Giáo dục dạy nghề ở Nhật Bản - Chìa khóa đi vào hiện đại hóa Kinh nghiệm đào tạo kỹ thuật ở cấp giáo dục phổ cập

Với tư tưởng và chủ trương đầy tham vọng nêu trên, ngay từ đầu Nhà nước Minh Trị đã “quản lý” chặt chẽ, theo sát mọi chính sách và biện pháp cải cách giáo dục (với mục đích nhanh chóng sản sinh ra một lớp công nhân có tay nghề thích hợp và cần thiết cho phát triển với một tinh thần “trách nhiệm” trong thái độ lao động triệt để mà chúng ta đã thấy qua những thành công to lớn và cơ bản trong việc quản lý chất lượng hàng hóa trong sản xuất sau này) đưa Nhật Bản từ vị trí một nước nông nghiệp, lạc hậu về kỹ thuật từ cuối thế kỷ 19 sang thành một nước có nền công nghiệp phát triển rực rỡ từ những năm 60 của thế kỷ trước mặc dù là kẻ bại trận liên tiếp trong hai cuộc chiến tranh thế giới, phải tháo bỏ chế độ quân phiệt và trả lại những “tô giới” ở Triều Tiên, Trung quốc, Đài loan và căn cứ quân sự và chế độ thực dân tại các nước Đông nam Á.

Có người cho rằng hệ thống giáo dục của Nhật Bản thời Minh Trị mô phỏng theo hệ thống quản lý giáo dục của Pháp khi thiết lập “Trường Chuyên Môn” (như là những Grandes Ecoles ở Pháp) tiền thân của hệ thống đại học sau này. Nhưng khi xét về phần “Tư thục” thì có ý kiến mạnh mẽ kết luận rằng Nhật bản chịu nhiều ảnh hưởng của Mỹ khi nhìn vào sự thành công rực rỡ của quá trình hình thành hệ thống Trường tư thục qua mô hình “Lan học” (1858) đầu tiên theo giáo dục phương tây (người Nhật gọi là “Lan học” tức học theo Hoà Lan thay vì gọi là Tây học như ở VN) sau này phát triển thành Đại Học Keio (1920) do Fukuzawa Yukichi (1835-1901), một nhà tư tưởng và giáo dục nổi tiếng khởi xướng và sáng lập với sự hợp tác chặt chẽ của Hoa Kỳ.

 

doc35 trang | Chia sẻ: trangtt2 | Ngày: 02/07/2022 | Lượt xem: 275 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo dục dạy nghề ở Nhật Bản - Chìa khóa đi vào hiện đại hóa Kinh nghiệm đào tạo kỹ thuật ở cấp giáo dục phổ cập, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giáo dục dạy nghề ở Nhật Bản: Chìa khóa đi vào hiện đại hóa Kinh nghiệm đào tạo kỹ thuật ở cấp giáo dục phổ cập Hồng Lê Thọ A.  Bắt đầu từ Minh Trị Duy Tân Từ khi chiến hạm của Mỹ do đô đốc Commodore Perry dẫn đầu kéo đến cảng Uraga thuộc Edo (Tokyo) gây sức ép,  Nhật bản buộc phải mở cửa, bãi bỏ chính sách bế quan tỏa cảng kéo dài suốt 200 năm để giao thương. Ngày 31/3/1854 sau kí kết hoà ước với Mỹ, lịch sử nước Nhật đã chuyển sang một thời kỳ mới, đó là công cuộc cải cách Minh trị Duy Tân bắt đầu vào năm 1868 sau khi Thiên hoàng Komei (Mutsuhito) thâu tóm quyền lực nội trị về một mối. Với tư duy mới để cải cách toàn diện chính trị, xã hội, giáo dục chính quyền Minh Trị ra sức “hiện đại hóa” đất nước theo tư tưởng “thoát á nhập âu”—cách hội nhập vào trào lưu của giới thống trị-- trong đó tổ chức lại xã hội, cải cách nền giáo dục khoa bảng từ chương theo lối Khổng-Mạnh sang nền giáo dục tiên tiến lấy kinh nghiệm của Hoa kỳ và các nước phát triển Châu âu (Đức, Pháp, Hòa Lan) để xây dựng một mô hình giáo dục quốc gia phù hợp với chủ trương “Khai hoá văn minh” (Bunmei Kaika):  Đối với chúng ta, những người sống ở phương Đông, trừ khi chúng ta có quyết tâm vững chắc muốn chống lại xu thế văn minh phương Tây. Nhưng liệu chúng ta có thể chống đỡ được không, còn nếu không, tốt nhất là chúng ta hãy cùng chia sẻ chung số mệnh với nền văn minh ấy. Nếu quan sát kĩ lưỡng tình hình thế giới hiện nay, sẽ nhận thấy được rằng chúng ta không tài nào kháng cự lại được sự tấn công dữ dội của nền văn minh này. Vậy tại sao chúng ta không cùng nhau bơi trên mặt biển, cùng nhau tạo ra một làn sóng, ra sức xây dựng và hưởng thụ những thành quả của nền văn minh ấy?” (Thoát Á Luận, 16/3/1885—Fukuzawa Yukichi) Đến nay, Nhật Bản đã trải qua 2 lần cải cách giáo dục một cách qui mô, chịu ảnh hưởng rất lớn của Mỹ (cố vấn nổi tiếng là hai ông David Muray và Marrion Mc Carell Scott thời Minh Trị Duy Tân và đoàn tham vấn về giáo dục của chính phủ Hoa Kỳ sau thế chiến thứ hai) trong các chính sách và biện pháp cải cách cụ thể. Chỉ 4 năm kể từ khi nắm quyền bính(1868), thống nhất đất nước, kết thúc nạn cát cứ phiên bang, năm 1872 Minh Trị thiên hoàng đã áp dụng chính sách “hiện đại hóa” chế độ giáo dục và chính sự thành công của việc cải cách nầy đã tạo ra tiền đề to lớn để cải cách toàn xã hội, hay nói khác đi Minh Trị đã dùng Giáo dục để nâng cao dân trí thông qua việc hoàn thiện hệ thống giáo dục mới, trong đó chủ yếu phổ cập hoá cấp tiểu học trên toàn lãnh thổ đồng thời từng bước xây dựng giáo dục cấp 2 (trung học cơ sở) và 3 (trung học phổ thông) nhưng trọng tâm là ưu tiên tổ chức trường chuyên tu, dạy nghề cho thanh thiếu niên và  trung cấp chuyên nghiệp một cách có hiệu quả (xem bảng thống kê về số trường và các loại trường từ năm 1873-1962), lấy đó làm đòn bẩy để xây dựng một xã hội “phương tây kiểu Nhật Bản” mới, phù hợp với xu thế phát triển và trong lúc các cường quốc đang tranh nhau cấu xé Trung Hoa. Hệ thống giáo dục Nhật Bản được sửa đổi liên tục nhằm thực hiện hai ưu tiên là cưỡng bách giáo dục nhằm phổ cập hóa hệ thống giáo dục tiểu học (năm 1920 đạt 99% phổ cập tiểu học) và lập các loại trường dạy nghề cho thanh niên đồng thời tổ chức đào tạo qua các khoá chuyên tu (nông, công, lâm, ngư nghiệp, thủy sản, dệt) ở cấp trung học cơ sở. Hai ưu tiên này đã tạo ra những bước đi rất cơ bản trong việc hình thành lực lượng công nhân là người gánh vác kế hoạch phát triển chắc chắn cho việc “hiện đại hoá” (tiếng Nhật sử dụng thuật ngữ “Cận đại hoá”) nền kinh tế và xã hội trong suốt một thế kỷ. “Đây cũng là tiền đề của hệ thống giáo dục ngày nay, một hệ thống mà những nhân tố cấu thành đều được đặt đúng vị trí của nó một cách minh bạch”[1] trong đó vai trò cơ bản của lao động có kỹ năng và kỷ luật đã được xác lập trong suốt quá trình công nghiệp hoá. Mặt khác chủ trương phát triển giáo dục cấp cao làm đầu tàu cũng đã được quan tâm,và hình thành rất sớm: đó là hệ thống đại học và sau đại học với các “Trường Chuyên Môn”(không kể loại trường Cao đẳng Chuyên môn dành cho học sinh học hết cấp 2)[2] trong đó những đóng góp hữu hiệu của các chuyên gia từ các nước tiên tiến được đánh giá rất cao, giữ vai trò trọng yếu trong chiến lược “hiện đại hoá” nền giáo dục nói chung và công cuộc cách mạng kỹ nghệ nói riêng của Minh Trị Duy Tân. Chính quyền Minh Trị quan tâm xây dựng từng bước hệ thống giáo dục đại học bắt đầu từ 6 trường đại học “hoàng gia” công lập, lần lượt được thành lập từ năm 1877, trên cả nước (Tokyo, Kyoto, Kyushu, Tohoku, Hokkaido, Ôsaka) và cho phép thành lập đại học tư thục (Waseda, Keio, Doshisha) từ các “trường chuyên môn” (dạy nghề) khi bước vào thế kỷ 20. Nói tóm lại, trước nguy cơ đe doạ bị các cường quốc phương tây “thuộc địa hóa” vào hậu bán thế kỷ 19, biện pháp “thông minh” của Minh Trị Thiên hoàng là chọn con đường “hội nhập” để ứng phó, tách mình ra khỏi ảnh hưởng cũng như số phận như Trung Quốc và Triều Tiên, cướp thời cơ mở cửa với các  liệt cường phương tây để nhanh chóng  đưa Nhật bản phát triển thành một cường quốc ngang ngửa trên vũ đài quốc tế như chúng ta đã thấy qua hai cuộc chiến tranh Nhật – Thanh (1894) và chiến tranh Nhật – Nga (1905) trong chiến lược “Phú quốc Cường binh” kéo dài cho đến hai trận thế chiến I(1914-1918) và II (1939-1945) bùng nổ sau nầy! Với tư tưởng và chủ trương đầy tham vọng nêu trên, ngay từ đầu Nhà nước Minh Trị đã “quản lý” chặt chẽ, theo sát mọi chính sách và biện pháp cải cách giáo dục (với mục đích nhanh chóng sản sinh ra một lớp công nhân có tay nghề thích hợp và cần thiết cho phát triển với một tinh thần “trách nhiệm” trong thái độ lao động triệt để mà chúng ta đã thấy qua những thành công to lớn và cơ bản trong việc quản lý chất lượng hàng hóa trong sản xuất sau này) đưa Nhật Bản từ vị trí một nước nông nghiệp, lạc hậu về kỹ thuật từ cuối thế kỷ 19 sang  thành một nước có nền công nghiệp phát triển rực rỡ từ những năm 60 của thế kỷ trước mặc dù là kẻ bại trận liên tiếp trong hai cuộc chiến tranh thế giới, phải tháo bỏ chế độ quân phiệt và trả lại những “tô giới” ở Triều Tiên, Trung quốc, Đài loan và căn cứ quân sự và chế độ thực dân tại các nước Đông nam Á. Có người cho rằng hệ thống giáo dục của Nhật Bản thời Minh Trị mô phỏng theo hệ thống quản lý giáo dục của Pháp khi thiết lập “Trường Chuyên Môn” (như là những Grandes Ecoles ở Pháp) tiền thân của hệ thống đại học sau này. Nhưng khi xét về phần “Tư thục” thì có ý kiến mạnh mẽ kết luận rằng Nhật bản chịu nhiều ảnh hưởng của Mỹ khi nhìn vào sự thành công rực rỡ của quá trình hình thành hệ thống Trường tư thục qua mô hình “Lan học” (1858) đầu tiên theo giáo dục phương tây (người Nhật gọi là “Lan học”  tức học theo Hoà Lan thay vì gọi là Tây học như ở VN) sau này phát triển thành Đại Học Keio (1920) do  Fukuzawa Yukichi (1835-1901), một nhà tư tưởng và giáo dục nổi tiếng khởi xướng và sáng lập với sự hợp tác chặt chẽ của Hoa Kỳ. Thực tế cho thấy vào cuối hậu bán thế kỷ 19 đã có nhiều đoàn chuyên gia cấp cao của Nhật Bản, tổng cộng 48 người ( đặc biệt là Iwakura Tomomi , đại sứ từng làm việc ở Mỹ 1860, Châu Âu lần 1 vào năm 1862 và lần 2 vào năm 1863) lặn lội đi các nước từ Mỹ sang Châu Âu từ tháng 12/1871 đến tháng 9/1872 để tìm kiếm phương cách đổi mới qua việc học tập kinh nghiệm của Mỹ về y khoa, luật (tuy có phần lạc hậu so với Châu âu), kỹ thuật quân sự; sang Châu âu để học công nghiệp và giáo dục kỹ thuật của nước Anh, y tế của Hòa Lan, tổ chức chính quyền theo kiểu Đức Trong số nầy có người đã trở thành thủ tướng, bộ trưởng quan trọng sau nầy của chính quyền Minh trị như Ito Hirobumi, Okubo Toshimichi, Kido Takayoshi cho nên kết luận rằng Nhật Bản hấp thu kinh nghiệm của nhiều nước Âu-Mỹ để xây dựng cho mình một chế độ giáo dục hiện đại là điều không thể chối cãi (Wataru Hasegawa--tlđd). Tuy nhiên cũng phải khách quan thừa nhận rằng Nhật bản đã dần dà hình thành một nền giáo dục tiên tiến cho bản thân mình trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống kết hợp với những tư tưởng tiên tiến của nước ngoài thời bấy giờ một cách hiệu quả, trong đó vai trò lãnh đạo tuyệt đối và cương quyết của chính quyền Minh Trị đã trở thành nhân tố quyết định dẫn đến thành công trong công cuộc cải cách. Vì vậy hai chữ “thoát Á” của Fukuzawa Yukichi hàm ý nghĩa là Nhật bản phải rời bỏ tư tưởng hủ lậu và lỗi thời của triết học phương đông, mặc cho mình chiếc áo mới tây phương phù hợp với thời đại của cuộc cách mạng kỹ nghệ, rằng “chúng ta không những có thể thoát ra khỏi sự trì trệ lạc hậu cũ kĩ của nước Nhật Bản mà còn có thể  đặt lại được một trật tự mới trên toàn Châu Á” (Fukuzawa Yukichi), mà vẫn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, tôn thờ nhà vua, lễ giáo phong kiến thể hiện qua cách ứng phó nhạy bén và mềm dẻo của người Nhật, thí dụ việc “đón” tết theo lịch tây phương nhưng “ăn” tết theo kiểu đông phương là một điển hình cho thấy sự thức thời này, hay sự tồn tại và phát triển của những lễ hội  truyền thống, không mang màu sắc lai căng. Điều đáng lưu ý là trước khi “Chế độ Giáo dục” chính thức được ban hành vào năm 1872 thì ngay từ khi bắt tay soạn thảo những năm trước đó, Chính phủ đã lập ra một hội đồng gồm 7 học giả “tây học”, 2 người theo Hán học và Quốc học, 3 cán bộ hành chính(cũng là nhà giáo theo Tây học) trong đó Ủy viên xuất thân học từ Pháp chiếm vị trí quan trọng hơn cả (ngoài ra còn có các vị học từ Đức, Anh, Hòa Lan cũng có ảnh hưởng không nhỏ). Thực tế này chứng tỏ ngay từ đầu Nhà nước Minh trị đã vận dụng mọi khả năng để tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến của các nước một cách cương quyết, buộc các tầng lớp trong xã hội, sĩ nông công thương, nam nữ đều phải đi học (tiểu học), hủy bỏ chế độ ưu tiên cho tầng lớp quí tộc.[3]  Như vậy, có thể nói sự bình đẳng trong giáo dục ở Nhật Bản đã được xác lập rất sớm, mặc dù chính quyền đương thời qui định là phụ huynh phải thanh toán học phí, và nhà nước chỉ chịu phần chi phí cho những chương trình giáo dục dạy nghề trong học trình. Mặt khác, đây cũng là lần đầu tiên khái niệm về “trường chuyên môn” (dạy nghề) xuất hiện khi bộ luật nầy được bổ sung vào năm sau (1873). B.  Cải cách giáo dục lần thứ nhất Ngày 11 tháng 2 năm 1889 “Hiến Pháp Đế chế Đại Nhật Bản” đầu tiên được ban hành (năm Minh Trị thứ 22) xác nhận quyền “tham chính” (được quyền tham gia vào quốc hội, bầu cử, ứng cử) của nhân dân trong chế độ tam quyền phân lập (hành pháp, lập pháp và tư pháp) mặc dù đặt Thiên Hoàng Minh Trị ở vị trí tuyệt đối, mang tư cách của “thần” trong Thần đạo, có quyền ban bố những sắc lệnh hay mệnh lệnh bất chấp luật pháp hiện hành, bắt đầu cho những chính sách độc đoán đưa đến chủ nghĩa phát xít cực đoan sau nầy. Mặt khác, với chính sách “Gầy dựng công nghiệp” thực hiện trong 20 năm kể từ khi “duy tân”, Nhật bản đã hội đủ điều kiện để nhảy vào cuộc cách mạng kỹ nghệ vào năm 1890. Bộ trưởng Giáo dục Inoue Kowashi đã đẩy mạnh giáo dục-dạy nghề công nghiệp, đưa ra chương trình giáo dục “Thực nghiệp-kỹ thuật và khoa học kết hợp” với sự tham gia giảng dạy của nhiều chuyên gia nước ngoài, thích ứng với phát triển của cuộc cách mạng đang xảy ra như vũ bão không những ở Nhật Bản mà trên toàn thế giới vào những năm cuối thế kỷ 19. Hàng loạt trường chuyên môn, trường giáo dục thực nghiệp (là những loại trường dạy nghề sau khi tốt nghiệp tiểu học) ra đời. Ngoài ra còn có trường Thanh niên (đào tạo nghề ngắn hạn) ra đời năm 1899, từ con số trăm trong những năm 1870 đã vọt lên con số hàng chục nghìn khắp cả nước trong suốt một thời kỳ dài từ 1903-1947 theo lệnh lập “trường chuyên môn” ban hành năm 1903; lệnh này cho phép địa phương linh hoạt xây dựng trường đào tạo ngành nghề phù hợp với điều kiện và nhu cầu của mình. Trường dạy nghề tư thục cũng có điều kiện phát triển không kém, thậm chí có nơi trường dạy nghề do người nước ngoài xây dựng cũng đã trở nên phổ biến, lấn át cả hệ thống đào tạo nghề công lập với tỷ lệ công-tư  4/6 hay 3/7. C.  Cải cách giáo dục lần 2 Nhật Bản thực hiện cải cách giáo dục lần thứ hai dưới dự kiếm soát của G.H.Q (Tổng hành dinh chỉ huy quân đội đồng minh, do tướng Mac Arthur của Mỹ làm tư lệnh) sau khi Hiến pháp “dân chủ” mới, loại bỏ quyền lực tuyệt đối của Thiên Hoàng, được ban hành  vào ngày 3/11/1946. Cải cách lần này qui định áp dụng chế độ giáo dục cưỡng bách 9 năm tại Nhật bản, nâng cấp khả năng đào tạo của những cơ sở dạy nghề cũng như hoàn thiện hệ thống giáo dục đại học theo khuyến cáo của phía Hoa kỳ. Từ thời điểm nầy, chúng ta thấy con số thống kê về trường trung học cơ sở (cấp 2) hay trung học phổ thông (cấp 3) tăng nhanh một cách đáng kể. Các “trường chuyên môn” thời quân phiệt trước đây bị huỷ bỏ thay thế bằng “trường dạy nghề” hoặc được nâng cấp trở thành những trường đại học mới lập. Năm 1961, Nhật Bản thay đổi qui định hệ thống giáo dục dạy nghề trong Luật giáo dục, cho phép lập “trường cao đẳng chuyên nghiệp” với học trình 5 năm (gồm 3 năm trung học phổ thông và 2 năm chuyên tu) cùng tồn tại song song với trường dạy nghề đã có. Năm 1975, để đáp ứng yêu cầu nhân lực, Bộ Giáo dục Nhật Bản cho phép thành lập trường “chuyên tu kỹ thuật” gọn nhẹ và tập trung đào tạo cán sự kỹ thuật nhằm bổ sung cho hệ thống “đại học ngắn hạn”(2-3 năm) hay hệ thống đại học chính qui với học trình 4 năm.  Mục đích là để giảm bớt sức ép tranh nhau thi vào cửa hẹp của đại học do nhân khẩu trưởng thành tăng đột biến (“baby boom” sau thế chiến thứ hai), và tạo cơ hội cho những học sinh bị rớt trong các kỳ thi tuyển vào đại học vào trường dạy nghề với thời gian học ngắn hơn. Như vậy, có thể hiểu, trước khi nền kinh tế tri thức được xác lập vào những năm cuối thập kỷ 1990, học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở (cưỡng bách) có thể vào đi vào học trường “cao đẳng kỹ thuật ”(5 năm), trong khi học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông (cấp 3) có thể theo học trường “chuyên tu ”(1-2 năm) hay liên thông, chuyển qua học 2 năm cuối cùng của “Cao đẳng kỹ thuật” hay đi vào “Cao đẳng chuyên nghiệp”(2-3 năm) với khả năng tìm được việc làm dễ dàng hơn vì có nghề và kỹ năng hơn người có trình độ 4 năm ở đại học hay đại học “ngắn hạn” 2, 3 năm (Tanki Daigaku với giáo trình chung chung không hiệu quả, chủ yếu là lớp học ban đêm hay lớp dành cho phụ nữ với môn nữ công gia chánh, giáo viên tiểu học, máy móc cơ khí đơn giản). Tỷ lệ học sinh phổ thông và học sinh học nghề (1937-1952)  Năm Phổ thông Tỷ lệ(%) Thực Nghiệp(học nghề) Tỷ lệ (%) Tổng cộng 1937 780.053 65,2 416.949 34,8 1.197.002 1938 818.796 64,8 443.947 35,2 1.262.743 1939 866.979 64,1 486.141 35,9 1.353.120 1940 938.601 59,5 638.901 40,5 1.577.502 1941 1.037.729 61,5 649.940 38,5 1.687.669 1942 1.146.153 61,7 712.116 38,3 1.858.269 1943 1.352.770 63,4 782.096 36,6 2.134.866 1944 1.428.820 63,6 816.245 36,4 2.245.065 1945 1.432.335 63,5 823.413 36,5 2.256.248 1946 1.636.646 68,0 770.664 32,0 2.407.290 1947 620.622 69,9 307.605 33,1 928.227 1948 788.631 66,1 404.067 33,9 1.192.698 1949 1.035.001 64,7 563.631 35,3 1.598.632 1950 1.249.001 65,4 662.034 34,6 1.911.035 1951 1.393.898 64,3 774.339 35,7 2.168.237 1952 1.455.370 62,8 862.559 37,2 2.317.929  Nhận xét: Sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở tỷ lệ học sinh học nghề chiếm 33-40% trong khi phổ thông chiếm 61-70% và khuynh hướng tỷ lệ học nghề trên 30% kéo dài cho đến 1980 mới bắt đầu giảm dần. Điểm đáng tham khảo là không phải tốt nghiệp đại học là tìm ngay được việc làm, trừ một số ngành đặc biệt, khan hiếm như dịch thuật, thương mại, công nghệ thông tin, Ngân hànglà những ngành nghề có mức tăng trưởng cao trong thời kỳ kinh tế phát triển. Báo cáo năm 2006 của OECD về Giáo dục nhận xét Nhật Bản là nước đứng đầu trong các nước nhóm nầy về  đào tạo cấp giáo dục phổ cập cả về số lượng lẫn chất lượng. 89% học sinh Nam (bình quân của OECD là 82%) và 60% nữ (OECD là 65%) tốt nghiệp trung học phổ thông đều có việc làm, trong khi số nam học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở (cưỡng bách) thì 79% có việc làm ngay và nữ là 53% (vẫn cao hơn bình quân của OECD) trong trường hợp không đi học tiếp lên cấp 3.[4] Hiện tượng nầy khá giống với tình hình khan hiếm lao động có kỹ năng hiện nay ở Việt Nam, khi nhiều em sinh viên khoa cơ khí, hoá chất, vật liệu tốt nghiệp trường Đại học Bách Khoa nổi tiếng nhưng không kiếm được việc làm nên phải chuyển nghề, đi học lại hay thất nghiệp kéo dài vì thiếu kỹ năng cụ thể. Thậm chí có em học một lúc hai ba ngành tại các đại học khác nhau nhưng chỉ có những mảnh bằng trên giấy! D.  Khái quát về hệ thống giáo dục hiện nay tại Nhật Bản Trong những năm gần đây, những thành tựu rực rỡ về công nghiệp và phát triển kinh tế của Nhật Bản đã gây được nhiều sự chú ý trên thế giới. Mặc dù có nhiều sự quan tâm dành cho nền công nghiệp và giáo dục, nhưng vẫn còn rất ít những nghiên cứu có liên quan về việc đào tạo kỹ thuật cấp giáo dục phổ cập tại Nhật Bản. Vì vậy ngoài phần miêu tả lịch sử dạy nghề hình thành trong thời kỳ Minh Trị Duy Tân, phần tiếp theo sẽ nêu rõ tình trạng hiện nay và những thách thức trong tương lai của việc đào tạo kỹ thuật ở Nhật Bản. Sở dĩ như vậy là vì có mối quan hệ rất khắng khít giữa các vấn đề đào tạo kỹ thuật ở trường cấp 2 cơ sở với các môn Kỹ thuật và đào tạo kỹ năng (lý thuyết) ở trường trung học phổ thông và sự liên thông với Cao đẳng chuyên nghiệp sau khi tốt nghiệp ở cấp phổ thông. Chú thích bổ sung bảng 1:     Trong mục  các loại trường kỹ thuật, có loại đào tạo sau: §  Loại chỉ đào tạo trong 3 năm cho các em tốt nghiệp Trung học cơ sở (gọi là Trung học Kỹ thuật hay Trung học Chuyên nghiệp, kết hợp giữa giáo dục phổ cập và dạy nghề) và §  Loại 5 năm (THKT + 2 năm) gọi là Cao đẳng kỹ thuật), khác với trường  Cao Đẳng ở Việt Nam, chỉ mở cho học sinh sau THPT mà thôi. §  Trường đào tạo chuyên ngành như y tế cộng đồng, y tá, dược tá, chăm sóc người giàcủa nhà nước (2-3 năm theo yêu cầu của bộ môn) §  Trường chuyên tu (tư nhân) là những cơ sở dạy nghề cụ thể như Hớt tóc, Cắm hoa, dạy tiếng nước ngoài, thư đạo, văn hóa đời sống, đầu bếpThường là 1-2 năm , nằm ngoài hệ thống đào tạo của giáo dục của nhà nước. §  Ngoài ra còn có Trung tâm Huấn luyện Nghề (của quận huyện thành phố) công lập là cơ sở đào tạo nghề mới(hoàn toàn miễn phí) cho những người muốn đổi nghề, về hưukhông giới hạn tuổi tác để giải quyết tình trạng thất nghiệp (xóa đói giảm nghèo như ở Việt nam) Như trên đã nói, cấu trúc của hệ thống giáo dục công tại Nhật Bản sau Thế Chiến II dựa theo mô hình của hệ thống giáo dục Hoa Kỳ. Bảng 1 cho thấy phân loại các loại trường chủ yếu trong mô hình giáo dục Nhật Bản. Cơ sở của hệ thống giáo dục của Nhật Bản hiện đại là giáo dục phổ cập 9 năm, mang tính cưỡng bách. Chế độ cưỡng bách giáo dục với 9 năm này gồm 6 năm tại trường tiểu học và 3 năm tại trường  trung học cơ sở (cấp 2). Trên thực tế, tất cả (gần 100%) học sinh Nhật Bản hoàn tất chương trình giáo dục phổ cập (cưỡng bách) này. Sau khi tốt nghiệp cấp 2, khoảng 95% học sinh tiếp tục lên cấp 3 phổ thông  hoặc chọn vào một trường trung học kỹ thuật, hay trương chuyên tu để học nghề cụ thể.  Trong số đó, có khoảng dưới 2% học sinh bỏ học trước khi tốt nghiệp vì lý do tật bệnh, tìm cách ra đời sớm (Sách Trắng của Bộ giáo dục, khoa học và văn hoá, niên khóa 1991). Tỷ lệ người biết chữ cao nhất trên thế giới có thể xem là một thành tựu đáng nể của nền giáo dục Nhật Bản từ sau Thế Chiến II, số người Nhật trẻ tuổi  gia nhập vào lực lượng lao động với trình độ văn hoá cao hơn nhiều so với trước đây. Vào năm 1950, 45.2% học sinh Nhật tốt nghiệp cấp 2, tức là sau khi hoàn tất chương trình giáo dục cưỡng bách, bắt đầu đi làm việc ở độ tuổi 15, còn 43% học sinh vào trung học phổ thông để tiếp tục học. Hiện nay tỷ lệ học tiếp ở trung học phổ thông đã đến mức 95-97%. Cũng bởi lý do đó, lực lượng lao động Nhật Bản trong ba thập kỷ 1960-1980 là một sự pha trộn giữa những người lao động lớn tuổi với trình độ văn hoá thấp nhưng tay nghề cao, ngày càng giảm dần và những người lao động trẻ tuổi có trình độ văn hóa cao hơn nhưng ngược lại tay nghề kém phải “đào tạo lại” sau khi được thu nhận vào xí nghiệp. 1. Chương trình giảng dạy trong thời kỳ chuyển tiếp  Không giống như Hoa Kỳ, hệ thống giáo dục công lập Nhật Bản chiếm đa số tuyệt đối, hơn 95%-98% ở cấp tiểu học và phổ thông cơ sở, và lại do nhà nước quản lý tập trung.  Mọi chương trình giảng dạy cho bậc tiểu học, cấp 2 cơ sở và phổ thông trung học được ban hành và quản lý chặt chẽ bởi Bộ giáo dục. Cứ khoảng 10 năm, Bộ giáo dục lại ban hành giáo trình và sách giáo khoa theo tiêu chuẩn mới, với nội dung chi tiết hướng dẫn được viết ra cụ thể cho mỗi môn học tại trường tiểu học và các trường cấp 2 để hướng dẫn cho giáo viên. Những đề nghị cho việc chỉnh sửa các chương trình giảng dạy và sách giáo khoa được đề ra bởi các hội đồng chuyên môn khác nhau bao gồm các chuyên gia về giáo trình, giáo sư tại các trường đại học, giáo viên, thành viên của các ban ngành giáo dục tại địa phương và những bậc thức giả có kinh nghiệm khác trong xã hội.  Tương tự như vậy, những cải tiến chương trình đào tạo kỹ thuật tại Nhật Bản sau Thế Chiến II có thể được xem xét dưới bối cảnh của 5 giai đoạn theo lộ trình phát triển kinh tế: 1-Thời kỳ tái thiết (1950-1960) 2-Thời kỳ phát triển tốc độ cao (1960-1974) 3-Thời kỳ kinh tế ổn định (1975-1979) 4-Thời kỳ quốc tế hoá nền kinh tế (1980-1995) 5-Thời kỳ  “Kinh tế tri thức” (1995-thế kỷ 21) Bảng 2 dưới đây cho thấy các điều kiện kinh tế-xã hội với đặc tính của từng thời kỳ, và tỷ lệ phần trăm tốt nghiệp phổ thông trung học và số người đi học cấp cao hơn.  Bảng 2. Phát triển kinh tế xã hội và đào tạo dạy nghề (1950-1990)  Thời kỳ Các điều kiện kinh tế xã hội Số học sinh lên cấp 3 Vào caođẳng chuyên nghiệp / đại học Tái thiết kinh tế (1) Thiếu thốn về nhà ở và thức ăn 43.0%(1950) 51.5%(1955) 10.1%(1955) Phát triển cao về kinh tế (2) Tăng trưởng về khoa học và kỹ thuật Tăng trưởng nhanh về kinh tế (khoảng 10%). 57.7%(1960) 70.7%(1965) 82.1%(1970) 10.3%(1960) 17.1%(1965) 24.0%(1970) Kinh tế ổn định (3) Khủng hoảng dầu (1971 & 74). Kinh tế phát triển chậm và ổn định (3-5%). 91.9%(1975) 94.0%(1980) 34.2%(1975) 31.9%(1980) Quốc tế hoá (4) Sự phát triển của vi điện tử và công nghiệp dịch vụ Sự quốc tế hoá nền kinh tế 94.1%(1985) 94.7%(1989) 30.5%(1985) 30.6%(1989) 2. Việc xây dựng môn giáo dục dạy nghề kỹ thuật như là một môn bắt buộc Chính sách tích cực đối với giáo dục đào tạo nghề tại Nhật Bản có một quá trình lịch sử lâu dài. Trong bài diễn văn ở Hạ viện vào năm 1894, Inoue Kowashi, Bộ trưởng bộ Giáo dục Nhật Bản phát biểu: “Chúng ta có thể thấy rất rõ ràng là cuộc chạy đua trên thế giới chủ yếu là phát triển công nghiệp chứ không phải là quân sự. Nền khoa học của chúng ta đã phát triển một cách thoả đáng, thế nhưng việc đào tạo về kỹ thuật thì vẫn còn ở mức độ thấp. Tình trạng này cũng giống như quân đội có đầy đủ các chiến thuật tốt nhưng lại không đủ binh lực chiến đấu. (Passin,1982) . Việc Bộ trưởng Giáo dục Nhật Bản gợi lên hình ảnh của quân đội dựa trên bối cảnh của  cuộc chiến tranh Nhật-Thanh (1894-1895) với hàm ý rằng Nhật Bản phải có sức mạnh về kỹ thuật mới có thể thực hiện được chiến lược “Phú quốc cường binh”. Tư duy nầy đã thể hiện rõ rệt trong cuộc chiến tranh Nhật-Nga bùng nổ vào 10 năm sau đó với thắng lợi của một nước Nhật hùng mạnh.  Trong thời gian nầy, luật giáo dục dạy nghề quốc gia đầu tiên ra đời, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong vấn đề đạo tạo nguồn lao động có kỹ năng như đã đề cập ở trên. Từ năm 1899, các ngành nông nghiệp, thuỷ sản, rừng và các chương trình công nghiệp được chính thức đưa vào chương trình trung học cấp 2. Tuy có thay đổi về chủ trương giáo dục sau thế chiến với những khuyến cáo của phía Mỹ nhưng việc dạy nghề trong nhà trường vẫn được tiếp tục xác lập trở lại từ năm 1958. Giáo dục hướng nghiệp ở cấp phổ cập với nội dung được tóm tắt như sau:  Từ năm 1958, giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề đã được đưa vào cả những trường phổ thông trung học phổ thông và lẫn trường cấp 2. Mặc dù khái niệm hướng nghiệp trong trường trung học phổ cập hỗn hợp (vừa dạy chữ vừa dạy nghề) là một trong những mục tiêu của cải cách giáo dục dạy nghề ở Hoa Kỳ, nhưng nó chưa bao giờ trở thành mẫu hình chiếm ưu thế tại Nhật Bản. Khoảng hơn phân nửa các trường phổ thông trung học tại Nhật Bản chỉ cung cấp các chương trình lý thuyết, những trường còn lại chia đều ra 2 loại: trường hỗn hợp (vừa dạy chữ vừa dạy nghề) và trường dạy nghề (phỏng theo mô hành của Bộ Giáo dục Hoa Kỳ, 1987). Nói một cách khác, hầu hết các trường phổ thông trung học tại Nhật Bản cung cấp các chương trình lý thuyết nhằm chuẩn bị cho học sinh bước lên bậc học cao hơn mà không có các khoá học hướng nghiệp hay dạy nghề cụ thể. Vì thế, hầu hết các học sinh Nhật Bản tham gia vào các khoá học hướng nghiệp dạy nghề cụ thể đều không đủ trình độ nghề nghiệp nên phải theo học tiếp một số môn ở các trường dạy nghề như cao đẳng chuyên nghiệp kỹ thuật hay trường chuyên tu kỹ thuật. Thí dụ trong năm học 1990, có khoảng 26% học sinh trung học phổ thông tham gia vào các lớp học hướng nghiệp, dạy nghề tức khoảng ¼ số học sinh rời ghế nhà trường phổ thông để đi vào trường cao đẳng chuyên

File đính kèm:

  • docgiao_duc_day_nghe_o_nhat_ban_chia_khoa_di_vao_hien_dai_hoa_k.doc
Giáo án liên quan