Một người Hà Nội – Con người từ góc nhìn văn hoá

Trong Một người Hà Nội, Nguyễn Khải viết bằng sự trải nghiệm của chính ông, một người gắn bó Hà Nội, am hiểu sâu sắc nếp sống thanh lịch Tràng An từ chính gia đình ông. Nhân vật bà Hiền là một gương mặt đặc biệt mang những nét tính cách Hà Nội đậm nét. Một con người đã chứng kiến những thay đổi trong suốt những năm tháng Hà Nội chuyển mình từ xã hội tư sản trước cách mạng thành Hà Nội theo mẫu hình xã hội chủ nghĩa. Những cơn trở dạ của lịch sử đã hằn dấu vào tâm tư những người Hà Nội với tất cả những tác động vào nếp sinh hoạt, nhưng dường như nét “bảo thủ” trong tâm hồn Hà Nội không dễ gì chấp nhận sự thay đổi phá vỡ đi nếp sống ngàn năm văn vật. Biệt tài của Nguyễn Khải dường như phát huy rất rõ nét trong tác phẩm này, đó là khả năng lý giải những biến chuyển trong tâm hồn, lý giải mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh. Nhưng có thể thấy sự khác biệt trong cách lý giải của nhà văn từ Mùa Lạc viết những năm 58 - 60 đến Một người Hà Nội viết vào thập kỷ 90. Nhân vật chị Đào trong Mùa Lạc là con người hoà nhập vào hoàn cảnh cuộc sống mới, vượt qua những mặc cảm thân phận, lột xác hồi sinh, từng bước hoà nhập với cộng đồng. Còn ở Một người Hà Nội, bà Hiền xuất hiện trong tác phẩm là một người dường như không dính dáng những biến động chính trị, nhưng vẫn chịu sự tác động của hoàn cảnh môi trường. Đặt vào bối cảnh đầy biến động của lịch sử, người phụ nữ ấy vẫn giữ nếp nhà như một cách ứng xử “dĩ bất biến ứng vạn biến”, giữ vẹn cốt cách người Hà Nội. Cùng với thời gian, sự lịch lãm dường như là tích tụ tinh hoa con người Hà Thành này.Con người trong tác phẩm không nhẹ dạ, cả tin, xốc nổi, sống theo phong trào và cũng không quay lưng với xã hội, sống một cách tỉnh táo cân nhắc. Nguyễn Khải đã lý giải tính cách đặc biệt của bà Hiền từ gốc gác gia đình, miêu tả một cách tỉ mẩn nếp ăn, ở, sinh hoạt mang theo phong thái kiểu cách, sang trọng, luôn đề cao nếp nhà. Nhân vật có lý lịch phức tạp: vừa phong kiến, vừa có hơi hướng tư sản. Nếu xét theo tiêu chí thành phần, thì bà Hiền lại có gốc gác lao động mà nên, mà giàu có một cách lương thiện, một lý lịch rối rắm đến nỗi con cháu trong nhà cũng coi bà là tư sản, một thành phần cần phải lánh xa trong xã hội mới nếu không muốn chuốc lấy phiền toái. Vậy mà, một nhân vật đã từng giao du với giới văn nghệ sĩ Hà Thành nổi tiếng lịch lãm và tài hoa từ khi còn trẻ, đến lúc lập gia đình lại gắn cuộc đời với một ông giáo tiểu học, âu cũng là sự khác lạ trong tính cách, trong quan niệm về tình yêu và hôn nhân. Bà Hiền là một kiểu người hoàn toàn không thích hợp với dòng văn học ca ngợi cuộc sống mới, con người mới trước kia, nhưng hoàn toàn không phải là một loại nhân vật trở thành đối tượng phê phán của Nguyễn Khải như “cái thời lãng mạn”.

doc8 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 2542 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một người Hà Nội – Con người từ góc nhìn văn hoá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một người Hà Nội – con người từ góc nhìn văn hoá: Trong Một người Hà Nội, Nguyễn Khải viết bằng sự trải nghiệm của chính ông, một người gắn bó Hà Nội, am hiểu sâu sắc nếp sống thanh lịch Tràng An từ chính gia đình ông. Nhân vật bà Hiền là một gương mặt đặc biệt mang những nét tính cách Hà Nội đậm nét. Một con người đã chứng kiến những thay đổi trong suốt những năm tháng Hà Nội chuyển mình từ xã hội  tư sản trước cách mạng thành Hà Nội theo mẫu hình xã hội chủ nghĩa. Những cơn trở dạ của lịch sử đã hằn dấu vào tâm tư những người Hà Nội với tất cả những tác động vào nếp sinh hoạt, nhưng dường như nét “bảo thủ” trong tâm hồn Hà Nội không dễ gì chấp nhận sự thay đổi phá vỡ đi nếp sống ngàn năm văn vật. Biệt tài của Nguyễn Khải dường như phát huy rất rõ nét trong tác phẩm này, đó là khả năng lý giải những biến chuyển trong tâm hồn, lý giải mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh. Nhưng có thể thấy sự khác biệt trong cách lý giải của nhà văn từ Mùa Lạc viết những năm 58 - 60 đến Một người Hà Nội viết vào thập kỷ 90. Nhân vật chị Đào trong Mùa Lạc là con người hoà nhập vào hoàn cảnh cuộc sống mới, vượt qua những mặc cảm thân phận, lột xác hồi sinh, từng bước hoà nhập với cộng đồng. Còn ở Một người Hà Nội, bà Hiền xuất hiện trong tác phẩm là một người dường như không dính dáng những biến động chính trị, nhưng vẫn chịu sự tác động của hoàn cảnh môi trường. Đặt vào bối cảnh đầy biến động của lịch sử, người phụ nữ ấy vẫn giữ nếp nhà như một cách ứng xử “dĩ bất biến ứng vạn biến”, giữ vẹn cốt cách người Hà Nội.  Cùng với thời gian, sự lịch lãm dường như là tích tụ tinh hoa con người Hà Thành này.Con người trong tác phẩm không nhẹ dạ, cả tin, xốc nổi, sống theo phong trào và cũng không quay lưng với xã hội, sống một cách tỉnh táo cân nhắc. Nguyễn Khải đã lý giải tính cách đặc biệt của bà Hiền từ gốc gác gia đình, miêu tả một cách tỉ mẩn nếp ăn, ở, sinh hoạt mang theo phong thái kiểu cách, sang trọng, luôn đề cao nếp nhà. Nhân vật có lý lịch phức tạp: vừa phong kiến, vừa có hơi hướng tư sản. Nếu xét theo tiêu chí thành phần, thì bà Hiền lại có gốc gác lao động mà  nên, mà giàu có một cách lương thiện, một lý lịch rối rắm đến nỗi con cháu trong nhà cũng coi bà là tư sản, một thành phần cần phải lánh xa trong xã hội mới nếu không muốn chuốc lấy phiền toái. Vậy mà, một nhân vật đã từng giao du với giới văn nghệ sĩ Hà Thành nổi tiếng lịch lãm và tài hoa từ khi còn trẻ, đến lúc lập gia đình lại gắn cuộc đời với một ông giáo tiểu học, âu cũng là sự khác lạ trong tính cách, trong quan niệm về tình yêu và hôn nhân. Bà Hiền là một kiểu người hoàn toàn không thích hợp với dòng văn học ca ngợi cuộc sống mới, con người mới trước kia, nhưng hoàn toàn không phải là một loại nhân vật trở thành đối tượng phê phán của Nguyễn Khải như “cái thời lãng mạn”. Sống trong môi trường xã hội mới, khi những làn sóng qui chụp lý lịch thành phần, sự đề cao đấu tranh giai cấp luôn là nỗi ám ảnh, tác động vào những người trong gia đình:  “Ăn cốt để sống, để làm việc, hay hớm gì cái thứ lễ nghi rườm rà của … giai cấp tư sản”, “đã là tư sản thì không thể tin cậy được” thì bà vẫn sống một cách đàng hoàng sang trọng bởi bà tin tưởng: “Tao có bộ mặt tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được.” Đó là thái độ bình thản trước hoàn cảnh, bất chấp mọi sự nghi kỵ thành kiến. Không hẳn mọi tính cách Hà Nội đều là những giá trị, nhưng nhà văn đã khai thác vào mối quan hệ con người hoàn cảnh theo một cách nhìn mới, không ngần ngại chỉ ra những nét ấu trĩ trong quan niệm của một thời, chẳng hạn cách thích nghi hoàn cảnh chế độ mới, từ chồng đến con bà Hiền đều gọi “đồng chí” với người cháu đến thăm nhà. Hay cái thái độ ứng xử nhằm “thích ứng” của bà Hiền cũng được diễn tả một cách rõ ràng và táo bạo : “Chế độ này không thích cá nhân làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng hay, thiếu ăn là vinh chứ không là nhục, nên tao cũng chỉ cần đủ ăn.” Những câu văn như thế trong Một người Hà Nội là một minh chứng cho sự thay đổi trong quan niệm về con người, của một xu hướng nói thẳng nói thật của văn học thời đổi mới, mà một cách nhìn như vậy trước kia sẽ dễ bị các nhà phê bình qui chụp cho là “mất lập trường”. Nhân vật bà Hiền là một mẫu hình của người Hà Nội với tất cả sự lịch lãm khôn ngoan nhưng không đến nỗi lạnh lùng duy lý: “Mọi sự mọi việc đều được các bà ấy tính toán trước cả. Và luôn luôn tính đúng vì không có lòng tự ái, sự ganh đua, tính thời thượng chen vô. Không có cả sự lãng mạn hay mơ mộng vớ vẩn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ.”. Đó là cách sống biết rõ giá trị và khả năng của mình, nhưng không phải là lối sống ích kỷ, bo bo vun vén cho riêng mình theo chủ nghĩa cá nhân tư sản hoàn toàn. Nhà văn còn khai thác nét tính cách nhân vật khi đặt vào trong những giờ phút trọng đại có ý nghĩa sống còn với dân tộc để người đọc biết đến một sự thực tâm hồn những người mẹ trong thời chiến tranh. Trong văn học trước 1975, có lẽ những hoàn cảnh tiễn người thân ra trận sẽ được khai thác tập trung vào cảm hứng sử thi, ca ngợi hình ảnh người ra đi tươi vui, người ở nhà tin tưởng và lời hẹn trở về trong chiến thắng vinh quang. Nguyễn Khải đã không diễn tả theo đường mòn cũ mà cho chúng ta nhìn thấy một sự thật về con người trong thời chiến. Người mẹ ấy đã chấp nhận cho đứa con đầu ra mặt trận, trong một tâm trạng thật đặc biệt như bao bà mẹ khác. Khi người cháu hỏi : “Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?” bà đã nói ra một sự thật: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hy sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng.”. Xét cho cùng, đó cũng là lòng tự trọng của một người mẹ, của một người ý thức rõ trách nhiệm công dân của mình,trong thời điểm “những năm đất nước có chung một tâm hồn, một gương mặt”. Không chỉ có vậy, cả người con trai thứ hai hừng hực khí thế thanh niên thời đại đòi lên đường, bà cũng có một cách ứng xử thể hiện rõ phẩm cách một người mẹ hiểu rõ tâm tư thế hệ con cháu: “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”. Nhà văn không chỉ khai thác hình tượng người mẹ thời chiến dưới một góc nhìn mới, mà còn thấy được sự ảnh hưởng lan truyền thế hệ, khi lòng tự trọng dân tộc đã hoà quyện niềm tự hào nếp nhà, để những đứa con sống xứng đáng với niềm tự hào của mẹ. Cái tinh tế trong đời sống tình cảm của người Hà Nội chính là thái độ biết chia sẻ trước đau thương mất mát của người mẹ khác. Trong giờ phút hân hoan mừng chiến thắng, điều xúc động lại chính là nỗi đau thấm thía được phát biểu qua câu nói của Dũng – con bà Hiền, người lính can trường trở về trong vinh quang nhưng hiểu rõ giá trị của sự hy sinh, khi sáu trăm sáu mươi người trai Hà Nội ra đi chỉ trở về hơn bốn chục người, khi người bạn thân nằm lại chiến trường ngay trước giờ chiến thắng: “Cháu biết nói thế nào với một bà mẹ có con hy sinh, mà bạn của con mình lại vẫn còn sống, sống đến bây giờ, đến hôm nay”. Đó là giá trị nhân bản của cuộc chiến đấu, được tính bằng máu! Không thể vì niềm hân hoan hội ngộ, vinh quang chiến thắng mà được phép quên đi! Nguyễn Khải đã khai thác vào một góc khuất của chiến tranh mà trước đó văn học ta mới chỉ khai thác cái hùng tráng mà chưa nói nhiều về bi kịch của từng gia đình, từng số phận trong chiến tranh. Vào thời điểm ấy, cách nhìn của nhà văn đã có sự chuyển hướng so với văn học giai đoạn trước, hướng đến với cái bình thường.           Bà Hiền đã giữ nếp nhà bất di bất dịch suốt một đời người. Đó thực chất là cái mà nhà văn đã từng tâm niệm: “Nói cho cùng, để sống được hàng ngày tất nhiên phải nhờ vào những “giá trị tức thời”. Nhưng sống cho có phẩm hạnh, có cốt cách nhất định phải dựa vào những giá trị bền vững” (Nguyễn Khải, tuyển tập tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn, Hà nội, 1999). Giá trị văn hoá ấy kết tụ trong một người phụ nữ vô danh, bình thường cũng đã kết tụ tầng sâu văn hoá đất kinh kỳ xưa. Ngay cả khi cơn lốc dữ dội của nền kinh tế thị trường làm xói mòn đi nếp sống của Hà Nội ngàn năm văn vật thì cũng không thể làm lay chuyển ý thức của những con người luôn tin vào giá trị văn hoá bền vững của Hà Nội không thể mất đi. Chỉ ra những nét tính cách phức tạp nhưng hết sức hợp lý của một người phụ nữ bình thường, Nguyễn Khải đã đề cao nét đẹp văn hoá Hà Nội ẩn chứa trong nhân vật bà Hiền. Từ lời ăn tiếng nói, cách giáo dục con cháu thể hiện sự nền nã và nghiêm khắc: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện buông tuồng (…) Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ còn sau này muốn sống sao thì tùy” đến cách sống biết tổ chức trật tự và làm sang trọng con người: từ ăn, mặc, ở hàng ngày đến những thú chơi tỉ mẩn gọt củ thủy tiên đón giao thừa của người Hà Nội xưa từng được Nguyễn Tuân ca ngợi, bà Hiền là biểu tượng không chỉ của một thời vàng son đã qua của Hà Nội mà còn là hiện thân của văn hoá Tràng An đứng vững trong bao đảo điên thường nhật. Có thể tính cách bà Hiền còn những điều phải bàn cãi để đi đến một sự nhận diện có tiêu biểu cho tính cách người Hà Nội gốc hay không, nhưng như nhà văn khẳng định: “Với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn luôn là thời vàng son. Mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi.”. Không những thế, ông còn bày tỏ thái độ ca ngợi con người biết trân trọng những giá trị tâm linh, như cây si cổ thụ đền Ngọc Sơn vẫn vững chãi qua thời gian. Dẫu có lúc bị bật gốc, nhưng nhờ những con người còn biết lưu giữ những giá trị đích thực của quá khứ mà cây cổ thụ đã được hồi sinh. Những giá trị văn hoá bền vững không bao giờ mất đi, mà như nhà văn ước ao những giá trị ấy sẽ hoá thân vào hiện tại: “Bà già vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá. Một người như cô phải chết đi thật tiếc, một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng.”. Quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Khải đã xuất phát từ góc nhìn văn hoá, khắc phục bệnh sơ lược một chiều trong cách nhìn con người cá nhân của văn học giai đoạn trước đó.  Điều đó làm nên khuynh hướng sáng tác chủ đạo của Nguyễn Khải trong thời đổi mới, bộc lộ một thái độ tỉnh táo điềm tĩnh của nhà văn trong việc soi chiếu vào những ngóc ngách đời thường muôn mặt. Chiếc thuyền ngoài xa – con người trần trụi đời thường: Điểm Ngôi sao Blog: 18 (3 lượt) Top of Form | Bình chọn: Bottom of Form   “Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện thường không đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập trung chú ý vào thân phận con người, tính cách nhân vật và đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm dồi dào ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống, bút pháp chân thực và một giọng văn trữ tình trầm lắng ấp áp” (Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người, T.C Văn học, 1993, số 3, tr.20). Có thể nói Chiếc thuyền ngoài xa là một biểu hiện của xu hướng tìm tòi khám phá trong văn của Nguyễn Minh Châu, trở về với đời thường, với mảnh đất miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong cuộc sống đời thường trăm đắng ngàn cay. Trên tinh thần quyết liệt đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với cộng đồng nhưng Nguyễn Minh Châu còn muốn thể hiện một quan niệm văn chương trước hết phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong phú với tất cả chiều sâu.           Hiện thực của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa không phải là bức tranh hoành tráng của mảnh đất chiến trường xưa A So từng ghi dấu bao chiến công, cũng không phải là những con người tạc dáng đứng hào hùng của mình vào lịch sử. Nhân vật Phùng trở về với mảnh đất từng chiến đấu, một người lính năm xưa giờ là phóng viên ảnh trở về ghi lại những vẻ đẹp cuộc sống đời thường cho bộ ảnh lịch quê hương đất nước, phản ánh cuộc sống lao động khoẻ khoắn tươi rói của những con người dựng xây đất nước, đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của màn sương buổi sáng bổ sung cho tấm ảnh lịch hoàn chỉnh  (!). Thế nhưng, những gì anh chứng kiến đã khiến anh và những người bạn của mình nhận ra một sự thật  gắn với cuộc sống của những người dân chài lam lũ: “Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất nào”. Từ cuộc sống ấy, những bi kịch tiềm ẩn khiến con người phải ngỡ ngàng. Một câu chuyện đơn giản nhưng đã chứa đựng những phát hiện mới mẻ hàm chứa quan niệm văn chương hướng về con người của Nguyễn Minh Châu. Nếu chỉ nghĩ suy một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh sáng cách mạng sẽ đổi đời cho số phận người lao động, sẽ xoá tan những bi kịch đè nặng lên kiếp người. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ cho chúng ta : cách mạng không phải giải quyết bi kịch trong một sớm một chiều, con người vẫn phải đối diện với những bi kịch đời mình, dung hoà với nó. Cách lý giải về con người của Nguyễn Minh Châu còn ẩn chứa những suy ngẫm về số phận dân tộc phải trải qua những khổ đau để đối diện với hiện thực bao thách thức.            Người nghệ sĩ nhiếp ảnh đi tìm những vẻ đẹp đích thực của cuộc sống, ngỡ như anh đã phát hiện ra một khung cảnh thật đáng yêu đáng ca tụng, hướng người xem về cái đẹp có thể làm quên đi những phiền não cuộc sống: “Qua khuôn hình ánh sáng, tôi đã hình dung thấy trước những tấm ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời.” . Và những người dân vùng biển ấy hiện lên thật đáng yêu, đáng ca ngợi: cuộc sống lao động đầm ấm khoẻ khoắn, những con người gặp gỡ thật đáng yêu…Tất cả những ấn tượng ấy sẽ không bị phá vỡ nếu như không có sự xuất hiện của chiếc - thuyền – ngoài – xa. Người đàn ông xuất hiện cùng với người đàn bà trong khung cảnh nên thơ đã nhanh chóng phá vỡ đi cảm giác thăng hoa nghệ thuật bằng trận đòn  dây lưng quật thẳng tay vào người vợ không thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh cuộc sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho cuộc sống này “người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu). Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận bùng phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như “gã đàn ông “độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian”, còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình. Hành động tấn công gã đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: “Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh”. Nhưng phản ứng của người đàn bà trước ông chánh án đã khiến anh choáng váng: “Quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách mạng có lòng tốt nhưng “các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi gió bão.Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đàng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh. Hoá ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản : người đàn ông kia dù cục súc nhưng trên chiếc thuyền phải có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần trong bữa ăn trên chiếcthuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nào…Thế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến.Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về lòng nhân ái, sự khoan dung…mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người. Nếu như trước kia, trong văn học 1945 – 1975, khi đề cập đến số phận con người thì bao giờ các nhà văn cũng đề cao vào khả năng con người vượt qua nghịch cảnh và những tác động của môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con người tìm thấy hạnh phúc. Khi diễn tả sự vận động của tính cách con người, các nhà văn cũng thường nói về sự vận động theo chiều hướng tích cực, từng bước vượt lên hoàn cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách minh họa tư tưởng ấy không tránh khỏi có phần giản đơn và phiến diện. Nguyễn minh Châu đã không đi theo con đường mòn đó. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu.  Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo Văn nghệ), “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người vhà cuộc đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” (Ngồi buồn viết mà chơi). Tư tưởng ấy được thể hiện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa như một minh chứng cho tấm lòng hướng về con người, khả năng giải mã những mặt phức tạp của cuộc đời. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức thấm thía : “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật  nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.”(Lê Ngọc Chương- Chiếc thuyền ngoài xa, một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu). Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của mình đem đến cho công chúng những cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hoá, thế nhưng mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia? Phần kết của tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.”.Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người.

File đính kèm:

  • docNguoi Ha Noi .doc