I/ Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết mục tiêu của nền giáo dục là đào tạo ra những con người phát triển hài hoà về nhiều mặt: Đức, trí, thể, mỹ và bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy, sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Mục tiêu này lại được cụ thể hoá trong các mục tiêu của các môn học trong chương trình dạy học ở trường THPT. Để thực hiện tốt mục tiêu này bên cạnh việc nắm vững hệ thống kiến thức của chương trình, nội dung kiến thức và mục tiêu của từng phân môn thì một yếu tố không kém phần quan trọng đó là phương pháp dạy học.
Trong quá trình công tác tôi luôn nghiên cứu tìm tòi những phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với trình độ của từng đối tượng học sinh để giúp các em nắm vững kiến thức và luôn hứng thú học tập môn địa lí của học sinh.
Từ thực tiễn của việc đổi mới chương trình - sách giáo khoa (SGK) địa lí và thực tiễn của việc giảng dạy môn địa lí ở trường THPT trong các năm vừa qua, nhằm góp phần nâng cao khả năng và giúp học sinh (HS) có khả năng nhận thức kiến thức và tự hoàn thiện kiến thức.Tôi nhận thấy rằng việc nghiên cứu “Phương pháp sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học địa lí”,cụ thể là “Khai thác kiến thức từ tranh ảnh trong sách giáo khoa địa lí lớp 10” trong dạy học địa lí nói chung và địa lí 10 nói riêng và đưa ra những nguyên tắc chung trong khai thác kênh hình là rất cần thiết.
24 trang |
Chia sẻ: lephuong6688 | Lượt xem: 1166 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khai thác kiến thức từ tranh ảnh trong sách giáo khoa Địa Lý, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
-
Së gi¸o dôc vµ ®µo t¹o h¶i phßng
Trêng thpt lª quý ®«n
-----------
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
Khai th¸c kiÕn thøc tõ tranh ¶nh
trong s¸ch gi¸o khoa ®Þa lý
Líp 10
L¬p
Líp 10
T¸c gi¶ : bïi thÞ ph¬ng loan
Chøc vô: Gi¸o viªn
Trêng: THPT Lª Quý §«n
N¨m häc: 2011-2012
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BẢN CAM KẾT
I. TÁC GIẢ:
Họ và tên : BÙI THỊ PHƯƠNG LOAN
Ngày, tháng, năm sinh: 07/12/1966
Đơn vị : Tổ Sử - Địa - Giáo dục công dân -Trường THPT Lê Quý Đôn.
Điện thoại: 0313744760 Di động: 0984874906
E-mail: loanlequydon@yahoo.com.vn
II. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
KHAI THÁC KIẾN THỨC
TỪ TRANH ẢNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA ĐỊA LÝ 10
III. CAM KẾT
Tôi xin cam kết sáng kiến kinh nghiệm này là sản phẩm của cá nhân tôi. Nếu có xảy ra tranh chấp về quyền sở hữu đối với một phần hay toàn bộ sáng kiến kinh nghiệm, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Sở GD&ĐT về tính trung thực của bản cam kết này.
Hải Phòng, ngày 20 tháng 01 năm 2012
Người cam kết
Bùi Thị Phương Loan
DANH SÁCH CÁC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ VIẾT
TT
Tên SKKN
Thuộc thể loại
Năm viết
Xếp loại
1
Xây dựng tập thể tự quản trong giờ sinh hoạt.
Chủ nhiệm
lớp
2005
A
2
Xây dựng kênh hình trong giảng dạy địa lí.
Chuyên môn
2006
A
3
Kiểm tra đánh giá bằng phương pháp trắc nghiệm viết.
Chuyên môn
2007
A
4
Khai thác kiến thức từ biểu đồ và số liệu thống kê.
Chuyên môn
2008
A
5
Rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa địa lí.
Chuyên môn
2009
A
6
Sử dụng phương pháp làm việc nhóm.
Chuyên môn
2010
A
7
Kĩ năng nhận dạng và giải quyết vấn đề đối với bài kiểm tra-bài thi.Môn địa lí 12
Chuyên môn
2011
B
...
...
...
...
A - ĐẶT VẤN ĐỀ
I/ Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết mục tiêu của nền giáo dục là đào tạo ra những con người phát triển hài hoà về nhiều mặt: Đức, trí, thể, mỹ và bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy, sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Mục tiêu này lại được cụ thể hoá trong các mục tiêu của các môn học trong chương trình dạy học ở trường THPT. Để thực hiện tốt mục tiêu này bên cạnh việc nắm vững hệ thống kiến thức của chương trình, nội dung kiến thức và mục tiêu của từng phân môn thì một yếu tố không kém phần quan trọng đó là phương pháp dạy học.
Trong quá trình công tác tôi luôn nghiên cứu tìm tòi những phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với trình độ của từng đối tượng học sinh để giúp các em nắm vững kiến thức và luôn hứng thú học tập môn địa lí của học sinh.
Từ thực tiễn của việc đổi mới chương trình - sách giáo khoa (SGK) địa lí và thực tiễn của việc giảng dạy môn địa lí ở trường THPT trong các năm vừa qua, nhằm góp phần nâng cao khả năng và giúp học sinh (HS) có khả năng nhận thức kiến thức và tự hoàn thiện kiến thức.Tôi nhận thấy rằng việc nghiên cứu “Phương pháp sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học địa lí”,cụ thể là “Khai thác kiến thức từ tranh ảnh trong sách giáo khoa địa lí lớp 10” trong dạy học địa lí nói chung và địa lí 10 nói riêng và đưa ra những nguyên tắc chung trong khai thác kênh hình là rất cần thiết.
II/ Mục đích nghiên cứu:
- Nhằm tận dụng tối đa và sử dụng hiệu quả các kênh hình trong SGK địa lí.
-Giúp HS có khả năng nhận thức kiến thức và nắm vững kiến thức,tự hoàn thiện kiến thức trong và sau bài học.
- Góp phần thực hiện chủ trương nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập bộ môn địa lí.
III/Đối tượng và pham vi nghiên cứu của đề tài:
a/Đối tượng nghiên cứu: HS lớp 10 và giáo viên (GV) trong học tập và giảng dạy môn địa lí ở trường THPT Lê Quý Đôn.
b/Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này tôi nghiên cứu ở một số bài học địa lí 10, chương trình SGK ban cơ bản và giới hạn trong việc tạo kĩ năng khai thác kiến thức từ tranh ảnh trong SGK của HS và GV.
IV/Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp thử nghiệm.
-Phương pháp quan sát qua các tiết dự giờ thao giảng.
-Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp khảo sát, thống kê.
V/ Thời gian nghiên cứu:
Dự kiến sẽ nghiên cứu đề tài này trong thời gian 3 năm từ 2009-2010-2011 ( cho khối 10 ) đến năm học 2012-2013 ( cho khối 12).
VI/Kết quả cần đạt được:
-Đề tài có thể ứng dụng làm tài liệu tham khảo cho GV trong giảng dạy địa lí.
-Dùng cho HS nghiên cứu để hình thành kĩ năng, phương pháp học tập tốt hơn.
B: NỘI DUNG
I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN:
“Khai thác kiến thức từ tranh ảnh trong sách giáo khoa địa lí” thuộc nhóm “Phương pháp sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học địa lí”. Vậy trước khi nghiên cứu phương pháp “Khai thác kiến thức từ tranh ảnh trong sách giáo khoa địa lí” chúng ta sẽ tiến hành:
1/ Tìm hiểu phương pháp dạy học trực quan:
a/ Khái niệm : Trước khi nghiên cứu phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan trong giảng dạy địa lí, chúng ta cần phải xác đinh nội dung khái niệm “Phương tiện trực quan”(PTTQ)
Trong giảng dạy địa lí, HS nhận biết các hiện tượng và sự vật không chỉ bằng tai nghe mà còn bằng mắt nhìn, hoặc cầm nắm.Vậy tất cả những cái gì có thể lĩnh hội (tri giác) nhờ sự hỗ trợ của các tín hiệu ngoài lời giảng của giáo viên đều gọi là PTTQ.
Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp sử dụng các PTTQ trước, trong và sau khi lĩnh hội kiến thức, tài liệu học tập mới. Sử dụng các PTTQ nhằm gợi mở và hướng dẫn HS khai thác các nguồn tri thức và phát triển các năng lực tư duy, sáng tạo cho HS.
b/ Vai trò của phương pháp dạy học trực quan :
Phương pháp dạy học trực quan có vai trò rất quan trọng đối với việc dạy và học địa lý, đặc biệt là đối với dạy và học môn địa lý theo phương pháp đổi mới. Bởi vì HS chỉ có thể quan sát được một phần nhỏ các đối tượng xung quanh, còn phần lớn các đối tượng khác thì không có điều kiện quan sát trực tiếp.Các phương tiện dạy học trực quan vừa là phương tiện để dạy học, nhưng nó vừa chứa đựng nguồn tri thức cụ thể cho học sinh khai thác. Các phương tiện dạy học trực quan được thể hiện thông qua phương pháp dạy học trực quan, giúp học sinh hiểu bài nhanh chóng và nhớ lâu hơn, đặc biệt nó gây hứng thú học tập, kích thích trí tò mò, khả năng sáng tạo của học sinh, làm cho giờ học thêm sinh động.
c/ Các phương pháp trong “phương pháp dạy học trực quan”:
- Phương pháp sử dụng bản đồ.
- Phương pháp sử dụng tranh ảnh, hình vẽ.
- Các phương pháp khác.
d/Hình thức sử dụng phương tiện trực quan.
Người GV địa lí muốn vận dụng phương pháp sử dụng các PTTQ, thì cần phải nắm được nội dung, hình thức và đặc điểm của từng loại phương tiện (Gọi là phương pháp).PTTQ theo ý kiến của M.V.Xtuđênikin, bao giờ cũng có hai chức năng: vừa là đồ dùng để minh hoạ, vừa là nguồn tri thức.
Nếu sử dụng nó như một nguồn tri thức để cho HS khai thác trong quá trình học tập thì việc sử dụng PTTQ có thể coi như một phương pháp, còn chỉ sử dụng nó như một đồ dùng để minh hoạ, thì đó chỉ là một biện pháp phục vụ cho phương pháp dùng lời.
Hiện nay việc sử dụng PTTQ thường có hai hình thức:
-GV dùng các PTTQ để vừa giảng, hướng dẫn HS tìm ra kiến thức và vừa minh hoạ những kiến thức địa lí để HS dễ lĩnh hội kiến thức, qua việc tri giác trực tiếp đối tượng quan sát.
-GV dùng câu hỏi hướng dẫn học sinh quan sát các phương tiện trực quan và yêu cầu giải thích những kiến thức trong bài hoặc làm sáng tỏ những mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng địa lí.
e/Những yêu cầu khi sử dung phương tiện trực quan
Vì các PTTQ có tác dụng chủ yếu là tạo cho học sinh những biểu tượng sinh động, gần với thực tế về các sự vật, hiện tượng cũng như quá trình địa lí, cho nên trong quá trình sử dụng chúng, GV cần phải chú ý đến một số yêu cầu như:
+ Cần lựa chọn PTTQ sao cho phù hợp với mục đích sư phạm, với nội dung bài dạy.
+ Cần triệt để khai thác tính trực quan của chúng để phục vụ cho hoạt động nhận thức của học sinh.
+ Cần quan tâm đến các yêu cầu về mỹ thuật, kĩ thuật và kinh tế.
2/Phương pháp sử dụng các tranh ảnh trong việc dạy địa lí.
Nhiệm vụ chính của tranh ảnh (Tranh ảnh địa lí treo tường, tranh ảnh địa lí trong sách giáo khoa, tranh ảnh đial lí khổ nhỏ cắt ra từ hoạ báo, tạp chí..v.v...) là hình ảnh cho HS những biểu tượng cụ thể về địa lí.Trong các loại kể trên, có ý nghĩa quan trọng hơn cả là các tranh treo tường in sẵn và các tranh ảnh địa lí trong sách giá khoa, vì nội dung của chúng đều được lựa chọn cẩn thận, phù hợp với nội dung các bài dạy trong chương trình.
Tranh ảnh minh hoạ có thể sử dụng trong nhiều khâu giảng dạy khác nhau, nhưng nhiều hơn cả là trong khâu lĩnh hội tri thức mới của HS bằng cách:
-GV có thể cho HS quan sát, đặt một số câu hỏi cho HS phân tích tranh trước, rồi sau đó mới dùng cách quy nạp trình bày tài liệu, rút ra kết luận. Nhưng cũng có thể,
Gv dùng tranh ảnh để củng cố bài học,bổ sung kiến thức cho HS sau khi dạy .
-GV dùng phương pháp đàm thoại để hướng dẫn HS quan sát, tập trung chú ý khai thác những chi tiết quan trọng. HS trong khi lĩnh hội tri thức phải vừa quan sát , vừa suy nghĩ, trả lời những câu hỏi của GV.
-Trong khi giải thích tài liệu mới, GV cũng có thể kết hợp việc minh hoạ bài bằng tranh ảnh với việc đọc tài liệu trong sách giáo khoa. Khi tranh ảnh không nêu được các chi tiết quan trọng của đối tượng thì GV phải bổ sung bằng các hình vẽ trên bảng.
-Trong quá trình dạy, tranh ảnh cũng phải được sử dụng đúng chỗ, đúng lúc thì mới phát huy được hết tác dụng không làm cho HS giảm hứng thú, phân tán tư tưởng.
II/CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1/ Thực trạng sử dụng tranh ảnh trong dạy và học địa lí ở trường THPT:
a/ Về phía giáo viên :
Chúng ta cần nhìn thẳng vào vấn đề: Hầu hết các GV có sử dụng tranh ảnh trong SGK nhưng chưa thường xuyên, sử dụng còn qua loa, nên vai trò và chức năng của đồ dùng trực quan nói chung và tranh ảnh nói riêng, bị hạn chế rất nhiều mà trong khi đó chương trình địa lí mới đã biên soạn lại nội dung và bổ sung thêm các kênh hình. Vì những lý do trên nên kết quả dạy - học theo phương pháp mới vẫn chưa cao.
Việc nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp“Khai thác kiến thức từ tranh ảnh trong sách giáo khoa địa lí” để đi đến ứng dụng cho tất cả giáo viên dạy địa lí có ý nghĩa lí luận và thực tiễn rất lớn.
Thông qua kinh nghiệm giảng dạy môn địa lí cấp THPT trong nhiều năm và kinh nghiệm qua 4 năm thực hiện đổi mới chương trình sách giáo khoa lớp 10, vừa qua tôi đã nhiều lần thực hiện có hiệu quả.
b/ Về phía học sinh: Do quan niệm đây là bộ môn phụ nên HS chưa đầu tư thời gian thích đáng cho việc học tập bộ môn. Phần vì kiến thức Địa lý khá trìu tượng, nhiều mối quan hệ tự nhiên - xã hội rất phức tạp, bản chất là một môn học rất khô khan nên học sinh ít thích học.
Đề tài có thể dùng cho học sinh nghiên cứu để hình thành kĩ năng, phương pháp học tập tốt hơn.
Khi bắt đầu nghiên cứu đề tài giảng dạy khối 10, xuất phát từ cơ sở lí luận và yêu cầu thực tiễn trên, để bổ sung kiến thức cho chính bản thân mình và để giúp các em học sinh học tập môn Địa lý đạt kếtt quả cao đồng thời tạo hứng thú học tập của học sinh với bộ môn Địa lý được tốt hơn, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Khai thác kiến thức từ tranh ảnh trong sách giáo khoa địa lí” để nghiên cứu.
2/ Giải pháp khắc phục:
Trong điều kiện dụng cụ trực quan còn chưa được cung cấp đồng bộ. Trước mắt người giáo viên phải biết linh hoạt vận dụng mọi biện pháp, mọi khả năng có thể để xây dựng kế hoạch hoạt động cho mình, tự thiết kế những đồ dùng đơn giản. Sưu tầm tranh ảnh minh họa, cung cấp thông tin cho học sinh hoặc vẽ những sơ đồ, hình vẽ trong sách giáo khoa phóng to để sử dụng.
Như vậy việc chuẩn bị của giáo viên ở nhà là rất quan trọng, giáo viên phải nghiên cứu thật kỹ nội dung bài dạy để sáng tạo cho mình những đồ dùng trực quan phù hợp sinh động nhất.
Đối với những đồ dùng trực quan đã có sẵn chúng ta cần khai thác triệt để lượng kiến thức cho phép trong đồ dùng trực quan đó phát huy vai trò của đồ dùng trực quan, của kênh hình và kênh chữ trong một bài học, chú trọng vào chất lượng dạy và học, lựa chọn phương pháp phù hợp cần kết hợp giữa khai thác, kiểm tra và rèn luyện kỹ năng cho học sinh.
III/ Khai thác kiến thức từ tranh ảnh trong sách giáo khoa địa lí 10
( Cụ thể áp dụng : Bài 5; Bài 6; Bài 15; Bài 16 địa lý 10 –Ban cơ bản)
1/ Một số vấn đề trong dạy học địa lí 10:
Đối với chương trình địa lí 10 được biên soạn theo tinh thần cung cấp các tình huống, thông tin đã được lựa chọn. Vậy giáo viên phải tổ chức học tập, phân tích,
tổng hợp và xử lí thông tin, tạo điều kiện cho HS trong quá trình học tập vừa tiếp
nhận được kiến thức vừa rèn luyện các kỹ năng và nắm được phương pháp học tập tạo điều kiện tự khám phá, tự phát hiện, tự tìm đến với kiến thức mới, phát huy tính
tích cực, độc lập của học sinh.
Những tranh ảnh, hình vẽ trong sách giáo khoa không đơn thuần chỉ là minh họa cho bài giảng mà chúng còn gắn bó hữu cơ với bài học là một phần không thể thiếu được trong nội dung bài học.
2. Một số ví dụ cụ thể:
a) Ví dụ 1: Bài 5: VŨ TRỤ. HỆ MẶT TRỜI VÀ TRÁI ĐẤT. HỆ QUẢ CHUYỂN ĐỘNG TỰ QUAY QUANH TRỤC CỦA TRÁI ĐẤT
(SGK-Ban cơ bản-Địa lí 10, trang 19).
Phần I-mục2 : Hệ Mặt Trời và mục 3: Trái Đất trong Hệ Mặt Trời
Nếu chỉ đơn thuần khai thác kênh chữ thì cả GV và HS sẽ vô tình bỏ qua vị trí của Trái Đất trong hệ Mặt Trời, quỹ đạo và hướng chuyển động của các hành tinh.Như vậy phần quan trọng nhất trong mục (2) sẽ bị bỏ qua. Trong phần này kênh hình đã thể hiện đầy đủ nội dung cơ bản của mục (2). Chỉ bằng một câu hỏi:
-Quan sát hình 5.2: Các hành tinh trong Hệ Mặt Trời và quỹ đạo chuyển động của chúng(SGK- địa lí 10-bạn cơ bản, trang 19),nô SGK, vốn hiểu biết trả lời các câu hỏi:
-Hãy mô tả về Hệ Mặt Trời
-Kể tên các hành tinh trong Hệ Mặt Trời .
-Nhận xét hình dạng quỹ đạo và hướng chuyển động của các hành tinh.
-Các hành tinh trong Hệ Mặt Trời có những vận động chính nào?
-Trái Đất nằm ở vị trí thứ mấy trong hệ Mặt trời tính theo thứ tự xa dần Mặt Trời ?
-Trái Đất có điểm gì khác các hành tinh ?(Dựa vào hình 5.2)
-Trái Đất có những chuyển động nào?
*Học sinh sẽ quan sát H5.2 và dễ dàng trả lời được yêu cầu của giáo viên, sau đó giáo viên có thể tổng kết mục (2) như sau:
-Khái niệm Hệ Mặt Trời: có Mặt trời ở trung tâm, cùng với các thiên thể(....) chuyển động xung quanh và các đám bụi khí.
-Hệ Mặt trời gồm 8 hành tinh: Thuỷ tinh(nhỏ nhất), Kim tinh,Trái Đất, Hoả tinh, Mộc tinh(lớn nhất),Thổ tinh,Thiên Vương tinh, Hải Vương tinh.
-Quỹ đạo chuyển động của các hành tinh là các hình elíp, cùng nằm trên một mặt phẳng và đều có hướng chuyển động ngược chiều kim đồng hồ.
(Vì HS quan sát thấy trên hình có các hình elíp và hướng mũi tên)
-Các hành tinh vừa tự quay, vừa chuyển động quanh Mặt Trời.-Trái Đất là một trong 8 hành tinh của Hệ Mặt Trời.
-Trái Đất ở vị trí thứ 3 tính theo thứ tự xa dần Mặt Trời.
-Trái Đất là hành tinh duy nhất có sự sống.
(vì HS dựa và màu sắc của các hành tinh thấy Trái Đất được thể hiện bằng màu xanh trên hình 5.2).
-Trái Đât vừa tự quay, vừa chuyển động tịnh tiến xung quanh Mặt Trời.
*Từ sự tìm hiểu ở trên GV có thể ra một số câu hỏi nâng cao cho HS khá giỏi như: Vì sao Trái Đất là hành tinh duy nhất có sự sống?
*Dựa vào kiến thức vừa lĩnh hội và kênh hình HS thấy rằng do: Trái Đất ở vị trí số 3 (không gần Mặt Trời quá và cũng không xa Mặt Trời quá) và Trái Đất tự quay quanh trục nên nhận được ánh sáng và lượng nhiệt phù hợp với sự sống
Như vậy, việc sứ dụng hình 5.2 vừa là phương tiện minh hoạ kiến thức trong SGK, vừa là phương tiện lĩnh hội tri thức mới.
b) Ví dụ 2: Hệ quả chuyển động quanh Mặt Trời của Trái Đất.
- Bài6:HỆ QUẢ CHUYỂN ĐỘNG XUNG QUANH MẶT TRỜICỦA TRÁI ĐẤT. (SGK-Địa lí 10, trang 22-23-Ban cơ bản).
Phần II:Các mùa trong năm.
- Quan sát hình 6.2:Các mùa theo dương lịch ở Bắc bán cầu (trang 23 SGK-Địa lí 10), và vốn hiểu biết hãy trả lời các câu hỏi sau:
+ Hướng chuyển động của TRái Đất quang Mặt Trời?
+Độ nghiêng và hướng nghiêng của trục Trái Đất ở vi trí: Xuân phân, Hạ chí, Thu
Phân, Đông chí?
+Ở Bắc bán cầu các mùa bắt đầu từ ngày nào?
+ Thời gian bắt đầu mùa của các nước dùng âm – dương lịch?
+Mùa của Bắc bán cầu và Nam bán cầu diễn ra như thế nào?
+ Trong ngày 22/6 (hạ chí), nửa cầu nào ngả về phía Mặt Trời? Khi đó lúc 12 giờ trưa ánh sáng Mặt Trời chiếu thẳng góc vào nơi nào trên bề mặt Trái Đất ?
+ Trong ngày 22/12 (đông chí), nửa cầu nào ngả về phía Mặt Trời? Khi đó lúc 12 giờ trưa ánh sáng Mặt Trời chiếu thẳng góc vào nơi nào trên bề mặt Trái Đất?
+ Trái Đất hướng cả hai nửa cầu Bắc và Nam về phía Mặt Trời như nhau vào các ngày nào? Khi đó lúc 12 giờ trưa ánh sáng Mặt Trời chiếu thẳng góc vào nơi nào trên bề mặt Trái Đất?
*HS: Dựa vào Hình 6.2: và theo hướng dẫn của giáo viên sẽ rút ra kiến thức:
+ Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời theo hướng từ Tây sang Đông;
+ Độ nghiêng và hướng nghiêng của trục không đổi.
+Vị trí các ngày:Xuân phân(21/3),Hạ chí(22/6),Thu phân(23/9),Đông chí (22/12).
+Trong năm có 4 mùa ,gồm các mùa: xuân, hạ, thu, đông.
+Ở Bắc bán cầu các mùa bắt đầu từ ngày:
Mùa xuân bắt đầu từ ngày 21/3 đến ngày 22/6
Mùa hạ bắt đầu từ ngày 22/6 đến ngày 23/9
Mùa thu bắt đầu từ ngày 23/9 đến ngày 22/12
Mùa đông bắt đầu từ ngày 22/12 đến ngày 21/3
+Căn cứ vào các ngày bắt đầu mùa của hình5.2 HS sẽ tính được ngày bắt đầu các mùa của các nước dùng âm-dương lịch.
+Mùa của Bắc bán cầu và Nam bán cầu diễn ra ngược nhau.
+ Vào ngày 22/6 (Hạ chí), nửa cầu Bắc ngả về phía Mặt Trời; Khi đó lúc 12 giờ trưa ánh sáng Mặt Trời chiếu thẳng góc vào bề mặt Trái Đất ở chí tuyến bắc.
+Vào ngày 22/12 (Đông chí), nửa cầu Nam ngả về phía Mặt Trời. Khi đó lúc 12 giờ trưa ánh sáng Măt Trời chiếu thẳng góc vào bề mặt Trái Đất ở chí tuyến nam.
+Trái Đất hướng cả hai nửa cầu Bắc và Nam về phía Mặt Trời như nhau vào các ngày 21/3 (Xuân phân) và 23/9 (Thu phân). Khi đó lúc 12 giờ trưa ánh sáng Mặt Trời chiếu thẳng góc vào bề mặt Trái Đất ở xích đạo.
*Từ sự tìm hiểu ở trên GV có thể ra một số câu hỏi nâng cao cho HS khá giỏi: +Nguyên nhân sinh ra mùa?
+Vì sao mùa của hai bán cầu trái ngược nhau?
+Vì sao ở vị trí xuân phân và thu phân thì hai nửa cầu ngả về phía Mặt Trời như nhau nhưng lại có hai mùa khác nhau?
*Từ sự tìm hiểu ở trên HS có thể trả lời như sau:
+Nguyên nhân sinh ra mùa: Do trục Trái Đất nghiêng và không đổi phương, nên bán cầu Bắc và bán cầu Nam lần lượt ngả về phía Mặt Trời khi Trái Đất chuyển động trên quỹ đạo.
+Mùa của hai bán cầu trái ngược nhau vì: Do trục Trái Đất nghiêng và không đổi phương, nên bán cầu Bắc và bán cầu Nam lần lượt ngả về phía Mặt Trời khi Trái Đất chuyển động trên quỹ đạo. Khi bán cầu Bắc ngả về phía Mặt Trời(22/6 là mùa hạ thì bán cầu Nam lúc đó xa Mặt Trời (22/6) là mùa đông. Mùa xuân và mùa thu cũng diễn ra ngược lại.
+Vị trí xuân phân và thu phân thì hai nửa cầu ngả về phía Mặt Trời như nhau nhưng lại có hai mùa khác nhau vì:
-Từ 21/3 đến 22/6, do trục Trái Đất nghiêng nên nửa cầu Bắc ngả về phía Mặt Trời dẫn tới góc nhập xạ(góc hợp bởi tia sáng Mặt Trời với bề mặt Trái Đất) lớn, điều đó làm cho nửa cầu Bắc nhận được nhiều nhiệt từ Mặt Trời, nhưng do mặt đất vừa bị hoá lạnh vào mùa đông nên lúc này mới ấm lên,đó là mùa Xuân.
-Từ 23/9 đến 22/12 do trục Trái Đất nghiêng nên nửa cầu Bắc ngả xa Mặt Trời dẫn tới góc nhập xạ(góc hợp bởi tia sáng Mặt Trời với bề mặt Trái Đất) nhỏ dần, điều
đó làm cho nửa cầu Bắc nhận được nhiệt giảm dần từ Mặt Trời, nhưng do mặt đất còn dự trữ lượng nhiệt trong mùa hạ nên lúc này nhiệt độ vẫn chưa thấp lắm,đó là
mùa Thu.
c/ Ví dụ 3: Tuần hoàn của nước trên Trái Đất
Bài15: THUỶ QUYỂN. MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHẾ ĐỘ NƯỚC SÔNG. MỘT SỐ SÔNG LỚN TRÊN THẾ GIỚI.
(SGK-Địa lí 10, trang 56-Ban cơ bản).
Phần I-mục 2 Tuần hoàn của nước trên Trái Đất.
- Quan sát Hình 15-Sơ đồ tuần hoàn của nước(trang 56 SGK-Địa lí 10), cho biết:
+Vòng tuần hoàn của nước gồm có mấy loại, là những loại nào?
+Hãy trình bày các vòng tuần hoàn của nước.
-HS quan sát hình và trả lời: vòng tuần hoàn lớn và vòng tuần hoàn nhỏ.
*HS: Dựa vào Hình 15: và theo hướng dẫn của GV sẽ rút ra được các kiến thức:
+Vòng tuần hoàn nhỏ (thường HS chỉ trả lời):nước từ biển bốc hơi tạo thành mây và mưa ,mưa rơi xuống rồi lại bốc hơi.. (thực ra các em mới quan sát ở biển có
dòng chữ vòng tuần hoàn nhỏ,các em chưa quan sát để khai thác kiến thức ở phần lục địa).Nên GV sẽ đặt câu hỏi :Ở đất liền có hiên tượng này không? Như vậy HS sẽ quan sát kĩ hình hơn và sẽ có bổ sung đầy đủ kiến thức hơn là: Nước từ biển (hoặc ao, hồ,sông ,ngòi...) bốc hơi tạo thành mây và mưa, mưa rơi xuống rồi lại bốc hơi....(nghĩa là chỉ gồm 2 giai đoạn: bốc hơi và nước rơi).
+Vòng tuần hoàn lớn: (thường HS chỉ trả lời):nước từ biển bốc hơi tạo thành mây, mây được gió đưa vào đất liền, gặp lạnh tạo thành mưa và tuyết; mưa rơi và tuyết
tan chảy vào các dòng sông, hồ, chảy ra biển; rồi nước biển lại bốc hơi......(nghĩa là
chỉ gồm 3 giai đoạn: bốc hơi - nước rơi –sông hồ biển....).Như vậy các em trình bày chưa đầy đủ.(thực ra các em mới quan sát ở phần trên mặt lục địa).Nên GV sẽ đặt câu hỏi: Ở dưới đất có nước không và tên của loại nước đó? Như vậy HS sẽ quan sát kĩ hình hơn và sẽ có bổ sung đầy đủ kiến thức hơn là: nước từ biển bốc hơi tạo thành mây, mây được gió đưa vào đất liền, gặp lạnh tạo thành mưa và tuyết; mưa rơi và tuyết tan chảy vào các dòng sông, hồ, và một phần thấm xuống đất thành nước ngầm, nguồn nước từ lục địa chảy ra biển; rồi nước biển lại bốc hơi......(nghĩa là gồm 4 giai đoạn: bốc hơi - nước rơi - ngấm - dòng chảy..).
*Từ sự tìm hiểu ở trên HS có thể trả lời như sau:
+Vòng tuần hoàn của nước: Gồm vòng tuần hoàn lớn và vòng tuần hoàn nhỏ.
+Vòng tuần hoàn nhỏ gồm 2 giai đoạn: bốc hơi và nước rơi
+vòng tuần hoàn lớn gồm 2 loại:
=Ba giai đoạn: bốc hơi - nước rơi - sông hồ biển..
=Bốn giai đoạn: bốc hơi - nước rơi-ngấm-dòng chảy...
d/Ví dụ 4:Thuỷ triều
Bài 16 : SÓNG.THUỶ TRIỀU.DÒNG BIỂN.
(SGK-Địa lí 10, trang 59-60-Ban cơ bản).
Để khai thác hình có hiệu quả thì trước khi khai thác GV cần giới thiệu về hình16.1 như sau: Các hành tinh trong Hệ Mặt Trời không tự phát sáng, mà chỉ phản xạ lại ánh sáng ở phần diện tích được Mặt Trời chiếu sáng.
Hình 16.2-Vị trí của Mặt Trăng so với Trái Đất và Mặt Trời vào các ngày “triều cường”(dao động thuỷ triều lớn nhất)
Hình16.3-Vị trí của Mặt Trăng vào các ngày “triều kém”(dao động thuỷ triều nhỏ nhất)
Như vậy khi Mặt Trăng chuyển động một vòng quanhTrái Đất thì hết khoảng 29 hoặc 30 ngày (theo âm lịch).Vào ban đêm, nếu Mặt Trăng ở vị trí số 1 thì từ Trái Đất nhìn lên Mặt Trăng ta thấy không Trăng (vì ta nhìn thấy nửa của Mặt Trăng không được Măt Trời chiếu sáng), nếu Mặt Trăng ở vị trí số 3 thì từ Trái Đất nhìn lên Mặt Trăng ta thấy Trăng tròn(vì ta nhìn thấy nửa của Mặt Trăng được Măt Trời chiếu sáng), nếu Mặt Trăng ở vị trí số 2 và 4 thì từ Trái Đất nhìn lên Mặt Trăng ta thấy Trăng khuyết 1/2.
Lớp nước trên bề mặt Trái Đất chịu lực hút của Mặt Trăng và Mặt Trời là chủ yếu.Vì vậy theo kiến thức môn vật lí thì khi Mặt Trăng, Trái Đất và Mặt Trời nằm thẳng hàng thi tổng hợp lực là lớn nhất. Khi Mặt Trăng ,Trái Đất và Mặt Trời nằm vuông góc thi tổng hợp lực là nhỏ nhất.
Từ những hiểu biết mà GV vừa cung cấp cho HS thì HS sẽ dễ dàng khai thác kiến thức mới trong bài bằng tranh.
Phần II-Thuỷ triều (Đặc điểm của thuỷ triều)
-Quan sát hình 16.1+16.2+16.3(trang 59+60 SGK-Địa lí 10),cho biết)
+Khi nào dao động thuỷ triều lớn nhất? Lúc đó ở Trái Đất nhìn thấy Mặt Trăng như thế nào?
+Khi nào dao động thuỷ triều nhỏ nhất? Lúc đó ở Trái Đất nhìn thấy Mặt Trăng như thế nào?
+Khi dao động thuỷ triều lớn nhất, vào khoảng ngày nào theo âm lịch?
+Khi dao động thuỷ triều nhỏ nhất, vào khoảng ngày nào theo âm lịch?
*HS dựa vào hình 16.1+16.2+16.3-(trang 59+60 SGK-Địa lí 10),và theo hướng dẫn của giáo viên sẽ rút ra được các kiến thức:
+Dao động thuỷ triều lớn nhất: Khi Mặt Trăng,Trái Đất và Mặt Trời nằm thẳng hàng. Lúc đó ở Trái Đất nhìn thấy không Trăng hoặc Trăng tròn.
+Dao động thuỷ triều nhỏ nhất: Khi Mặt Trăng,Trái Đất và Mặt Trời nằm ở vị trí vuông góc. Lúc đó ở Trái Đất nhìn thấy Trăng khuyết 1/2.
+Khi dao động thuỷ triều lớn nhất, vào khoảng ngày mồng 1 hoặc 15
theo âm lịch.
+Khi dao động thuỷ triều nhỏ nhất, vào khoảng ngày 7 và 8 hoặc 22 và 23 theo âm lịch.
Như vậy, việc sử dụng kênh hình phải được GV sử dụng tối đa, triệt để, để khai thác kiến thức.Từ thực tế trên thì công việc chuẩn bị bài giảng ở nhà của giáo viên là tối quan trọng, mang tính khoa học cao, câu hỏi phải rõ ràng, dễ hiểu, gãy gọn, kích thích sự tìm tòi, hứng thú học tập của học sinh. Giáo viên không chỉ đơn thuần dạy bằng những đồ dùng có sẵn, mà còn phải sáng tạo ra những hình vẽ đơn
giản, sưu tầm tranh ảnh, minh họa tổ chức hoạt động có hiệu quả, phù hợp với đối tượng học sinh. Khi dạy giáo viên cần tận dụng việc khai thác kiến thức kết hợp kiểm tra kiến thức và rèn luyện kỹ năng cho học sinh.
3/ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
a/ Đối với giáo viên: Qua nghiên cứu đề tài tôi nhận thấy
*Khi Khai thác kiến thức từ tranh ảnh Địa lí GV cần chú ý:
- Giáo viên phải chuẩn bị các câu hỏi phát hiện để gợi ý cho học sinh nhìn và quan sát trên tranh ảnh có sẵn trong SGK để trả lời.
- Có thể phân tích tranh, ảnh trước rối quy nạp lại kiến thức hoặc nêu và phát hiện kiến thức, tranh ảnh có tính chất dẫn kiến thức.
- Trong quá trình sử dụng tra
File đính kèm:
- SKKN Khai thac kien thuc Dia ly 10.doc