:
- Lợi dụng tình thế rối ren và mâu thuẫn giữa ND, thợ xây đài với VNT và bạo chúa Lê Tương Dực, Trịnh Duy Sản cầm đầu 1 phe cánh đối nghịch trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ thuyền làm phản.
- Biết tin có binh biến, bạo loạn trong phủ chúa, nguy hiểm đến tính mạng VNT, ĐT hết lời khuyên và giục ông đi trốn. Nhưng VNT khăng khăng k nghe vì tự tin mình quang minh chính đại, k làm gì nên tội và hi vọng ở chủ tướng An Hoà Hầu.
- Tình hình càng lúc càng nguy kịch. Lê Tương Dực bị giết; đại thần, hoàng hậu, cung nữ của y bị vạ lây; ĐT bị bắt,…Kinh thành điên đảo.
- Khi quân khởi loạn đốt CTĐ thành tro, VNT mới tỉnh ngộ. Ông đau đớn vĩnh biệt CTĐ rồi bình thản ra pháp trường.
II. Tìm hiểu chi tiết
1. Xung đột kịch
* Xung đột kịch là sự va chạm gay gắt giữa những lực lượng đối địch, giữa 2 hoặc nhiều nhân vật, nhiều quan điểm, nhiều thái độ khác nhau trước cùng một tình huống, hoặc giữa cá nhân với hoàn cảnh…; xung đột có thể diễn ra ngay trong lòng người. Các xung đột trong kịch chi phối hành động của các nhân vật và từng bước đòi hỏi phải được giải quyết để thúc đẩy hành động kịch.
* Xung đột kịch trong VNT được thể hiện qua 2 mâu thuẫn cơ bản sau:
a. Mâu thuẫn thứ nhất: mâu thuẫn giữa ND lao động khốn khổ, lầm than với bọn hôn quân bạo chúa sống trong xa hoa truỵ lạc.
+ Nguyên nhân của mâu thuẫn:
- Mâu thuẫn này vốn có từ trước, đến khi Lê Tương Dực bắt VNT xây dựng CTĐ thì mâu thuẫn ngày càng trở nên căng thẳng.
- Để xây CTĐ, triều đình ra lệnh tăng thêm sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Thợ đói khát, chết vì bệnh dịch, tai nạn. Dân căm phẫn vua, thợ oán VNT. Trịnh Duy Sản can ngăn vua, vua k nghe. Thế rồi tin lũ lụt, mất mùa, ND đói kém nổi lên tứ tung, truyền đến Thăng Long, VNT vẫn hăng hái đốc thợ xây CTĐ. Thợ định nổi loạn.
+ Mâu thuẫn đến hồi 5 được đẩy lên tới cao trào, đỉnh điểm và đã được giải quyết: Trịnh Duy Sản đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ thuyền làm phản, bạo chúa LTD bị giết, Nguyễn Vũ tự sát trong trò hề ngu trung, hoàng hậu nhảy vào lửa, đám cung nữ bị bắt bớ, nhục mạ, CTĐ tan theo tro bụi.
→ Mâu thuẫn đã được giải quyết dứt khoát như 1 tất yếu lịch sử, theo qui luật tức nước vỡ bờ. Bọn thống trị tàn bạo, sống truỵ lạc trên nỗi đau khổ của ND đã bị trừng phạt đích đáng.
Tuy nhiên cuộc nổi dậy này k thể mang lại điều gì tốt đẹp cho dân chúng bởi giang sơn sẽ rơi vào tay những kẻ phản loạn như Trịnh Duy Sản.
b. Mâu thuẫn thứ hai: mâu thuẫn giữa quan niệm ngt cao siêu, thuần tuý của muôn đời và lợi ích thiết thực của ND
+ Nguyên nhân của mâu thuẫn:
- Sự hình thành và diễn biến của mâu thuẫn này trong các hồi kịch trước gắn với câu chuyện xây CTĐ với những chuyển động trái chiều nhau.
CTĐ là 1 công trình kiến trúc đồ sộ, 1 công trình độc nhất vô nhị, vượt xa tất cả những kì quan ở Trung Quốc, Ấn Độ, Chiêm Thành. Đó là hiện thân của cái đẹp siêu đẳng. Với những nhà kiến trúc sư tài cao, đây là dịp thi thố tài năng, thực hiện mộng lớn, khẳng định thiên tài kì vĩ của mình
Mặt khác, đài Cửu Trùng còn là hiện thân cho cái đẹp xa hoa. Xây nên kì quan ấy cực kì tốn kém, 1 sự tốn kém k chỉ tính bằng tiền của ngân khố quốc gia mà còn phải tính bằng cả mồ hôi, nước mắt và máu nữa.
→ CTĐ là 1 biểu tượng đa nghĩa. Với VNT, đó là hiện thân cho mộng lớn. Với ĐT là hiện thân cho niềm kiêu hãnh của nước nhà. Nhưng với Lê Tương Dực, đó là quyền lực và ăn chơi. Còn với ND, CTĐ là món nợ mồ hôi, xương máu.
- VNT xây CTĐ với ao ước điểm tô cho đất nước, để lại cho dân tộc 1 công trình là hiện thân của cái đẹp cao cả, huy hoàng, 1 toà lâu đài hoa lệ, thách thức cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hoá công. Đó là khát vọng lớn lao của người nghệ sĩ tài năng, tâm huyết. Nhưng trớ trêu thay, chính niềm khao khát được cống hiến, được sáng tạo lại đẩy VNT vào tình trạng đối nghịch với lợi ích trực tiếp và thiết thực của ND. Đài càng xây cao, mạng người càng rẻ mạt, ND càng khốn khổ, điêu đứng. CTĐ trở thành nỗi khốn khổ, điêu linh, thành 1 hoa ác, hiện thân cho thói xa hoa hưởng lạc trên xương máu của ND. Trong con mắt của những người thợ, CTĐ và "cha đẻ" của nó - VNT- chính là kẻ thù của họ.
+ Mâu thuẫn thứ 2 ở hồi 5 cũng được đẩy lên đỉnh điểm. Nó hầu như không thể giải quyết và, mọi khắc phục mâu thuẫn đều dẫn đến sự diệt vong của những giá trị quan trọng. CTĐ hoá thành tro bụi, VNT ra pháp trường…
→ Mâu thuẫn thứ 2 k được giải quyết dứt khoát. ND trước sau k hiểu gì về sự sáng tạo của người nghệ sĩ, họ k hiểu nổi giấc mộng lớn của VNT và ĐT, hả hê đốt phá CTĐ. VNT cũng k hiểu được việc làm của quần chúng và quân phản loạn, bình thản đi ra pháp trường đón nhận cái chết, cũng như Đam Thiềm, coi như 1 giá trị lớn bị huỷ diệt.
VNT có công hay có tội ? VNT phải hay kẻ giết VNT phải? Đó là những câu hỏi còn bỏ ngỏ đầy ám ảnh khiến người đọc nhiều thế hệ sau tiếp tục tìm lời giải đáp.
2. Tính cách, diễn biến tâm trạng của nhân vật VNT và ĐT
a. Nhân vật VNT
+ Là 1 người nghệ sĩ tài ba, có khát vọng cao đẹp, say mê sáng tạo cái đẹp. Thiên tài của VNT được thể hiện ở những hồi trước của vở kịch, chủ yếu qua lời của các nhân vật khác nói về ông
- Một thiên tài ngàn năm chưa có một
- Có thể sai khiến gạch ngói như viên tướng cầm quân, có thể xây dựng những đài cao nóc vờn mây mà k hề tính sai 1 viên gạch nhỏ...
+ Là 1 nghệ sĩ có nhân cách lớn, k cúi đầu trước cường quyền, k hám lợi ( Lúc đầu dù bị LTD doạ giết, VNT vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân và kiên quyết từ chối xây CTĐ. Khi được vua ban thưởng vàng bạc lụa là, ông đã đem chia hết cho thợ… )
+ Ở màn kịch này, VNT hiện lên như 1 người anh hùng, trước cái chết cận kề vẫn k nao núng, sợ hãi ( ĐT khuyên ông chạy trốn nhưng ông k nghe; bọn phản loạn nói xấu ông với ĐT, kết tội ông, ông thẳng thắn đấu tranh lại; thấy ĐT quì lạy Ngô Hạch, ông phê phán: Sao bà lẩn thẩn thế, lạy cả 1 đứa tiểu nhân, thấy Ngô Hạch hung hăng,VNT mắng: Mi thực là tên bỉ ổi…) Ông coi CTĐ hơn mạng sống của mình, quyết ở lại trong cơn biến loạn để bảo vệ sinh mạng nghệ thuật ( Đời ta k quí bằng CTĐ)
→ Một tính cách rắn rỏi, bất khuất, sống đam mê trong hoài bão sáng tạo cái đẹp.
+ Trong hồi 5 này, tác giả đặt VNT vào việc tìm kiếm lời giải đáp cho câu hỏi: Xây CTĐ là đúng hay sai ? Là có công hay có tội ?... VNT đã k thể trả lời thoả đáng câu hỏi đó vì ông chỉ đứng trên lập trường của người nghệ sĩ mà k đứng trên lập trường của ND, chỉ say mê cái đẹp mà k nghĩ tới cái thiện. Hành động của ông k hướng đến sự hoà giải mà thách thức và chấp nhận sự huỷ diệt.
→ VNT đúng là 1 nhân vật bi kịch bởi mang trong mình k chỉ những say mê, khát vọng lớn lao mà còn có cả lầm lạc trong suy nghĩ và hành động. Ngay cả trong cơn biến loạn phũ phàng, ĐT cố kéo ông ra khỏi giấc mơ mà ông vẫn cho là mọi người hiểu nhầm, rằng CTĐ bị đốt là vô lí. Đến khi tận mắt chứng kiến cảnh CTĐ bị thiêu rụi, ông chỉ còn biết rú lên trong kinh hoàng, tuyệt vọng, phẫn uất: Ôi mộng lớn ! Ôi ĐT ! Ôi CTĐ ! VNT đã rơi vào bi kịch vỡ mộng
b. Nhân vật Đan Thiềm
+ Nếu VNT là người đam mê cái đẹp, khao khát sáng tạo cái đẹp, thì ĐT là người đam mê cái tài ( tài sáng tạo nên cái đẹp. Bệnh ĐT ( chữ dùng của NHT ) là bệnh mê đắm người tài hoa, bệnh của kẻ biệt nhỡn liên tài - cái tài siêu đẳng, siêu việt, phi phàm.
+ Tuy chỉ là 1 cung nữ nhưng ĐT k phải là 1 cung nữ tầm thường, con người ĐT, tính cách, suy nghĩ của nàng vượt lên trên thân phận. Nàng khuyên VNT xây CTĐ để cho non sông được tô điểm, đất nước rạng danh, dân ta nghìn thu còn hãnh diện.
+ ĐT là người luôn tỉnh táo, sáng suốt. Nhận thấy ước vọng xây đài lớn k thành, ĐT k còn hướng vào CTĐ mà hướng tới sự sống còn của VNT. Nàng liên tục khuyên VNT đi trốn. Đến khi quân nổi loạn kéo vào, biết VNT có trốn cũng k được nữa, ĐT đã cầu xin Ngô Hạch cho nàng chịu tội chết thay VNT. Biết tình thế k thể cứu vãn được nữa, ĐT đành buông lời vĩnh biệt trong đau đớn tuyệt vọng: Đài lớn tan tành ! Ông cả ơi ! Xin cùng ông vĩnh biệt !. Đó cũng là lời vĩnh biệt mãi mãi CTĐ, vĩnh biệt 1 giấc mộng lớn trong máu và nước mắt.
3. Ý nghĩa tư tưởng của vở kịch
- Qua bi kịch VNT, tg đã đặt ra 1 vấn đề có tầm triết lí sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật: nghệ thuật xa rời cuộc sống, ngoảnh mặt làm ngơ với đời sống hiện thực của con người thì trước sau cũng trở thành vô nghĩa, không có đất để tồn tại.
CTĐ là mộng lớn, là biểu tượng cho sự bền vững, trường tồn, nhưng , cái Đẹp và sự tồn tại của nó trong những hoàn cảnh nhất định hoá ra lại chỉ ngắn ngủi và mong manh như 1 giấc chiêm bao.
- Trên quan điểm ND, vở kịch lên án bạo chúa, tham quan, đồng tình với việc dân chúng nổi dậy trừ diệt chúng, nhưng mặt khác, vở kịch đã ca ngợi những nhân cách nghệ sĩ chân chính và tài hoa như VNT, những tấm lòng yêu quí ngt đến mức quên mình như ĐT. Số phận của VNT và ĐT đã kết thúc trong niềm trắc ẩn , trong sự nuối tiếc vô cùng của nhà văn.
4. Một số nét đặc sắc về nghệ thuật
- Bằng 1 ngôn ngữ kịch có tính tổng hợp cao, tác giả đã khắc hoạ tính cách, nội tâm nhân vật và dẫn dắt xung đột kịch rất thành công, tạo nên 1 bức tranh đời sống hoành tráng trong nhịp điệu bão tố của nó.
- Vũ Như Tô là 1 vở bi kịch lịch sử, được viết dựa trên sử liệu: sự kiện lịch sử, bối cảnh lịch sử, nhân vật lịch sử → Tg đã khai thác các sử liệu phù hợp với yêu cầu của bi kịch trong tính lô-gic, tính quy luật của lịch sử.
III. Kết luận:
- Đtr thể hiện những đặc sắc về ngt kịch của NHT: tạo dựng những tình huống, xung đột căng thẳng, gay cấn; nhân vật có tính cách đa diện, sinh động, ngôn ngữ gần gũi với đời sống…
- Đoạn trích thể hiện tập trung nội dung, cảm hứng của vở kịch. Tg đã đề cập đến những vấn đề nhân sinh, những triết lí sâu xa với hàm nghĩa thâm trầm về mối quan hệ giữa nghệ sĩ với cuộc đời, giữa cái đẹp với cái thiện, giữa ngt thuần tuý với lợi ích thiết thực của ND.
IV. Luyện tập
File đính kèm:
- Thiet ke bai day Vinh biet Cuu Trung Dai.doc