Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong nghị nghị quyết TW2 khoá VIII ( 12/ 1998 ) và được thể chế hoá trong luật giáo dục ( 12/1998 ).
Luật giáo dục điều 24 đã ghi “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực , tự giác , chủ động , sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc điểm từng lớp học , môn học , bồi dưỡng phương pháp tự học , rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn , tác động đến tình cảm , đem lại niềm vui , hứng thú học tập cho học sinh ”.
Có thể nói , cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học là hướng tới việc học tập chủ động , chống lại thói quen học tập thụ động , nghĩa là phải phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập.
Việc áp dụng các phương pháp tích cực trong dạy học cũng cần phải quan niệm như thế nào cho đúng. áp dụng các phương pháp tích cực không có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp truyền thống. Ngay cả những phương pháp tập trung vào giáo viên như thuyết trình , giảng giải . vẫn rất cần thiết trong quá trình dạy học . Phát triển các phương pháp tích cực cũng không có nghĩa là phải “ nhập nội ” một số phương pháp quá xa lạ đối với giáo viên. Cần kế thừa , phát triển những mặt tích cực trong hệ thống các phương pháp dạy học vốn đã quen thuộc , đồng thời phải học hỏi , vận dụng một số phương pháp dạy học mới phù hợp với hoàn cảnh , điều kiện dạy và học ở nước ta để tiến lên từng bước vững chắc . phương pháp tích cực có rất nhiều như .
- Phương pháp vấn đáp tìm tòi.
- Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề.
- Phương pháp thảo luận nhóm.
16 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 3985 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh nghiệm vận dụng phương pháp dạy học “Thảo luận nhóm” trong việc giảng dạy môn Ngữ văn ở trường trung học cơ sở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phòng giáo dục và đào tạo Bình giang
Kinh nghiệm
Vận dụng phương pháp dạy học “ thảo luận nhóm” trong việc giảng dạy môn ngữ văn ở trường trung học cơ sở.
Năm Học : 2007- 2008
A. Đặt vấn đề
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong nghị nghị quyết TW2 khoá VIII ( 12/ 1998 ) và được thể chế hoá trong luật giáo dục ( 12/1998 ).
Luật giáo dục điều 24 đã ghi “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực , tự giác , chủ động , sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc điểm từng lớp học , môn học , bồi dưỡng phương pháp tự học , rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn , tác động đến tình cảm , đem lại niềm vui , hứng thú học tập cho học sinh ”.
Có thể nói , cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học là hướng tới việc học tập chủ động , chống lại thói quen học tập thụ động , nghĩa là phải phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập.
Việc áp dụng các phương pháp tích cực trong dạy học cũng cần phải quan niệm như thế nào cho đúng. áp dụng các phương pháp tích cực không có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp truyền thống. Ngay cả những phương pháp tập trung vào giáo viên như thuyết trình , giảng giải…. vẫn rất cần thiết trong quá trình dạy học . Phát triển các phương pháp tích cực cũng không có nghĩa là phải “ nhập nội ” một số phương pháp quá xa lạ đối với giáo viên. Cần kế thừa , phát triển những mặt tích cực trong hệ thống các phương pháp dạy học vốn đã quen thuộc , đồng thời phải học hỏi , vận dụng một số phương pháp dạy học mới phù hợp với hoàn cảnh , điều kiện dạy và học ở nước ta để tiến lên từng bước vững chắc . phương pháp tích cực có rất nhiều như .
Phương pháp vấn đáp tìm tòi.
Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề.
Phương pháp thảo luận nhóm.
Nhưng trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn cũng như qua việc dự giờ các đồng nghiệp tôi thấy phương pháp thảo luận nhóm giúp cho giờ dạy thêm sôi nổi, học sinh hứng thú và đặc bịt là hiệu quả giờ dạy đạt hiệu quả hơn.
B. Giải quyết vấn đề .
I. Điều tra thực trạng trước khi nghiên cứu vấn đề .
Trong những năm gần đây , việc dạy , học môn Ngữ văn trong trường THCS nói chung đã có những chuyển biến theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh . Trong quá trình dạy học ở trường và qua việc dự giờ đồng nghiệp ở trong trường cũng như trong huyện tôi thấy việc áp dụng phương pháp thảo luận nhóm còn một số nhược điểm như sau :
Sự hiểu biết và vận dụng những định hướng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học vào quá trình dạy học của các giáo viên chưa được thường xuyên và còn máy móc . Việc dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm chưa áp dụng nhiều và do vậy cả giáo viên và học sinh đều lúng túng . Có giáo viên áp dụng quá nhiều phương pháp thảo luận nhóm trong một tiết học dẫn đến có những câu hỏi rất đơn giản giáo viên cũng cho học sinh thảo luận trong khi những câu hỏi như vậy chỉ cần cho học sinh độc lập suy nghĩ là đủ.
Giáo viên còn gặp khó khăn trong việc phân nhóm và điều hành học sinh thảo luận .
Có một số giáo viên coi việc áp dụng phương pháp này chỉ là hình thức , cốt chỉ là có do vậy kết quả đạt được chưa cao.
Giáo viên dự kiến thời gian chưa phù hợp : có thể quá ít hoặc quá nhiều thời gian . Nếu quá ít , các em sẽ không có đủ thời gian thảo luận như vậy sẽ không thu được kết quả như mong muốn . Nếu quá nhiều thời gian , như vậy sẽ lãng phí thời gian dành cho các hoạt động khác . Không những thế lớp học sẽ lộn xôn , mất trật tự.
Tồn tại lớn nhất từ trong học sinh trong việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm là học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu , khám phá bài học nếu không được giao nhiệm vụ, hoặc nếu có được giao nhiệm vụ thì còn lúng túng khi cùng nhau giải quyết vấn đề.
Trên đây là một số vấn đề nổi cộm trong thực tế . Tuy nhiên không phải giáo viên nào cũng vậy. Nếu chúng ta biết chọn lựa những câu hỏi phù hợp với đối tượng học sinh, tuỳ theo đặc trưng của tiết học thì hiệu quả của phương pháp này sẽ đạt hiệu quả như mong muốn.
II. Phương pháp nghiên cứu .
Trong quá trình viết kinh nghiệm này tôi đã vận dụng rất nhiều phương pháp , tiêu biểu là các phương pháp sau :
1/ Phương pháp điều tra.
Tôi đã điều tra việc giảng dạy – học tập ở một số tiết dạy môn Ngữ văn ở các khối lớp.
2/ Phương pháp đối chứng.
So sánh , đối chiếu kết quả trước khi vận dụng biện pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ theo kinh nghiệm của tôi với sau khi vận dụng kinh nghiệm này.
3/ Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Sưu tầm và nghiên cứu các tài liệu có liên quan : sách giáo khoa , sách giáo viên , sách tham khảo….
4/ Phương pháp kiểm tra.
Đưa một số bài tập , câu hỏi trắc nghiệm …….yêu cầu học sinh làm để lấy kết quả.
III. Những công việc thực tế đã làm.
Những công việc thực tế đã làm.
Trong học tập , không phải mọi tri thức , kĩ năng thái độ đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập của cá nhân . Lớp học là môi trường giao tiếp thày trò tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập . Thông qua thảo luận , tranh luận trong tập thể , ý kiến cá nhân được bộc lộ , khẳng định hay bác bỏ . Qua đó người học nâng mình nên một trình độ mới . Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi học sinh và của cả lớp chứ không phải chỉ dựa vào vốn hiểu biết và kinh nghiệm của thày giáo.
Khi người giáo viên áp dụng phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ cần tiến hành theo các bước sau :
a/ Làm việc chung cả lớp .
Giáo viên nêu vấn đề , xác định nhiệm vụ nhận thức . Giáo viên đưa ra câu hỏi hoặc tình huống cho học sinh.
Tổ chức các nhóm , giao nhiệm vụ cho các nhóm . Lớp học được chia thành các nhóm từ 4-6 người. Tuỳ mục đích sư phạm hay yêu cầu của mục đích học tập các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ định được duy trì ổn định trong cả tiết học hoặc thay đổi theo từng hoạt động , từng phần của tiết hoặc các nhóm được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau .
Hướng dẫn cách làm việc trong nhóm . Giáo viên đưa ra cách làm việc trong nhóm . Trong phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ có rất nhiều hình thức học tập nhóm . Tuỳ từng nội dung vấn đề , người giáo viên có thể lựa chọn những hình thức học tập nhóm cho phù hợp . ở đây tôi chỉ xin đưa ra một số hình thức học tập nhóm phổ biến.
+ Làm việc theo cặp : Hai học sinh ngồi gần nhau tạo thành một cặp cùng bàn bạc một vấn đề .
+ Thảo luận vòng tròn : Học sinh trong nhóm dùng bút nét to ghi lại ý kiến của mình trên một tờ giấy đã chuẩn bị sẵn sau đó lần lượt cho những học sinh
khác trong nhóm cùng thảo luận .
+ Thảo luận hỗn hợp : Học sinh trong nhóm tranh luận , nhóm trưởng ( thư kí) ghi lại những ý kiến trong nhóm lên tờ giấy.
b/ Làm việc theo nhóm.
Các nhóm tự bầu ra nhóm trưởng nếu thấy cần . Các thành viên trong nhóm có thể luân phiên nhau làm nhóm trưởng . Nhóm trưởng phân công cho mỗi thành viên một công việc , nhóm trưởng điều hành các thành viên làm việc trong không khí thi đua với các nhóm khác . Có thể trong nhóm sẽ bầu ra thư kí để ghi chép .
Học sinh bàn bạc , trao đổi trong nhóm để hoàn thành câu trả lời .
Cử đại diện ( hoặc phân công trước ) chịu trách nhiệm trình bày kết quả làm việc của nhóm.
c/ Thảo luận bàn bạc trước cả lớp .
Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả . Cử hai nhóm cùng chủ đề trình bày xong thì dừng lại để các bạn trong nhóm nêu câu hỏi .
Học sinh trong nhóm thảo luận chung .
Giáo viên tổng kết , đặt vấn đề tiếp theo .
Trên đây là một cấu tạo của một hoạt động trong nhóm ( trong một phần của tiết học ) . Để phương pháp học tập này mang lại kết quả như mong muốn , người giáo viên cần chú ý những điều sau.
Giáo viên nêu vấn đề , giao nhiệm vụ chỉ cần đọc câu hỏi to , chậm một lần không cần nhắc đi , nhắc lại nhiều lần trong quá trình học sinh thảo luận, hoặc phát câu hỏi bằng phiếu và yêu cầu các nhóm trả lời trực tiếp vào phiếu học tập.
Giáo viên cần dự kiến thời gian cho học sinh làm việc.
Trong quá trình học sinh tranh luận giáo viên không được thúc giục học sinh . Trong khi học sinh thảo luận giáo viên đi kiểm tra đôn đốc học sinh làm việc.
Ví dụ : Khi dạy bài “ Liên kết câu và liên kết đoạn văn” , để củng cố cho học sinh xác định rõ được các phương pháp liên kết . Giáo viên sử dụng phương pháp thảo luận nhóm nhẩntong quá trình làm bài tập 1 :
Qua hoạt động này học sinh sẽ trả lời 4 câu hỏi như sau :
+?1: Chủ đề của đoạn văn là gì? Nội dung của các câu trong đoạn văn phục vụ chủ đề ấy như thế nào?
Lớp học được chia thành 8 nhóm mỗi nhóm 5 học sinh . Để tạo không khí vui vẻ , giáo viên có thể dùng cách lập nhóm ngẫu nhiên như sau :
+ Giáo viên sao chụp lại 8 loại hình trong các sách ( 1 hình , 2 hình , 3 hình , 4 hình , 5 hình , 6 hình , 7 hình , 8 hình ).
+ Phân phát ngẫu nhiên các loại hình sao và yêu cầu học sinh tự tìm những bạn có loại hình sao phù hợp .
+ Giao nhiệm vụ .
Nhóm 1-5 trả lời câu hỏi 1.
Nhóm 2-6 trả lời câu hỏi 2.
Nhóm 3-7 trả lời câu hỏi 3.
Nhóm 4-8 trả lời câu hỏi 4.
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm việc trong nhóm . Mỗi nhóm sẽ thảo luận theo hình thức thảo luận hỗn hợp , dùng bút nét to ghi lại những ý kiến trong nhóm nên tờ giấy lớn.
Giáo viên dự kiến thời gian : 5 phút.
b/ Làm việc theo nhóm.
Phân công trong nhóm để thực hiện nhiệm vụ.
Nhóm 1 : Học sinh xác định được những từ “ đã ”, “ vẫn ”, “ chưa ”, “cũng” ,
“ thật ”, “ được ”, “ ra ”, “ rất ” bổ xung ý nghĩa cho những từ nào ( đứng trước hoặc đứng sau ).
Nhóm trưởng có rhể phân công mỗi thành viên trong nhóm xác định cho một từ .
Nhóm 2 : Học sinh xác định được đúng từ loại cho những từ “ đi” , “ thấy ”, “ ra ”, “ soi ”, “ lỗi lạc ”, “ to ”, “ ưa nhìn ”, “ bướng”.
( Có thể yêu cầu mỗi thành viên xác định từ loại cho 1- 2 từ ).
Nhóm 3 : Học sinh nhận xét về nghĩa của các từ “ đã ”, “ vẫn chưa ”, “ cũng ”, “ được ”, “ ra ”, “ rất ”, “ thật ”.
Nhóm 4 : Học sinh cần thiết lập được mô hình cụm động từ ( hoặc cụm tính từ ) và điền vị trí của các từ đã tìm được vào mô hình.
Phần phụ trước
Phần trung tâm
Phần phụ sau
Học sinh trao đổi , thảo luận trong nhóm.
Cử đại diện trả lời.
c/ Thảo luận , tổng kết trước cả lớp.
Đại diện nhóm trình bày trước lớp : lần lượt từ nhóm 1 – 5 , 2 – 6 , 3 -7 , 4 – 8.
Sau khi nhóm 1-5 trình bày xong thì dừng lại để các bạn trong lớp nêu câu hỏi .
Học sinh thảo luận , giáo viên sửa chữa nếu cần ( bổ xung một vài tư liệu đã chuẩn bị bằng bảng phụ nếu cần thiết ).
Cuối cùng giáo viên tổng kết được vấn đề đã đưa ra .
+ Nội dung 1 : Học sinh phân tích được:
đã đi , vẫn chưa thấy , cũng ra , thật lỗi lạc
Soi gương được , to ra , rất ưa nhìn , rất bướng.
+ Nội dung 2 : Học sinh xác định được đúng từ loại :
Động từ : đi , thấy , ra , soi .
Tính từ : lỗi lạc , to , ưa nhìn , bướng .
+ Nội dung 3 : Học sinh nhận xét được nghĩa của các từ “ đã ”, “ vẫn chưa ”, “ cũng ”, “ được ”, “ ra ”, “ rất ”, “ thật ” chỉ có ý nghĩa ngữ pháp , không có ý nghĩa từ vựng .
+ Nội dung 4 : Học sinh xác định đúng vị trí của các từ:
Phụ trước “ đã ”, “ vẫn chưa ”, “ cũng ”, “ rất ”, “ thật”
Phụ sau : “ được ”, “ ra ”.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung ghi nhớ 1 để hiểu được phó từ là gì.
Trong lớp học , phương pháp học tập hợp tác trong nhóm nhỏ được tổ chức ở cấp nhóm , tổ . Phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ rất có nhiều lợi ích ; Tuy nhiên mỗi tiết học chỉ nên từ 1 đến 3 hoạt động nhóm . Không nên sử dụng quá nhiều ảnh hưởng đến nội dung khác vì thời gian của một tiết học là có hạn định , nội dung kiến thức lại rất dài.
Phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ huy động được mọi học sinh tham gia . Học sinh được nói nhiều hơn , được suy nghĩ nhiều hơn như vậy đã phát huy được tính tích cực trong mỗi học sinh . Tuy nhiên để truyền thụ kiến thức , giáo viên không chỉ sử dụng một phương pháp dạy học này mà là sự phối kết hợp nhiều phương pháp .
2/ Kết quả đạt được.
Để nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn ở trường THCS cần rất nhiều yếu tố và một yêu cầu không thể thiếu được là việc đổi mới phương pháp day – học , phát huy được vai trò chủ động sáng tạo của học sinh . Là một giáo viên trẻ , kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều hơn nữa việc giảng dạy chưa được xuyên
Suốt chương trình đổi mới nên việc áp dụng kinh nghiệm này vào thực tế giảng dạy còn hạn chế nhưng trong quá rình giảng dạy tôi đã thường xuyên áp dụng
phương pháp giảng dạy hợp tác trong nhóm nhỏ ở các tiết học và tôi nhận thấy học sinh đã biết cách học tập theo phương pháp mới này . Các em hăng hái , tích cực suy nghĩ . Được nói ra những điều mình nghĩ , các em cảm thấy hào hứng , phấn khởi hơn . Hơn nữa các em nhận thấy trong sự thành công trung của cả lớp có phần đóng góp của mình , của nhóm mình. Từ đó không khí lớp học trở nên sôi nổi , hào hứng hơn.
Kết quả mà tôi đạt được chưa nhiều nhưng bước đầu phương pháp này đã dần hình thành trong học sinh phương pháp học tập theo hướng đoàn kết , hợp tác , giúp đỡ lẫn nhau, huy động được sự tham gia tích cực của từng cá nhân và tập thể tạo không khí thi đua học tập và mang lại kết quả học tập cao hơn. Kết quả này không chỉ đạt được ở môn Ngữ văn mà còn ở tất cả các môn học khác.
Dưới đây là một vài số liệu chứng minh cho những kết luận của tôi . Số liệu có được trên cơ sở tôi sử dụng phương pháp điều tra , thống kê ở lớp
Bảng 1 : Thái độ học tập của học sinh đối với môn Ngữ văn :
Thời điểm
Lớp
Không thích
Bình thường
Thích
Đầu năm
Cuối kỳ I
Đầu năm
Cuối kỳ I
Đầu năm
Cuối kỳ I
Năm học :
2005-2006.
Bảng 2 : Kết quả học tập môn Ngữ văn ( lấy điểm thi KSCL ).
Thời điểm
Lớp
Dưới TB ( % )
TB – Khá
Giỏi
Đầu năm
Cuối kỳ I
Đầu năm
Cuối kỳ I
Đầu năm
Cuối kỳ I
Năm học :
2005-2006.
3/ So sánh đối chứng.
Trước khi áp dụng kinh nghiệm
Sau khi áp dụng kinh nghiệm
2. Giáo viên chỉ đưa ra một hình thức thảo luận và yêu cầu học sinh thảo luận .
3. Việc áp dụng phương pháp dạy học này chỉ là hình thức , giáo viên đưa ra câu hỏi cho học sinh thảo luận quá dễ , các em có thể trả lời ngay được.
4. Giáo viên dự kiến thời gian không hợp lí.
5. Lớp học lộn xộn vì các em tranh nhau nói hoặc do làm xong trước thời gian quy định hoặc trầm buồn vì các em không ai chịu trao đổi , bàn bạc.
2. Giáo viên đã vận dụng linh hoạt các hình thức học tập nhóm trong khi cho học sinh thảo luận.
3. Giáo viên đưa ra được các câu hỏi phù hợp để học sinh làm việc theo nhóm.
4. Giáo viên đã biết phân bố thời gian hợp lí cho từng câu hỏi.
5. Học sinh học tập tích cực hơn , tham gia thảo luận sôi nổi hơn. Không khí lớp học vui vẻ , hào hứng hơn.
Khi chưa áp dụng kinh nghiệm này, qua dự giờ tôi thấy giáo viên còn lúng túng trong việc hướng dẫn học sinh thảo luận . Nhiều giáo viên không thường xuyên sử dụng phương pháp này trong dạy học hoặc sử dụng phương pháp này chỉ là hình thức . Đứng trước thực trạng đó tôi đã mạnh dạn đưa ra kinh nghiệm này . Tôi nhận thấy khi áp dụng kinh nghiệm này hoạt động thày – trò , trò – trò phối hợp nhịp nhàng hơn , không khí lớp học sôi nổi hơn , học sinh hăng hái học tập hơn.
Tuy nhiên khi áp dụng kinh nghiệm này tôi cũng gặp một số khó khăn :
Về giáo viên :
+ Thời gian cho một tiết học có hạn định , nội dung bài học rất dài . Nếu cho học sinh thảo luận mà không giải quyết được vấn đề đưa ra sẽ làm ảnh hưởng đến việc truyền thụ nội dung bài học .
+ Còn lớp học có số lượng học sinh đông gây khó khăn trong việc tổ chức , theo dõi , điều khiển hoạt động.
Về học sinh .
+ Các em còn chưa quen với phương pháp học tập mới nên còn gặp khó khăn , đôi khi điều này dẫn đến các em rụt rè trong hoạt động học , không dám nói nên những suy nghĩ của mình.
+ Một số em học khá , giỏi không tham gia thảo luận trao đổi cùng các bạn ; Các em thường làm việc độc lập. Một số em yếu hay ỷ lại các bạn khác trong nhóm.
+ Một số phương tiện dạy học còn thiếu ( tranh ảnh , máy chiếu …..) gây khó khăn cho giáo viên và học sinh trong việc vận dụng phương pháp dạy học này .
Phương pháp mới kéo theo nhiều điều mới lạ , bất ngờ , hứng thú nhưng nó cũng gây cho chúng ta không ít những khó khăn . Do yêu cầu đổi mới giáo dục phục vụ cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá . Phương pháp tích cực cần được phát triển và nhanh chóng trở thành phổ biến trong nhà trường. Vì vậy giáo viên phải được đào tạo chu đáo , được tập huấn các lớp thay sách thường xuyên để thực hiện vai trò là người gợi mở , cố vấn , trọng tài trong hoạt động tìm tòi , tranh luận sôi nổi của học sinh .
IV. Bài học kinh nghiệm.
Đúc rút một kinh nghiệm hay là một quá trình lao động vất vả , khó nhọc và khoa học . Nó đòi hỏi người giáo viên phải tận tâm , kiên nhẫn . Trong quá trình thể nghiệm , tôi rút ra được một số bài học bổ ích sau :
* Đối với giáo viên :
Khi soạn bài , giáo viên phải đầu tư nhiều công sức và thời gian để thực hiện bài trên lớp với đúng vai trò của mình.
Giáo viên phải tích cực tự học , tự bồi dưỡng chuyên môn , nghiệp vụ .
Chỉ khi ta hiểu đúng và sâu về phương pháp dạy học thì khi áp dụng mới thành công.
Giáo viên cần coi trọng việc chuẩn bị những câu hỏi đặc biệt những câu hỏi có yêu cầu cao về nhận thức có thể cho học sinh thảo luận trong nhóm .
* Đối với học sinh.
Phải chuẩn bị bài trước ở nhà , đọc thêm các sách tham khảo để nâng cao vốn hiểu biết.
Tham gia nhiệt tình , tự giác vào các hoạt động học tập .
Mạnh dạn trình bày những hiểu biết , suy nghĩ của mình trước tập thể.
V. Phạm vi áp dụng .
Kinh nghiệm này của tôi có thể áp dụng trong các tiết dạy Ngữ văn ở nhà trường THCS.
VI. Những vấn đề còn bỏ ngỏ .
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh là một quá trình lâu dài . Không thể ngày một , ngày hai mà đông đảo giáo viên từ bỏ được kiểu dạy học truyền thụ kiến thức theo kiểu tiếp thu thụ động đã quen thuộc từ trước . Việc phát triển các phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi cả thày và trò phải tìm hiểu , nghiên cứu kĩ tác phẩm , phải mất nhiều thời gian , công sức hơn nghĩa là phải làm việc nhiều hơn .
Phần trình bày về kinh nghiệm này còn là một vấn đề nhỏ trong các phương pháp dạy học tích cực . Còn một số phương pháp dạy học tích cực khác cần được phát triển mà tôi chưa có điều kiện đề cập đến . Để giảng dạy có hiệu quả một giờ học môn Ngữ văn cần có sự phối kết hợp linh hoạt của các phương pháp dạy học theo hướng đổi mới và các phương pháp truyền thống.
C. Kết luận.
Vai trò của người giáo viên là hết sức to lớn , quyết định đến sự thành công của hoạt động học tập của học sinh và chất lượng giáo dục . Trong giảng dạy môn Ngữ văn , giáo viên chỉ có nhiệt tình thôi chưa đủ , mà phải có phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực lấy học sinh làm trung tâm.
Khi thực hiện kinh nghiệm này , tôi có một số băn khoăn muốn đưa ra để đồng nghiệp và các các nghành quan tâm hơn nữa :
Một là : Giáo viên phải tích cực hơn nữa trong phong trào đổi mới phương pháp dạy , tạo hứng thú , say mê trong học Văn ở học sinh.
Hai là : Cần đầu tư mở rộng thư viện phòng đọc , bổ xung các loại sách tham khảo , tranh ảnh minh hoạ cho các tác phẩm , máy chiếu… để phục vụ cho giáo viên và học sinh.
Ba là : Kinh nghịêm của tôi đưa ra rất mong nhận được sự góp ý cụ thể
của đồng nghiệp để việc giảng dạy đạt kết quả cao hơn góp phần không
ngừng nâng cao chất lượng giáo dục.
Trên đây là những suy nghĩ của tôi nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn . Có thể trong kinh nghiệm này của tôi còn nhiều thiếu sót . Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thày cô và các em học sinh . Tôi xin trân trọng cảm ơn.
mục lục
Số TT
Nội dung
Trang
A.
B.
I.
II.
III.
1.
2.
3.
IV.
V.
VI.
C.
Đặt vấn đề
Giải quyết vấn đề.
Điều tra thực trạng trước khi nghiên cứu vấn đề.
Phương pháp nghiên cứu.
Những công việc thực tế đã làm.
Những công việc thực tế đã làm.
Kết quả đạt được.
So sánh đối chứng.
Bài học kinh nghiệm .
Phạm vi áp dụng.
Những vấn đề bỏ ngỏ.
Kết luận.
Nhiều ưu điểm tuy học sinh mới áp dụng phương pháp này nhưng các em đều hứng thú trong học tập và kết quả học tập đạt rất cao . Trong quá trình giảng dạy , tôi luôn quan tâm , tìm tòi đổi mới phương pháp dạy học và được các đồng nghiệp động viên giúp đỡ . Mặt khác tôi đã được học tập về đổi mới phương pháp qua các văn bản chỉ đạo , các tài liệu của nghành , qua các buổi hội thảo , các lớp học bồi dưỡng thường xuyên. Nên tôi mạnh dạn đưa ra đây một kinh nghiệm giảng dạy có nhan đề “ Vận dụng phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ trong việc giảng dạy môn Ngữ văn ở trường trung học cơ sở ”. Khi đưa ra kinh nghiệm này tôi không hy vọng đó là một phương pháp tối ưu nhưng tôi hy vọng kinh nghiệm này của tôi góp phần nhỏ bé trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn Ngữ văn ở trường THCS.
File đính kèm:
- PP day hoc nhom mon ngu van.doc