Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh sử dụng một số thiết bị, đồ dùng dạy học địa lí theo phương pháp dạy học tích cực ở lớp 9B trường THCS Trần Hưng Đạo

 Phương pháp giảng dạy là một trong những yếu tố cơ bản và quan trọng nhằm truyền đạt hiệu quả kiến thức tới học sinh. Phương pháp giảng dạy phù hợp, khoa học sẽ là con đường giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả, phát huy trí lực của người học. Mỗi một cấp học có một phương pháp phù hợp và phải không ngừng đổi mới và hòan thiện và đây cũng chính là một trong những yếu tố, động lực nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục. Ở cấp trung học cơ sở, thực hiện chủ trương của ngành giáo dục là phải chuyển từ phương pháp giảng dạy cũ, thụ động, thầy đọc , trò chép sang phương pháp giảng dạy tích cực, chủ động, sáng tạo, lấy học sinh làm trung tâm. Trong thời gian qua bằng sự đổi mới đồng bộ từ việc đổi mới phương pháp giảng dạy đến đổi mới chương trình sách giáo khoa, ở cấp trung học cơ sở đã có nhiều chuyển biến tích cực trong đổi mới phương pháp giảng dạy và một trong những phương pháp giảng dạy trong quá trình đổi mới thời gian qua mang tính ưu việt nhất, được giáo viên quan tâm nhất là phương pháp trực quan thông qua các phương tiện dạy học như bản đồ, lược đồ, biểu đồ, sơ đồ, bảng thống kê, tính ưu việt được thể hiện rõ nét nhất của phương pháp là giúp cho học sinh phát huy được tính chủ động thông qua các kênh hình trong từng bài học để khai thác kiến thức.

 Việc sử dụng thiết bị dạy học trong quá trình dạy học nói chung và trong dạy học Địa lí lớp 9 nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng, các thiết bị dạy học thay thế cho những sự vật hiện tượng và các quá trình xảy ra trong thực tiễn mà giáo viên và học sinh không thể tiếp cận trực tiếp được. Sử dụng thiết bị dạy học trong quá trình dạy học có khả năng hình thành hiệu quả những tri thức cơ bản và vận dụng chúng vào việc lĩnh hội kiến thức mới, giáo viên có điều kiện để sử dụng phương pháp dạy học và các hình thức dạy học đa dạng, hiệu quả nâng cao công tác tự lập của học sinh trong học tập. Với những ý nghĩa quan trọng trên nên tôi đã chọn đề tài này thực hiện trong năm học 2007-2008

 

doc22 trang | Chia sẻ: lephuong6688 | Lượt xem: 662 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh sử dụng một số thiết bị, đồ dùng dạy học địa lí theo phương pháp dạy học tích cực ở lớp 9B trường THCS Trần Hưng Đạo, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A/ MỞ ĐẦU 1/ Lí do chọn đề tài Phương pháp giảng dạy là một trong những yếu tố cơ bản và quan trọng nhằm truyền đạt hiệu quả kiến thức tới học sinh. Phương pháp giảng dạy phù hợp, khoa học sẽ là con đường giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả, phát huy trí lực của người học. Mỗi một cấp học có một phương pháp phù hợp và phải không ngừng đổi mới và hòan thiện và đây cũng chính là một trong những yếu tố, động lực nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục. Ở cấp trung học cơ sở, thực hiện chủ trương của ngành giáo dục là phải chuyển từ phương pháp giảng dạy cũ, thụ động, thầy đọc , trò chép sang phương pháp giảng dạy tích cực, chủ động, sáng tạo, lấy học sinh làm trung tâm. Trong thời gian qua bằng sự đổi mới đồng bộ từ việc đổi mới phương pháp giảng dạy đến đổi mới chương trình sách giáo khoa, ở cấp trung học cơ sở đã có nhiều chuyển biến tích cực trong đổi mới phương pháp giảng dạy và một trong những phương pháp giảng dạy trong quá trình đổi mới thời gian qua mang tính ưu việt nhất, được giáo viên quan tâm nhất là phương pháp trực quan thông qua các phương tiện dạy học như bản đồ, lược đồ, biểu đồ, sơ đồ, bảng thống kê, tính ưu việt được thể hiện rõ nét nhất của phương pháp là giúp cho học sinh phát huy được tính chủ động thông qua các kênh hình trong từng bài học để khai thác kiến thức. Việc sử dụng thiết bị dạy học trong quá trình dạy học nói chung và trong dạy học Địa lí lớp 9 nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng, các thiết bị dạy học thay thế cho những sự vật hiện tượng và các quá trình xảy ra trong thực tiễn mà giáo viên và học sinh không thể tiếp cận trực tiếp được. Sử dụng thiết bị dạy học trong quá trình dạy học có khả năng hình thành hiệu quả những tri thức cơ bản và vận dụng chúng vào việc lĩnh hội kiến thức mới, giáo viên có điều kiện để sử dụng phương pháp dạy học và các hình thức dạy học đa dạng, hiệu quả nâng cao công tác tự lập của học sinh trong học tập. Với những ý nghĩa quan trọng trên nên tôi đã chọn đề tài này thực hiện trong năm học 2007-2008 2/ Đối tượng nghiên cứu Trong việc dạy học địa lí nói chung và dạy học Địa lí lớp 9 nói riêng việc sử dụng thiết bị dạy học đảm bảo cho học sinh lĩnh hội tốt những biểu tượng, khái niệm, các mối quan hệ nhân quả, các quy luật, giúp học sinh nắm và rèn luyện những kĩ năng địa lí một cách có hiệu quả. Mặc khác giúp giáo viên trong việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh được chất lượng hơn. Điều đó phù hợp với quy luật nhận thức, đặc điểm môn học, mục tiêu giáo dục của môn địa lí lớp 9 Để phù hợp với các thiết bị dạy học theo phương hướng đổi mới, các thiết bị dạy học cũng phải thay đổi về loại hình, cấu trúc và phương pháp sử dụng. Vì vậy việc sử dụng và khai thác một số thiết bị dạy học địa lí theo phương pháp dạy học tích cực, minh hoạ cho lời giảng của giáo viên và sử dụng chúng như là một phương tiện nhận thức, là nguồn tri thức giúp học sinh khám phá, tìm tòi, phát hiện những kiến thức và rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Trong qua trình sử dụng một số thiết bị dạy học địa lí để giảng dạy Địa lí lớp 9, giáo viên không những có vai trò định hướng cho học sinh quan sát, hướng dẫn và gợi ý học sinh cách khai thác kiến thức mà còn giúp học sinh tự thao tác, điều khiển, sử dụng để khám phá, tìm tòi kiến thức hoặc củng cố kiến thức, rèn luyện kĩ năng địa lí cho học sinh, tạo điều kiện cho học sinh “Học trong hành động” 3/ Phạm vi nghiên cứu Trong quá trình giảng dạy của từng giáo viên, điều có thể khẳng định là giáo viên nào cũng mong muốn học sinh của mình luôn học giỏi nhất là học tập thật tốt bộ môn mà mình giảng dạy, vì vậy bằng nhiều phương pháp , nhiều kinh nghiệm của bản thân, tôi sẵn sàng đem hết tâm huyết để truyền đạt phương pháp học tập tốt nhất để các em khắc sâu được kiến thức đã đuợc tiếp thu. Với bản thân tôi cũng không lọai trừ những suy nghĩ mang tính nhân văn trên, nhưng do đây chỉ là những kinh nghiệm mà bản thân tôi đúc kết được trong quá trình giảng dạy, dù trong thời gian qua tôi luôn nghiêm túc thực hiện những phương pháp đổi mới trong quá trình giảng dạy theo chủ trương của ngành đã đề ra ở tất cả các lớp mà tôi được đơn vị phân công. Tuy nhiên do tôi muốn kiểm chứng khẳng định là phương pháp sử dụng trực quan, sử dụng và khai thác các thiết bị dạy học địa lí theo phương pháp tích cực, có phát huy được chủ động và đem lại hiệu quả cao trong quá trình học tập của học sinh hay không? Từ suy nghĩ đó nên tôi quyết tâm thực hiện trong phạm vi một lớp học với số lượng học sinh là 40 em 4/ Phương pháp nghiên cứu Trong sự nghiệp đổi mới giáo dục, việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học là một nhiệm vụ quan trọng, một yêu cầu bức thiết đối với tất cả các cấp học, bậc học ở nước ta, nhằm góp phần đào tạo những con người tích cực, tự giác, năng động sáng tạo, có năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống. Trong quá trình đổi mới giáo dục nhiều phương pháp dạy học mới đã được đưa vào áp dụng, một trong những phương pháp được xem là có nhiều ưu điểm nhất là phương pháp trực quan sử dụng thiết bị dạy học trong quá trình giảng dạy, nhất là giảng dạy Địa lí 9. Tuy nhiên để vận dụng tốt phương pháp này đòi hỏi người dạy phải có nhiều kỹ năng, phải biết sáng tạo, linh họat trong mọi tình huống. Việc nghiên cứu nâng cao trình độ kiến thức của người thầy là cốt lõi, để tổ chức tốt một tiết dạy có sử dụng phương pháp trực quan, đòi hỏi người dạy không những phải đầu tư, tìm tòi nghiên cứu từ phương pháp tổ chức cách vận hành thực hiện, đến khâu nhận xét đánh giá, mà còn phải tham khảo nhiều tài liệu có liên quan đến những sự vật hiện tượng được thể hiện trên bản đồ, lược đồ, sơ đồ, xử lí các số liệu trong các bảng thống kê. Người thầy phải đầy đủ bản lĩnh, vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ để giải quyết mọi tình huống có thể xảy ra trong quá trình thực hiện chuyển từ kênh hình sang kênh chữ để giúp học sinh khai thác kiến thức. Về phương pháp tổ chức, thông qua tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên trung học cơ sở chu kì III (2004 – 2007), môn Địa Lí của Bộ Giáo dục và đào tạo. Vụ Giáo dục trung học, giáo viên sẽ tiếp thu được nhiều cái hay trong quá trình vận dụng để thực hiện thực tiễn trên lớp. Về nội dung sách giáo khoa được xem là tài liêu một mặt cung cấp nội dung một mặt tạo ra nhiều tình huống gần như buộc giữa thầy và trò phải tư duy, nhất là đối với học sinh. Với nhiều câu hỏi khó trong từng nội dung bài học, thì sách giáo viên là tài liệu gợi mở mọi vấn đề, giúp người thầy trang bị thêm những kiến thức mới, vững vàng hơn khi thực hiện bước nhận xét, đánh giá khả năng quan sát phán đoán của học sinh. Ngòai ra tài liệu Bồi dưỡng giáo viên dạy sách giáo khoa lớp 9 do Bộ Giáo dục và đào tạo, vụ Giáo dục trung học sọan thảo năm 2005, giúp giáo viên tiếp thu được nhiều phương pháp tổ chức, cũng như những nội dung gắn liền với thực tiễn theo yêu cầu đổi mới qua từng bài học của sách giáo khoa Địa lí lớp 9 Từ việc nghiên cứu vận dụng những hướng dẫn của các tài liệu có liên quan, trong quá trình thực hiện giáo viên cần thường xuyên theo dõi để nắm bắt kịp thời những tâm tư của học sinh khi thực hiện phương pháp trực quan trong giờ học Địa lí, từ các thông tin phản hồi, giáo viên sẽ biết được những thuận lợi và khó khăn gì khi tổ chức thực hiện để có sự điều chỉnh hợp lí qua mỗi lần tổ chức Kết quả sau cùng là tổ chức đối chiếu, so sánh chất lượng của các nhóm hoặc chất lượng chung của lớp qua các kì thi khảo sát chất lượng. Như vậy thông qua việc nghiên cứu thực hiện phương pháp trực quan sử dụng thiết bị dạy học trong giờ học Địa lí lớp 9, qua điều tra đối chiếu, so sánh kết quả đạt được cho thấy phương pháp có những ưu điểm rất tích cực ảnh hưởng rất lớn đến quá trình học tập của học sinh. Thông qua phương pháp trực quan giúp học sinh mở rộng, đào sâu thêm kiến thức trên cơ sở nhìn nhận một cách có suy nghĩ, phân tích có lí lẽ, có dẫn chứng, phát triển được tư duy khoa học. Giúp học sinh phát triển các kĩ năng quan sát, nói, giao tiếp, , bồi dưỡng các phương pháp nghiên cứu một cách vừa sức như các phương pháp tìm đọc tài liệu tham khảo, quan sát và ghi chép ngòai thực tế. Thông qua phương pháp trực quan có thể làm thay đổi quan điểm của cá nhân trên cơ sở các sự kiện, các sự vật hiện tượng được thể hiện trên bản đồ, lược đồ, sơ đồ. Quá trình trực quan dưới sự hướng dẫn của giáo viên còn tạo ra mối quan hệ hai chiều giữa giáo viên và học sinh, giúp cho giáo viên nắm được hiệu quả giáo dục về các mặt nhận thức, thái độ, quan điểm, xu hướng hành vi của học sinh. B/ NỘI DUNG 1/ Cơ sở lý luận Trong những năm vừa qua cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước, ngành giáo dục –đào tạo cũng có sự chuyển biến đáng kể, nhất là từ khi các nghị quyết của Đảng quan tâm đến sự nghiệp giáo dục ra đời, càng khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư cho sự phát triển Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII đã chỉ rõ phải “ Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học. Kết hợp học với hành, học tập với lao động sản xuất, thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với xã hội. Áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề” Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII tiếp tục khẳng định phải “ Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học tự nghiên cứu cho học sinh” Khoản 1. Điều 27, Luật Giáo dục quy định mục tiêu của giáo dục phổ thông là: “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản; phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” Khoản 2. Điều 28. Luật Giáo dục quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh Định hướng đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện những phương pháp mới trong quá trình giảng dạy bộ môn Địa lí ở các trường trung học cơ sở nói chung và môn Địa lí lớp 9 nói riêng, thông qua việc sử dụng phương pháp trực quan trong giờ học Địa lí nhằm phát huy tính tích cực, tự giác chủ động sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp tự học của học sinh, đồng thời rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn , đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh, hướng tới họat động học tập chủ động, chống thói quen học tập thụ động. Nét đặc trưng của phương pháp là mang tính họat động cao của chủ thể giáo dục, tính nhân văn cao của giáo dục. Về bản chất, khai thác động lực học tập trong bản thân học sinh, coi trọng lợi ích, nhu cầu của cá nhân học sinh, đảm bảo cho học sinh thích ứng với đời sống xã hội. 2/ Cơ sở thực tiễn Phương pháp trực quan trên thực tế đã có mầm mống từ những giai đọan giảng dạy trước đó, ngày nay, do những yêu cầu đổi mới giáo dục phục vụ sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, phương pháp tích cực nhất là phương pháp trực quan sử dụng các thiết bị dạy học trở thành phổ biến trong nhà trường. Tuy nhiên nó không thể lọai trừ, không thể hòan tòan thay thế do học sinh chiếm lĩnh bằng các họat động tự lực dù có đủ phương tiện học tập. Phương pháp trực quan không phải dễ dàng được vận dụng ở mọi lúc mọi nơi, cũng không phải mọi học sinh đều tự nguyện tự giác tham gia những họat động tích cực. Phương pháp trực quan đòi hỏi một số điều kiện, trong đó quan trọng nhất là người giáo viên. Trong các phương pháp tích cực đang thực hiện ở các trường trung học cơ sở nói chung và phương pháp trực quan nói riêng không hề hạ thấp hay giảm nhẹ vai trò của người giáo viên, giáo viên phải được đào tạo chu đáo để thích ứng với những nhiệm vụ đa dạng. Từ dạy học thông báo, giải thích, minh họa sang dạy học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các họat động độc lập hoặc theo nhóm để học sinh chiếm lĩnh kiến thức mới, hình thành kỹ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp học sinh họat động là chính nhưng trước đó khi sọan bài, giáo viên phải đầu tư nhiều công sức và thời gian mới có thể thực hiện bài trên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các họat động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh. Giáo viên vừa phải có tri thức của bộ môn sâu rộng, vừa có trình độ sư phạm lành nghề, biết ứng xử tinh tế, biết sử dụng các thiết bị dạy học hiện đại, có thể định hướng sự phát triển của học sinh nhưng cũng bảo đảm sự tự do của học sinh trong họat động học tập. Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh phải dần dần có những phẩm chất năng lực, thói quen thích ứng với phương pháp trực quan như giác ngộ mục đích học tập, tự nguyện tham gia các họat động học tập, có ý thức trách nhiệm về kết quả học tập của mình và kết quả chung của lớp, biết tự học và tranh thủ học ở mọi nơi mọi lúc. Chương trình sách giáo khoa đã giảm bớt khối lượng kiến thức, là cơ sở để tạo điều kiện cho thầy trò tổ chức họat động học tập khai thác kiến thức từ kênh hình sang kênh chữ, giảm bớt những thông tin buộc học sinh thừa nhận và ghi nhớ máy móc, tăng cường hệ thống các câu hỏi, tạo điều kiện cho giáo viên thực hiện phương pháp trực quan sử dụng các thiết bị dạy học trong từng tiết dạy, giảm bớt những câu trả lời sẵn về những hiện tượng nêu ra, thay bằng những hướng dẫn tìm tòi tra cứu, giảm bớt những kết luận áp đặt, tăng cường các gợi ý để học sinh tự nghiên cứu, phát triển nội dung bài học. Phương pháp trực quan yêu cầu cần có những phương tiện thiết bị dạy học thuận lợi cho học sinh thực hiện nghiên cứu độc lập sau đó tổ chức theo nhóm. Hình thức tổ chức lớp học phải dễ dàng thay đổi linh họat phù hợp với dạy học cá thể, dạy học hợp tác. Sự cần thiết của phương pháp trực quan cho phép các thành viên trong lớp chia sẻ các suy nghĩ, băn khoăn, kinh nghiệm, hiểu biết bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức, thái độ mới, bằng cách quan sát nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải chỉ là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên 3/ Nội dung vấn đề a/ Vấn đề đặt ra Việc lựa chọn thiết bị dạy học như bản đồ, lược đồ, sơ đồ, biểu đồ các bảng số liệu phải căn cứ vào nội dung của từng bài, từng phần cho phù hợp. Những nội dung đó là những kiến thức cơ bản đặc trưng của bài học. Mặc khác, còn phải căn cứ vào hoạt động học tập của học sinh đối với mỗi nội dung bài học để lựa chọn thiết bị dạy học. Việc lựa chọn thiết bị dạy học phải trên cơ sở xác định vai trò, vị trí của các thiết bị dạy học, xác định mối quan hệ giữa thiết bị dạy học với nội dung bài học và nắm chắc tính năng , tác dụng của chúng Thực tế dạy học cho thấy việc quan sát và khai thác kiến thức của học sinh đối với thiết bị dạy học chỉ hiệu quả nếu trước khi cho học sinh quan sát, nhận xét, giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi nhằm giúp học sinh biết được cần quan sát cái gì, phân tích nội dung, giải thích nguyên nhân nhận xét và khai thác kiến thức như thế nào. Để phát huy cao độ tính tích cực học tập của học sinh, giáo viên nên dựa trên nội dung của các thiết bị dạy học có thể nêu câu hỏi thành một vấn đề cần phải làm sáng tỏ và hướng dẫn học sinh tự làm việc với thiết bị dạy học Thực tế cho thấy việc đưa thiết bị dạy học quá nhiều trong một giờ học là không hiệu quả, trước hết giáo viên cần rèn luyện cho học sinh biết cách làm việc với các kênh hình trong sách giáo khoa, bằng cách đặt câu hỏi yêu cầu học sinh khai thác kiến thức từ các kênh hình ấy, tránh để học sinh quá lệ thuộc vào sách giáo khoa, học vẹt, có những nội dung có thể yêu cầu học sinh đứng tại chổ khai thác kiến thức từ bản đồ, lược đồ, hoặc biểu đồ hay các bảng số liệu b/ Giải pháp, chứng minh vấn đề được giải quyết Trong việc dạy học Địa lí, việc sử dụng các thiết bị dạy học đảm bảo cho học sinh lĩnh hội tốt những biểu tượng, khái niệm, các mối quan hệ nhân quả, các thuyết, các quy luật, giúp học sinh nắm được và rèn luyện những kỹ năng địa lí một cách có hiệu quả. Mặc khác, giúp giáo viên trong việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh được chất lượng hơn. Điều đó phù hợp với quy luật nhận thức, đặc điểm môn học,mục tiêu giáo dục của môn Địa lí 9 Môn Địa lí 9 là một môn học cung cấp cho học sinh những kiến thức về dân số tình hình phát triển dân số, kết cấu dân số và nguồn lao động của nước ta, cung cấp cho học sinh những kiến thức về tình hình phát triển của từng ngành kinh tế, sự phân hóa lãnh thổ của nước ta trong thời kì đổi mới. Đặc biệt là cung cấp cho học sinh những kiến thức về tình hình phát triển tổng hợp kinh tế biển và bảo vệ nguồn tài nguyên môi trường biển đảo ở nước ta mà trong các chương trình học trước đó không thể hiện, vì vậy các thiết bị dạy học cho môn Địa lí 9 rất đa dạng, gồm có các bản đồ, lược đồ, biểu đồ, sơ đồ, bảng thống kê và các ảnh địa lí -Các bản đồ, lược đồ có vai trò cung cấp cho học sinh những kiến thức về vị trí, giới hạn các vùng kinh tế và vùng kinh tế trong điểm, tình hình phân bố của các ngành nông-lâm- ngư nghiệp, công nghiệp, giao thông, về vị trí của các đảo ven bờ, các đảo xa bờ, các quần đảo thuộc chủ quyền của nước ta nằm trên Biển đông -Các biểu đồ cung cấp cho học sinh những kiến thức về sự phát triển của dân số nước ta, sự chuyển dịch nguồn lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu của các ngành công nghiệp trọng điểm, dịch vụ -Các sơ đồ cung cấp cho học sinh những kiến thức về cơ cấu của một số đối tượng như hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật trong nông nghiệp vai trò của các nguồn tài nguyên thiên nhiên đối với sự phát triển của một số ngành công nghiệp trọng điểm, hệ thống các ngành giao thông vận tải của nước ta, các nguồn tài nguyên thiên nhiên của một vùng kinh tế, các bộ phận của vùng Biển Việt Nam theo Luật biển Quốc tế -Các bảng thống kê cung cấp cho học sinh những kiến thức về cơ cấu tình hình phát triển của một số ngành, sự phân bố của một số cây trồng theo vùng. Ngoài ra một số bảng biểu số liệu thống kê còn có vai trò giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức, phát triển tư duy so sánh đối chiếu giữa các đối tượng địa lí -Các ảnh địa lí chủ yếu là các ảnh minh hoạ cho kiến thức, có vai trò cung cấp cho học sinh những biểu tượng cụ thể về hoạt động một số ngành kinh tế, những hoạt động kinh tế của nước ta trong thời kì đổi mới. Trong quá trình sử dụng thiết bị dạy học Địa lí 9, giáo viên không những có vai trò định hướng cho học sinh quan sát, hướng dẫn và gợi ý học sinh cách khai thác kiến thức mà còn giúp học sinh tự thao tác, điều khiển, sử dụng để khám phá, tìm tòi kiến thức hoặc củng cố kiến thức, rèn luyện kĩ năng địa lí cho học sinh, tạo điều kiện cho học sinh “học trong hành động”. Việc sử dụng thiết bị dạy học Địa lí 9 theo phân phối chương trình cần đảm bảo những yêu cầu sau: -Lựa chọn thiết bị dạy học phải phù hợp vào nội dung từng bài, từng phần -Định hướng cho học sinh trước khi yêu cầu quan sát, khai thác kiến thức từ các thiết bị địa lí -Các câu hỏi phải thể hiện rõ ràng về yêu cầu và mức độ nhận thức khác nhau đối với học sinh -Yêu cầu học sinh sử dụng tốt những thiết bị dạy học hiện có -Phối hợp sử dụng các thiết bị dạy học để khai thác kiến thức có hiệu quả, sử dụng phương pháp dạy học thích hợp đối với mỗi loại thiết bị dạy học Để hiểu hơn về vai trò của các thiết bị dạy học Địa lí lớp 9, chúng ta đi sâu vào phân tích, chứng minh qua một số bài học cụ thể trong bộ môn Địa lí 9 để thấy được việc sử dụng các thiết bị dạy học có những tác dụng rất tích cực đến quá trình học tập của học sinh Thí dụ: ở bài 2: “DÂN SỐ VÀ GIA TĂNG DÂN SỐ” -Phần II: Gia tăng dân số. Để thực hiện giảng dạy tốt phần này, giáo viên phải sử dụng biểu đồ biến đổi dân số của nước ta. Do thống kênh chữ ở phần này rất ít, vì vậy học sinh muốn biết những diễn biến về tình hình dân số nước ta trong những năm qua như thế nào, các em phải quan sát biểu đồ mà giáo viên đã treo lên bảng, đồng thời dựa vào biểu đồ trả lời câu hỏi dẫn dắt mà sách giáo khoa đã đặt ra +Quan sát biểu đồ biến đổi dân số của nước ta, em hãy nhận xét tình hình tăng dân số của nước ta qua các thời kì từ 1954 đến 2003? Vì sao tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số giảm nhưng dân số vẫn tăng nhanh? Lúc này học sinh chỉ có quan sát biểu đồ mới phát triển được tư duy nhận xét so sánh, mới hoàn thành được yêu cầu của câu hỏi. +Dân số nước ta tăng nhanh qua các thời kì, nhưng tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên có xu hướng giảm Với việc sử dụng một biểu đồ biến đổi dân số, giáo viên đã cung cấp cho học sinh một lượng thông tin rất lớn về tình hình phát triển dân số nước ta trong một thời gian rất dài, giúp cho các em phát triển được tư duy quan sát, nhận xét và so sánh, đồng thời còn rèn luyện thêm cho các em về tư duy phán đoán, lập luận một vấn đề, vì vậy sau khi quan sát biểu đồ trả lời được ý

File đính kèm:

  • docSKKN DIA 9.doc